- Mục Lục Chi Tiết
- 01 Cương Yếu Giới Luật (01-17)
- 02 Cương Yếu Giới Luật (18-45)
- 03 Cương Yếu Giới Luật (46-50)
- 04 Cương Yếu Giới Luật (51-56)
- 05 Cương Yếu Giới Luật (57-85)
- 06 Bồ-tát Giới - Bồ-tát Danh Và Thiệt
- 07 Xuất Gia Hoằng Phật Đạo
- 08 Giới Là Bậc Thầy Cao Cả Nhất
- 09 Khai Đạo Giới Tử Thọ Bồ-tát Giới
- 10 Thọ Giới Là Làm Cho Phật Pháp Miên Trường Giữa Thế Gian
Thích
Thiện Siêu
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo – 2002
57. Tập Tăng tác.
58. Thứ hậu tác.
59. Kiết-ma phi
tướng.
60. Dự dục.
61. Nhận dự dục.
62. Dự dục không
thành.
63. Kiết đại giới
bên Tăng và bên Ni.
64. Xuất gia thọ
giới.
65. Tỳ-Kheo.
66. Đời sống
A-la-hán.
67. Hòa thượng.
68. Y chỉ.
69. Nên học và
không nên học.
70. A-xà-lê.
71. Nguyên nhân
thuyết giới.
72. Bố-tát.
73. Mục đích
Bố-tát.
74. Trung gian
Bố-tát.
75. Cách thuyết giới.
76. Già thuyết
giới.
77. Không đủ tư
cách ngăn thuyết giới.
78. Đủ tư cách
ngăn thuyết giới.
79. Triển ngày
thuyết giới.
80. An cư.
81. Tiền An cư,
hậu An cư.
82. Thọ nhật.
83. Tự tứ.
84. Cầu thính.
85. Y đệ ngũ luật
sư.
57. Tập Tăng
tác.
Trong các pháp
kiết-ma đó có loại kíết-ma tập Tăng tác, tức khi tập Tăng làm kiết-ma liền. Ví
dụ như thọ giới, kiết giới, nhưng trừ hai trường hợp là Tự tứ và thuyết
giới.
58. Thứ hậu
tác.
Thứ hậu tác là gì?
Trước khi thuyết giới, Tự tứ, phải có một ngày dự bị tập chúng để kiểm điểm
chúng Tăng có thanh tịnh không. Nếu ai có lỗi thì phải lo sám hối trước để ngày
mai được thanh tịnh mà kiết-ma Tự tứ, thuyết giới, gọi là kiết-ma thứ hậu tác.
Tổ chức Tự
tứ, nhiều khi làm luộm thuộm quá nên kết quả không được như ý, nhất là khâu tập
chúng mà lộn xộn thì trái lời Phật chế.
Ngũ phần
luật có nói: “Muốn thuyết giới, muốn Tự tứ mà Tăng bất hòa, thì trước khi
thuyết giới, Tự tứ, Tăng phải giải hòa đã, vì việc thuyết giới, Tự tứ là việc
chính yếu của Phật chế, Tăng không dám giải tán”. (Dục thuyết giới Tự tứ, như
Tăng bất hòa, ưng tại thuyết giới Tự tứ chi tiền hòa giải, dữ thuyết giới Tự tứ
do Phật chế chi chánh yếu, Tăng bất cảm giải tán). Nếu đến khi thuyết giới, Tự
tứ mà giải tán là trái với chính yếu của Phật. Có người nói rằng, Tăng
bất hòa mãi thì không thuyết giới, không Tự tứ được, như vậy mãi sao? Thuyết
giới Tự tứ cốt là hòa, nếu không hòa thì làm sao mà thuyết? Tăng hòa ở đây chủ
yếu là không có bốn việc: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh, sự tránh (như đã
nói ở đoạn trước). Tăng bất hòa mà không giải thì thuyết sao được? Nên phải
hiểu cái nào chính cái nào phụ, cái nào trước cái nào sau; không lấy cái khinh
mà làm cái trọng được.
Tóm lại, mục
đích thuyết giới cốt để nhắc lại sự trì giới, và cơ bản là trì giới, còn thuyết
giới là phụ, để hỗ trợ thêm, như cây mà mình tưới thêm nước. Cây vốn phải sống
mới tưới nước, còn không sống thì tưới làm gì? Thành tưới nước không quan trọng
bằng cây sống. Thuyết giới là để hỗ trợ cho giới nên gọi là trưởng tịnh. Giới
có tịnh thì mới trưởng, tức thêm phân cho mau tốt.
Tóm lại,
muốn kiết-ma phải có bốn điều kện là pháp, nhân, sự và xứ. Pháp là nguyên tắc,
thủ tục, phương thức kiết-ma như đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ. Nhân là điều kiện
về nhân sự, nghĩa là nhân số phải đủ. Ví dụ, thọ đại giới ở nơi đông Tăng
(trung quốc) phải đủ 10 vị, ở chỗ ít Tăng (biên địa) 5 vị. Sự là kiết-ma về
việc gì. Xứ là kiết-ma phải làm trong một giới vức nhất định làm khác là sai,
gọi là kiết-ma phi tướng, tức kiết-ma không đúng cách.
59. Kiết-ma
phi tướng.
Là kiết-ma không
đúng cách. Có 7 cách kiết-ma phi tướng:
1. Kiết-ma
phi pháp, phi Tỳ-ni. Chữ Tỳ-ni là Luật, nên hiểu đó là phi pháp, phi luật.
