Chánh Pháp số 72 tháng 11 năm 2017

01/11/20174:39 CH(Xem: 7696)
Chánh Pháp số 72 tháng 11 năm 2017
biachanhphap72

NỘI DUNG SỐ NÀY:

¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2

¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4

¨ MÙA THU NÀO TA VỀ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 9

¨ PHẨM PHÁP SƯ TRONG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA (HT. Thích Thắng Hoan), trang 8

¨ ÁO GIÁP CỦA BỒ TÁT (Nguyễn Thế Đăng), trang 10

¨ TRẢI NGHIỆM CUỘC ĐỜI (thơ Thích