Trong lời di giáo của Phật có nói: “Nay Ta để Pháp và Luật cho các ngươi thọ trì
(nghĩa chung). Thế nào gọi là phi Pháp, phi Tỳ-ni? Kiết-ma không đúng cách,
đáng bạch tứ lại bạch nhị, hoặc kiết-ma trước bạch sau, đó gọi là phi pháp. Một
hai người truyền giới cho người khác, hoặc Tăng bốn người truyền cho bốn người,
đó gọi là phi Tỳ-ni. Ví dụ như khi thọ đại giới, mà một, hai, ba hoặc bốn người
thọ cho một người trở lên, thì dù có làm kiết-ma truyền thọ cũng không thành.
Vì nếu biên địa phải có 5 Tăng (trong đó 1 vị kiết-ma còn 4 biểu quyết). Ở
Trung Quốc, phải có 10 vị mới đúng. Hoặc như 5 người truyền giới cho 4 giới tử
cũng bất thành, vì 4 người là thành Tăng, không lý Tăng truyền giới cho Tăng.
Tăng chỉ được trao giới cho từng vị, chứ không thể cùng lúc trao giới cho 4
người. Do vậy, giới đàn chỉ lần lượt trao giới cho một đến 3 giới tử. Ba vị
cũng là phương tiện, chưa đúng Luật lắm, vì mỗi lần truyền giới, là như ở đời
bà mẹ sinh ra một đứa con, không thể trong một hai giờ mà sinh đẻ quá 3 đứa
con. Đúng lý nhất, phải truyền cho một người mà thôi.
Ngày xưa đức
Phật thấy ai có đủ điều kiện thì cho thọ giới, chứ không cần tổ chức một giới
đàn thật lớn. Tổ chức thọ giới rầm rộ có cái lợi về lượng, và cũng làm cho
nhiều người hộ giới xem đàn mà phát tâm; nhưng cũng có cái hại về phẩm. Vì
trong một giới đàn lớn, thường có nhiều người nhân cơ hội cũng thọ cho luôn:
mặc dù chưa đủ tư cách.
Cử tội
Tỳ-kheo thì phải là Tăng cử, không cá nhân nào có quyền kết tội cá nhân nào. Ba
người cũng không được kết tội, mà phải đủ chúng bốn người trở lên. Nêu tội, thì
có thể một người nêu, nhưng xét tội và kết tội thì phải là chúng Tăng mới xét
và kết tội được. Cũng vậy, chỉ có Tăng 5 người, mười người mới truyền giới cho
người khác, chứ cá nhân không truyền đại giới được.
2. Phi pháp
biệt chúng kiết-ma: Thế nào gọi là phi pháp biệt chúng? Nghĩa là bạch việc này
mà kiết-ma việc khác. Biệt chúng là tách ra khỏi chúng. Đáng bạch nhị mà bạch
tứ, là phi pháp. Thế nào gọi là biệt chúng? Trong chúng có bao nhiêu người,
kiết-ma cần bao nhiêu, thì phải có mặt đủ; nếu vắng mà không dữ dục là biệt
chúng. Người đáng đến không đến, cũng gọi là biệt chúng. Nếu có duyên sự Tam
Bảo thì phải dữ dục, không dữ dục là biệt chúng.
3. Phi pháp
hòa hợp kiết-ma: Ví dụ, người nào cần có mặt thì có mặt, người nào vì duyên sự
Tam Bảo thì dữ dục. Người có mặt thì hòa hợp nhất trí, chứ không có sự bất hòa,
gọi là hòa hợp chúng. Hòa hợp Tăng là một sự hòa hợp triệt để, mười người như
một, dù có một người có mặt, mà tâm không hòa cũng bất thành, chứ không phải
thiểu số phục tùng đa số. Tuy chúng hòa hợp mà kiết-ma lại phi pháp.
4. Như pháp
biệt chúng kiết-ma: Là kiết-ma đúng như pháp nhưng lại biệt chúng thì cũng
thành phi tướng.
5. Pháp
tương tợ biệt chúng kiết-ma: Đáng ra bạch rồi mới kiết-ma, đằng này kiết-ma rồi
mới bạch, thế là lộn ngược, gọi là tương tợ như pháp (có bạch đàng hoàng mà
biệt chúng, nên thành phi tướng).
6. Pháp
tương tợ hòa hợp chúng kiết-ma: Đáng tiên bạch hậu kiết-ma, lại tiên kiết-ma
hậu bạch.
7. Bị giá
như bất chí kiết-ma: Khi kiết-ma thọ giới, một trong 10 vị (thập sư) ngăn không
cho thọ, đúng Luật là không được thọ, nhưng chín ông còn lại vẫn kiết-ma cho
thọ, thì đó là kiết-ma phi pháp. Trong Luật không phải lấy thiểu số phục tùng
đa số, mà là phải hòa hợp triệt để 100 phần trăm mới hợp lệ.
Vậy muốn
kiết-ma cho đúng pháp, phải tránh 7 điều phi pháp trên. Ngoài ra còn 7 việc phi
pháp nữa trong kiết-ma:
1. Nhân phi:
Trong số người tới dự kiết ma mà có lỗi. không chịu sám hối; hoặc nghi có tội
mà không phát lộ, hoặc ở trong một giới mà biệt chúng; hoặc không ngăn những
người bị bất kiến cử, bất thọ hối cử và ác kiến bất xả cử; ba hạng này không
được dự vào, không được thuyết giới... thế mà trong khi kiết-ma không mời họ ra
là nhân phi.
2. Pháp phi:
Ví dụ, 3 vị trở xuống mà vẫn đơn bạch kiết-ma là pháp phi (3 người là đối thú
chứ không đơn bạch).
3. Sự phi:
Làm không đúng thời. Ví dụ, mới tới ngày thứ 12 đã Tự tứ là sự phi. Chỉ kiết-ma
lược Tự tứ khi gặp nạn. Bình thường mà lược Tự tứ cũng là phi.
4. Nhân pháp
phi: Trên là nhân phi pháp phi, đây nhân và sự đều phi.
5. Pháp sự
phi: Trên pháp phi riêng, sự phi riêng, bây giờ pháp và sự đều phi.
6. Nhân pháp
sự giai phi: Ba thứ cùng phi một lần.
Những trường
hợp sau đây cũng gọi là phi pháp phi Tỳ-ni. Ví dụ: Có một Tỳ-kheo tự thấy không
phạm, khi được các Tỳ-kheo khác hỏi, thầy nói không thấy mà Tăng vẫn kiết-ma cử
tội gọi là bất kiến cử; đương sự không thấy tội không sám hối, Tăng vẫn kiết-ma
cử tội bất sám gọi là bất hối cử. Các Tỳ-kheo bắt phải bỏ ác kiến, nên không có
gì phải bỏ, vậy mà Tăng vẫn kiết-ma cử tội ác kiến bất xả, gọi là ác kiến bất
xả cử. Kiết-ma như vậy gọi là kiết-ma phi pháp phi luật.
Ngược lại,
có Tỳ-kheo không thấy có tội mà Tỳ-kheo nói có, thầy cũng sám hối xin bỏ, thì
cũng gọi là phi pháp phi luật. (Khác với Tỳ-kheo Xiển-đà có tội mà nói không
có).
60. Dữ dục.
Muốn đừng mắc tội
biệt chúng thì trong một đại giới, chúng Tăng có bao nhiêu Tăng số, khi thuyết
giới phải có mặt đầy đủ con số ấy. Người nào có duyên sự phải vắng mặt, như vì
Tam Bảo sự duyên, phụ mẫu sự duyên hay lý do chính đáng thì phải dữ dục. Dữ dục
là mình gởi ý muốn của mình đến với buổi thuyết giới đó. Khi dữ dục thì nói,
ngày nay chúng Tăng thuyết giới, tôi xin dữ dục như pháp Tăng hay như pháp Tăng
sự kiết-ma. Nếu dữ dục, khi thuyết giới, Tự tứ thì phải nói đủ là tôi xin dữ
dục thanh tịnh, hoặc dữ dục Tự tứ. Ý nghĩa của việc dữ dục là: Tôi tuy vắng
mặt, nhưng Tăng làm gì tôi xin đồng tình hết. (lưu ý về chữ thanh tịnh và chữ
Tự tứ. Thanh tịnh là nói khi thuyết giới, chữ Tự tứ nói trong khi Tự tứ. Còn
các trường hợp khác, kiết-ma thì không dùng đến). Tất cả mọi kiết-ma đều được
phép dữ dục, chỉ trừ kiết-ma kiết giới là không được phép dữ dục. (Kiết giới
không được phép dữ dục vì cần có mặt để biết giới trường ngang đâu mà thi hành,
còn vắng mặt thì làm sao mà biết được).
61. Nhận dữ
dục.
Một người có thể
nhận lãnh cho một vị hay nhiều vị dữ dục cũng được, miễn là người đó đủ sức nhớ
tên của người gởi, chứ không bắt buộc một người chỉ nhận cho một người dữ dục.
Đến ngày
thuyết giới hoặc Tự tứ mà vì có lý do chính đáng, không đến thì dữ dục người
khác rằng: Bạch Đại đức, hôm nay chúng Tăng thuyết giới (hoặc Tự tứ), tôi xin
dữ dục như pháp thanh tịnh (hoặc dữ dục như pháp Tự tứ). Người nhận dục, khi
đến ngày thuyết giới hoặc Tự tứ, nghe vị yết-ma hỏi thì ra giữa chúng mà thuyết
dục như người kia đã dữ dục.
62. Dữ dục
không thành.
Có 5 trường hợp dữ
dục không thành:
1. Cách đêm
mà dữ dục. Ngày mai mới Bố-tát, tối nay gởi trước, không thành.
2. Đi ra
ngoại giới mà dữ dục. Đã ở ngoại giới thì gởi làm gì nữa, chỉ đang ở trong đại
giới mới dữ dục.
3. Tăng dữ
dục cho Ni hay gởi cho cư sĩ không thành. Ni dữ dục cũng vậy.
4. Dữ dục
rồi hoàn tục coi như không.
5. Dữ dục
rồi lại đến, đến lại đi, không thành.
63. Kiết đại
giới bên Tăng và bên Ni.
Về đại giới, khi
Tăng đã kiết rồi, Ni có thể kiết chồng lên mà đại giới của Tăng vẫn không mất.
Ngược lại, khi Ni đã kiết đại giới rồi mà Tăng kiết đại giới chồng lên cũng
không mất đại giới của Ni–vì Tăng kiết đại giới, Ni không biết. Tóm lại, bên
nào kiết thì bên đó biết, chứ không có tiết lộ cho nhau biết, nên bên nào cũng
được yên ổn hết.
64. Xuất gia
thọ giới.
Những người đầu
tiên đi xuất gia với Phật, Ngài chỉ gọi “Thiện lai Tỳ-kheo” là thành Tỳ-kheo
rồi. Còn Sa-di đi tu đầu tiên là La-hầu-la và Tôn giả Xá-lợi-phất được sai làm
Hòa thượng truyền giới cho La-hầu-la. Sau La-hầu-la, cũng có nhiều em bé đi
xuất gia. Có một lần, một vị Tỳ-kheo lớn tuổi nhận một em bé dưới 12 tuổi cho
xuất gia làm Sa-di. Khi vị Trưởng lão đi khất thực, vị Sa-di đi theo hầu. Khi
tới quán bán bánh nào, em cũng đưa tay ra xin, làm cho các vị Tỳ-kheo thấy xấu
hỗ. Phật nghe vậy liền kêu vị Trưởng lão ấy lên quở. Ngài nói: Các em bé nhỏ
quá, nhận cho đi xuất gia làm gì để cho thiên hạ cơ hiềm. Từ đó Phật không cho
phép các vị Tỳ-kheo nhận các em bé dưới 12 tuổi xuất gia.
Nhưng có một lần,
thấy một em bé dưới 12 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, đến xin Tôn giả Xá lợi-phất
xuất gia. Tôn giả không nhận vì đã có lệnh của Thế Tôn. Tuy nhiên, do từ tâm
đối với em bé mồ côi này, nếu không nhận, em có thể gầy mòn và chết, do vậy Tôn
giả đến cầu xin với Phật. Phật hỏi em có đuổi quạ được không? (Ở Ấn Độ có tục
lệ điểu táng nên quạ sinh sôi nảy nở vô số kể). Em có ăn một bữa được không? Em
có giữ được một số giới không? v.v... Tôn giả bạch Ngài là hi vọng em có thể
giữ được. Ngài đồng ý và bảo Tôn giả Xá-lợi-phất độ cho em bé ấy xuất gia làm
Sa-di đuổi quạ (khu ô Sa-di). Khu ô là chữ của nhà Phật. Sau này các vị Tổ mới
thêm hình đồng Sa-di, là tuy có mặc áo chùa nhưng chưa có giới pháp nào cả, vì
còn nhỏ, rồi đến Pháp đồng Sa-di, là có thọ 10 giới. Trường hợp đủ 20 tuổi, căn
cơ đủ, thì có thể cho thọ Sa-di và sau đó thọ Tỳ-kheo liền cũng đúng Luật. Cũng
có trường hợp ngoại đạo xin xuất gia, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh
mà ấn định ngày cho thọ giới. Người tuổi đã 70 thì dứt khoát không cho thọ
Tỳ-kheo. Một vị Tỳ-kheo được phép 7 lần tu lại nếu họ xả giới đàng hoàng. Về
phía bên Ni, khi đã xả giới rồi thì không được tu lại. Khi thọ giới phải đủ thủ
tục, nhưng khi xả giới thì chỉ cần một câu rằng “tôi nay xin xả giới Cụ túc
(hay không làm Sa-môn)” là đủ, bất cứ nói với ai mà họ nghe và hiểu. Thọ giới
rất khó, như trèo lên cây rất công phu, nhưng khi xả giới thì như từ trên cây
tuột xuống đất rất dễ.
65. Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo, chữ Phạn
là Bhiksu, có nghĩa là thành tựu trọn vẹn. Trung Hoa dịch là cận viên (gần tới
Niết-bàn, tức gần viên tịch) hay bước lên chỗ cao (Upasampada). Upa: gần gũi ở
trên; sampada: đến nơi, thành tựu trọn vẹn.
66. Đời sống
A-la-hán.
Đời sống A-la-hán
có 4 sự thanh tịnh:
1. Được giới
thanh tịnh.
2. Lục căn
thanh tịnh.
3. Mạng sống
thanh tịnh.
4. Niệm
thanh tịnh.
Có người
tưởng nhầm là phải do ít ăn, ít ngủ hay có thể bay lên trời, chui xuống đất mới
gọi là A-la-hán. Nếu thế thì Tôn giả Xá-lợi-phất có bay đâu mà cũng thành
A-la-hán.
67. Hòa
thượng.
Một người thọ giới
rồi mà không có đủ 5 điều kiện sau đây thì suốt đời phải y chỉ nơi một vị thầy
Hòa thượng hay A-xà-lê:
1. Không
biết thế nào là phạm giới.
2. Không
biết thế nào là không phạm giới.
3. Không
biết thế nào là phạm khinh.
4. Không
biết thế nào là phạm trọng.
5. Không
biết tụng giới bổn Tỳ-kheo.
Vị thầy y chỉ là
A-xà-lê hay Hòa thượng. Chữ Hòa thượng là một từ của Tây vức (Tây Trung Quốc
như Quy Tư, An Tức... ngày trước khi chưa rõ địa dư, người ta gọi Ấn Độ là
Thiên Trúc, còn Iran hay An Tức quê Ngài An Thế Cao, thuộc Tây vức). Hòa thượng
là người giám hộ trực tiếp cho đệ tử. Có 3 bậc Hòa thượng:
1. Hòa
thượng thế độ.
2. Hòa
thượng truyền giới.
3. Hòa
thượng y chỉ.
Hòa thượng đủ tư
cách truyền giới và làm thầy cho người khác phải có những điều kiện sau đây:
1. Phải đủ
10 hạ lạp.
2. Biết trì,
phạm, khinh, trọng.
3. Có kiến
thức quảng bác.
4. Giảm được
những tâm tư uẩn khúc trong tâm đệ tử.
5. Đủ sức
đưa đệ tử lầm lạc trở về với chánh pháp, hay giải thích cho đệ tử để phá trừ
những kiến chấp sai lạc.
68. Y chỉ.
Nếu Bổn sư tịch
thì có thể xin y chỉ thầy khác Hoặc thầy bỏ đạo hoàn tục, ra ngoại giới, không
cùng giới với mình nữa; hoặc đệ tử có duyên cần đi chỗ khác ở chứ không ở cùng
thầy nữa, thì có thể xin y chỉ với một thầy khác.
Trừ trường hợp mình tự ý bỏ đi hay thầy không cho y chỉ mà bỏ đi, cũng có khi cả hai bên đều muốn xa nhau nhưng không thể công bố vì lý do nào đó, thì có thể bên thầy hay trò ra khỏi ngoại giới một đêm cho đến khi bình minh xuất hiện trở về, thế là mất y chỉ. Hoặc lên giới trường ngủ một đêm cũng mất y chỉ.
69. Nên học
và không nên học.
Có 4 trường hợp:
1. Thầy
có pháp, có thực. Pháp là giới, định, luệ. Thực là khất thực dễ dàng.
2. Thầy có
pháp, không có thực: có dạy dỗ nhưng khất thực không dễ dàng.
3. Thầy có
thực, không có pháp: khất thực dễ dàng nhưng không ai dạy dỗ.
4. Thầy
không pháp, không thực: không có ai dạy dỗ và khất thực cũng không dễ dàng.
70. A-xà-lê.
A-xà-lê dịch là
quỹ phạm sư, tức là vị thầy mô phạm, gương mẫu. Có 5 hạng A-xà-lê:
1. Thầy
khi xuất gia, tức thầy cho mình xuất gia.
2. Thầy
truyền Đại giới, làm kiết-ma thọ giới cho mình.
3. Thầy giáo
thọ, làm giáo thọ cho mình thọ đại giới.
4. Thầy dạy
kinh: dạy kinh cho mình dù chỉ là 4 câu kệ.
5. Thầy y
chỉ: dù chỉ cho mình trong một đêm cũng là A-xà-lê.
Khi đệ tử đã
thọ giới rồi thì phải học hỏi và thuyết giới.
71. Nguyên
nhân thuyết giới.
Nguyên do có sự
thuyết giới là vì lúc đầu Phật chưa thuyết giới. nhưng ngoại đạo Phạm chí tập
họp một tháng 3 lần để thầy trò tập hợp gặp gỡ sinh hoạt vui vẻ và tín đồ vui
tụ cúng dường hoan hỉ. Vua Bình Sa thấy thế về bạch Phật. Phật cho phép các
Tỳ-kheo một tháng 2 lần gặp gỡ nhau. Lúc đầu vâng lời Phật, họ cũng nhóm họp,
nhưng ai nấy đều ngồi thiền im lặng, bị cư sĩ chê. Phật bèn dạy ngồi lại thì
phải nói pháp. Khi được phép nói pháp thì các Tỳ-kheo phải nói về kinh; khi nói
kinh thì có người nói nghĩa không nói văn, người nói văn không nói nghĩa; người
ngồi tòa cao, kẻ thích tòa thấp; trong khi đó có người tham thiền, có người
kinh hành, thậm chí có kẻ ngủ gục. Do đó không có sự thống nhất trong Tăng
chúng, trong khi đó có một số tân Tỳ-kheo muốn học hỏi nhưng không có ai dạy
dỗ, hướng dẫn. Phật biết và dạy các vị cựu Tỳ-kheo rằng, có nhiều tân Tỳ-kheo
muốn học giới, vậy trong ngày đó phải thuyết giới cho họ nghe. Các Tỳ-kheo khi
nghe Phật dạy thì mừng quá, vì nói kinh thì lại cãi nhau về lý lẽ, ngồi thiền
thì hay ngủ gục, thôi thì thuyết giới là gọn nhất.
72. Bố-tát.
Từ đó chư Tăng, Ni
mỗi tháng 2 lần thuyết giới, còn gọi là Bố-tát. Chữ Bố-tát dịch từ tiếng Phạn
là Uposatha; nghĩa là ngày tịnh trú, trưởng dưỡng, trưởng tịnh. Ngày Bát-quan
trai của cư sĩ cũng gọi là Uposatha.
73. Mục đích
Bố-tát.
Mục đích Bố-tát
thuyết giới là nhắc nhở nhau về giới pháp để tu hành, gọi là trưởng tịnh. Tăng
không An cư chỉ phạm tội Đột-kiết-la. Ni không tiền An cư, phạm Đột-kiết-la,
không hậu An cư phạm Ba-dật-đề . Như vậy đủ biết phạm điều không An cư không
nặng bằng phạm các giới khác. Từ đó đã hình thành ra hai kỳ Bố-tát thuyết giới,
nhưng trường hợp không Bố-tát được thì Luật phụ có ghi (luật chính không nói)
thêm có thể trung gian Bố-tát.
74. Trung
gian Bố-tát.
Nếu có những nạn
duyên xảy ra cho Tăng, không thể giữ đúng hạn kỳ Bố-tát thì có thể triển hạn,
dời sang ngày khác. Những tai họa được kể là do vua quan đưa đến, do đạo tặc,
do lửa, do nước, do bệnh, do người, do ma quỷ hay thú vật. Việc thuyết giới
không tác pháp được trong hai ngày theo định kỳ chính thức mà thực hiện trong
khoảng giữa hạn kỳ này với hạn kỳ sau, được gọi là trung gian Bố-tát. Trừ hai
ngày chính thức Bố-tát trong tháng và một ngày trước và một ngày sau của hai
ngày đó, những ngày còn lại gọi là trung gian. Ví dụ, nếu 15 âm lịch phải
thuyết giới, nhưng do tai họa, phải dời qua ngày 17, 18... triển hạn lâu nhất
là đến 28 hoặc 27 (nếu tháng thiếu). Nếu Bố-tát ngày 30 bị đình chỉ thì dời qua
ngày mồng 2 và lâu nhất là đến 13. Việc thuyết giới không được tiến hành hai
ngày liền nhau. Nếu hạn kỳ chót của ngày trung gian Bố-tát chưa thực hiện được,
thì việc thuyết giới định kỳ trước sẽ hợp lại làm một với định kỳ sau.
Trường hợp chúng
Tăng bất hòa mà Bố-tát thì bị Đột-kiết-la. Trong khi Bố-tát, có khách Tăng đến
thì có thể dự. Nếu khách Tăng nói, chưa từng nghe giới, xin nói giúp. Trong khi
mình thuyết giới gần xong, thì cứ thuyết cho xong rồi nói lại cho khách Tăng
nghe, nhưng không yết-ma vấn hòa gì nữa. Thuyết giới xong có khách Tăng đến,
nếu khách Tăng tùy hỉ thì thôi, nếu không thì nên đem ra ngoại giới thuyết cho
khách Tăng nghe, vì trong một giới trường không được thuyết hai lần cho một kỳ
Bố-tát.
75. Cách
thuyết giới.
Có 5 cách thuyết
giới:
1. Khi
gặp nạn chỉ thuyết bài tựa.
2. Chỉ
thuyết đến phần trọng giới Ba-la-di.
3. Chỉ
thuyết đến hết phần Tăng-tàn.
4. Chỉ
thuyết đến hết phần bất định.
5. Thuyết
trọn vẹn.
76. Già
thuyết giới.
Nếu có người muốn
ngăn người khác thuyết giới, thì hỏi: đã đến bạch Thượng tọa chưa. Khi đến
bạch, vị Thượng tọa hỏi: Thầy có đủ 5 pháp không mà muốn ngăn thuyết giới? 5 pháp
là :
1. Ngăn
cản cho đúng lúc, đúng thời (thời bất dĩ phi thời).
2. Chỉ nói
sự thật (thật bất dĩ phi thật).
3. Việc ngăn
đó có lợi ích không (lợi ích bất dĩ vô lợi ích). .
4. Phải nói
lời dịu ngọt, êm ái, không hung tợn (nhu nhuyến bất dĩ thô khoáng).
5. Ngăn vì
từ tâm, không phải ác tâm (từ tâm bất dĩ ác tâm).
Tóm lại, muốn nêu
lỗi phải đúng lúc, rằng chuyện đó là thật chứ không phải thêu dệt, có lợi cho
người ta, phải nói lời ôn tồn dịu ngọt, do lòng từ tâm mà nói. Thượng tọa
khuyên người ấy rằng, nếu thấy không đủ 5 đức thì đừng ngăn. Nếu thầy nói tôi
đủ 5 đức thì tiếp tục hỏi: Vậy đã bạch Trung tọa chưa?–Có. Vậy đã bạch Hạ tọa
chưa? Có. Khi ấy hỏi tiếp: Người mà thầy muốn nêu lên là do phạm giới thuộc
loại nào? Về kiến hay về oai nghi? Nếu do nghe, thấy thì do ai? Nơi nào? Nếu
người kia không đáp được thì khuyên thôi đi, thầy đừng bày chuyện phá Tăng nữa.
77. Không đủ
tư cách ngăn thuyết giới.
Mặt khác, lrong bộ
Căn bản Mục-đắc-ca nói: Có 12 hạng người không được ngăn thuyết giới, Bố-tát,
Tự tứ là:
1. Người
ngu: tức là người có ác tướng, ác ngôn, ác tác.
2. Người si:
tức là người không có thọ trì Tam tạng.
3. Vô trí:
không hiểu văn giáo của Tam tạng.
4. Không
thiện xảo: tức không rõ nghĩa lý trong Tam tạng.
5. Vô tàm:
người không có tâm hỗ thẹn.
6. Người có
sự hiềm khích, tức trước đây đã hiềm khích lẫn nhau, thù oán với nhau, giờ thấy
cơ hội, đem ra đấu đá lẫn nhau.
7. Người ở
ngoại giới nói vọng vào can ngăn.
8. Người bị
xả khí (ác bất kiến xả).
9. Người nói
lộn xộn, không đầu đuôi.
10. Người xả
oai nghi: đang đứng chỗ này chạy qua chỗ khác, lộn xộn.
11. Người
thất bổn tánh: làm những việc không đáng làm, không biết tu giới tu luật.
12. Thọ học
(học trò), người đang học không có quyền ngăn chặn kiết-ma.
78. Đủ tư
cách ngăn thuyết giới.
Có 4 hạng người có
quyền ngăn:
1. Người trú bổn
tánh: Tức người biết tu giới, biết làm việc đáng làm, không làm việc không làm
việc không đáng làm.
2. Người nói có
thứ lớp, không rối loạn.
3. Người không xả
oai nghi.
4. Người ở nội
giới.,ở trong nội giới mới ngăn được, ở ngoại giới bất thành.
79. Triển ngày
thuyết giới.
Ví dụ: Ngày 15 âm
lịch là ngày thuyết giới, nhưng có chúng Tỳ-kheo hay ưa gây gỗ từ nơi khác sắp
đến thì phải dời lui một ngày thuyết giới, tức ngày 14. Ngày 14 họ tới thì lui
ngày 13. Ngày 13 họ tới thì đem ra ngoài giới kiết tiểu giới để thuyết giới.
Đem ra ngoại giới mà cũng bị phá thì bạch chúng để kỳ sau. Kỳ sau cũng bị phá
nữa thì phải cưỡng bức hòa hợp để thuyết giới.
80. An cư.
Lý do An cư? Có
thể tóm lại trong 2 lý do:
– Lý do thứ nhất,
trong kinh Trường A-hàm nói: ông Đại-điển-tôn là tiền thân của Phật, thiên hạ
khen ông là người đức hạnh, rằng ông là người đã từng thấy Phạm thiên, nhưng kỳ
thật ông chưa thấy. Do lời thiên hạ khen nên ông nảy ra ý định An cư để cho
thật thấy Phạm thiên.
– Lý do thứ hai,
là khi đức Thế Tôn ở Xá-vệ, trong vườn ông Cấp-cô-độc, nghe lời than phiền của
các cư sĩ về Lục quần Tỳ-kheo cứ đi lang bạt kỳ hồ trong thiên hạ, không kể
ngày tháng giờ giấc gì hết, nên bị thiên hạ cơ hiềm. Các vị cư sĩ so sánh
rằng, ngoại đạo cũng có 3 tháng An cư, cũng như loài cầm thú cũng biết thời
gian tránh mưa, trái lại sao mấy thầy Tỳ-kheo đệ tử của Phật lại đi lung tung,
không biết nghỉ ngơi gì cả, lại đạp côn trùng chết lăn chiên đỏ đất. Họ cơ hiềm
chê bai. Do cơ hiềm như vậy nên Phật dạy phải An cư ba tháng.
Vậy An cư nghĩa là
gì? An là an tịnh nội tâm, còn cư là kỳ hạn cư trú trong suốt thời gian nhất
định nào đó. Đến ngày An cư, nếu là Tỳ-kheo thì bắt buộc ai cũng phải thọ An cư
hết. Bên Trung Hoa, ngày xưa đến ngày An cư, họ còn áp dụng tới mức độ phát thẻ
hành trù tức thẻ phát ra cho từng người rồi thâu lại, đếm trên số thẻ để biết
hiện có bao nhiêu người An cư. Cho đến Phật và hộ pháp họ cũng phát thẻ luôn.
Như vậy, người nào có mặt, dù lớn dù nhỏ đến ngày ấy cũng phải An cư, thậm chí
họ còn mời luôn Phật và hộ pháp cũng phải An cư và phát thẻ. Đó là tư cách và
bổn phận của người tu sĩ.
81. Tiền An
cư - hậu An cư.
Trong phép An cư
thì ai cũng phải thọ An cư nếu là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni, đệ tử của Phật. Thọ
An cư cũng như thọ giới, mỗi người tự mình nói lên, hoặc ba người tự nói lên
trước một vị Tỳ-kheo Thượng tọa để thọ An cư. Nếu tiền An cư thì bắt đầu từ 16
tháng tư âm lịch và hậu An cư từ những ngày 17 tháng 4 đến 16 tháng 5 âm lịch.
Dù hậu An cư cũng phải theo
ngày tiền An cư mà
Tự tứ, nhưng Tự tứ rồi phải ở trong hạ cho đủ 90 ngày rồi mới ra hạ, mặc dầu
theo tiền An cư mà Tự tứ.
82. Thọ
nhật.
Thọ nhật tức là
trong 3 tháng An cư mà có duyên sự phải ra ngoài đại giới. Nếu thọ nhật thì chỉ
được phép thọ nhật 7 ngày. Thọ nhật bảy ngày thì chỉ đối thú với một người
trong chúng mà nói: Thưa Đại đức, tôi có việc nọ việc kia, phải ra khỏi đại
giới 7 ngày, xong 7 ngày trở về, khi về cũng phải báo lại. Nếu trường hợp chưa
đến 7 ngày mà trở về, khi về cũng phải báo. Trường hợp đi trên 7 ngày thì phải
bạch Tăng chứ không đối thú cá nhân nữa, và chỉ được đi ra khỏi đại giới trong
mùa An cư tối đa 40 ngày thôi. Thí dụ An cư 90 ngày, phải có 50 ngày ở trong
đại giới, kiết hạ thì mới khỏi mất hạ. Xin đi 7 ngày mà đi quá 7 ngày cũng mất
hạ. Khi có các nạn xứ, phòng xứ, có duyên sự xin đi nơi khác, tại đó có An cư
mà mình tiếp tục An cư ở đó thì không mất hạ. An cư xong rồi, phải chấm dứt An
cư bằng lễ Tự tứ.
83. Tự tứ.
Phạn tự Pravarana,
Trung Hoa dịch âm Bát-hòa-la, nghĩa là Tự tứ. Kinh Vu-lan gọi Bát-hòa-la phạn
tức là cơm cúng dường trong ngày Tự tứ. Tự tứ cũng còn gọi là thỉnh thỉnh hay
tùy ý: Nghĩa là mình tự nói lên lời yêu cầu người khác chỉ lỗi cho mình theo
chỗ thấy, nghe, nghi của họ để mình nếu có đúng như họ thấy, nghe, nghi thì xin
sám hối cho thanh tịnh. Trong khi thuyết giới có hỏi câu: “Chư Đại đức có thanh
tịnh không” thì mình mới trả lời, còn trong khi Tự tứ, không đợi hỏi mà phải
nói ra, để yêu cầu người khác tự do nói lên lỗi của mình, và mình nếu có lỗi
thì sám hối một cách vui vẻ Câu Tự tứ như vầy: “Đại đức nhất tâm niệm, hôm nay
chúng Tăng Tự tứ, tôi Tỳ kheo... cũng Tự tứ. Nếu Đại đức thấy, nghe hoặc nghi
tôi có tội, xin Đại đức chỉ cho, tôi nếu thấy có tội, sẽ như pháp sám hối” (nói
ba lần).
Lúc đầu Phật chế
luật An cư cho các Tỳ-kheo, nhưng có các Tỳ-kheo nói với nhau: Thôi, cả năm
mình nói nhiều rồi, nay An cư chỉ làm thinh. Trong suốt mùa An cư, chỉ lấy tay
ra dấu thôi. Họ đồng ý với nhau như vậy, nên tất cả đều im lặng. An cư xong về
hầu Phật, Phật hỏi: An cư có vui vẻ không, có hòa hợp không? Mọi người cho
biết, trong mùa An cư này, họ chỉ im lặng, không nói gì cả, chỉ ra dấu thôi.
Phật nói: Phải tương giáo, tương giới, sám hối thanh tịnh, an lạc, chứ làm vậy
thành như dê câm, không được. Khi Phật cho phép như vậy thì Lục quần Tỳ-kheo cứ
đi chỉ lỗi của người khác lộn xà ngầu lên hết, bị Phật quở. Phật nói rằng, muốn
chỉ lỗi người khác phải đủ năm đức.
84. Cầu
thính.
Trước khi chỉ lỗi
cho ai phải cầu thính, tức báo cho họ biết mình sẽ nói lỗi của họ ra trước
Tăng. Nghe vậy, lục quần Tỳ-kheo đi cầu thính lung tung hết, gặp ai cũng cầu
thính. Đến khi người khác đến cầu thính để chỉ lỗi các ông thì các ông đi lơ,
tránh không cho cầu thính. Khi không lơ được thì nhận lời. Nhưng đến giờ thuyết
giới thì không đến. Chư Tăng cũng chịu, không biết làm sao! Do đó, Phật nói
trong trường hợp mãn ba tháng An cư trong ngày Tự tứ không có cầu thính, mà
phải mỗi người tự nói lời cầu thính người khác chỉ lỗi của mình, để mình biết
mà sám hối cho thanh tịnh. Trong Tự tứ phải thực hiện phép đối thú Tự tứ. Ai
cũng phải An cư và ai cũng phải đối thú hết. Có hai cách đối thú:
1. Trước
hết vị chủ pháp sự cầu Tự tứ với vị Tăng sai thọ Tự tứ.
2. Sau đó vị
Tăng sai thọ Tự tứ đối thú với vị chủ pháp sự mà Tự tứ. Sau đó các vị này
đến trước mỗi vị Tăng khác để cho họ Tự tứ, cho đến khi hết người cầu Tự
tứ.
Như vậy,
người thọ Tự tứ (nhận Tự tứ) thì phải có năm đức:
1. Bất ái,
là không thương yêu, thiên vị.
2. Bất nhuế,
là không hiềm khích, oán hận gì hết.
3. Bất bố,
là không sợ. Thầy có lỗi tôi nói mà không sợ thầy oán trách.
4. Bất si,
là biết chính xác, rõ ràng chứ không phải u mê; phạm biết phạm, không phạm biết
không phạm.
5. Biết ai Tự
tứ rồi và ai chưa Tự tứ.
Khi Tự tứ, chúng
Tăng phải đủ năm người trở lên, nếu chỉ có bốn người thì chỉ đối thú Tự tứ, chứ
không kiết-ma Tăng sai người Tự tứ. Về Tự tứ có 4 trường hợp: Định kỳ Tự tứ,
Tăng ích Tự tứ, Giảm nhật Tự tứ, Tăng thượng Tự tứ.
1. Thế nào
là định kỳ Tự tứ? Đó là đủ ba tháng An cư thì Tự tứ, hay còn gọi là Chánh kỳ Tự
tứ.
2. Thế nào
là Tăng ích Tự tứ? Nếu như chúng Tăng tu trong ba tháng, thấy có ích mà muốn tu
tiếp tục thêm một tháng nữa rồi mới Tự tứ xuất gia, gọi là Tăng ích.
3. Giảm nhật
Tự tứ: Nếu nghe có chúng Tăng ở trú xứ khác sắp đến quấy rầy thì giảm đi một
ngày mà Tự tứ. Thay vì ngày 15 bây giờ 14. Nếu giảm không được thì họ đã vô nội
giới rồi, thì tìm cách ra hiệu cho nhau ra ngoài giới kiết-ma Tự tứ.
4. Tăng
thượng Tự tứ: Nếu ra ngoài giới kiết-ma Tự tứ cũng không được, thì lui ngày 30
kỳ sau một kỳ để Tự tứ. Đến ngày 30 không Tự tứ được thì lui đến ngày 15 tháng
sau nữa Tự tứ. Nếu lui như thế mà không được nữa thì bắt buộc phải cưỡng bức
hòa hợp Tự tứ.
85. Y đệ ngũ
Luật sư trì luật.
Thế nào là đệ ngũ
Luật sư?
1. Vị
Tỳ-kheo nào đọc thuộc giới bổn từ đầu đến 30 xả đọa, thì gọi là đệ nhất Luật
sư.
2. Vị
Tỳ-kheo nào đọc thuộc giới bổn từ đầu đến Ni-tác-kỳ Ba-dật-đề, gọi là đệ nhị
Luật sư.
3. Vị Tỳ-kheo
nào đọc thuộc toàn cả giới bổn, gọi là đệ tam Luật sư.
4. Vị
Tỳ-kheo nào đọc thuộc Nhị bộ luật (cả bên Tăng và bên Ni) gọi là đệ tứ Luật sư.
5. Vị
Tỳ-kheo nào đọc thuộc Nhị bộ luật và thông hiểu rộng rãi, thì người An cư y
theo vị đệ ngũ Luật sư này để trì Luật, gọi là đệ ngũ Luật sư.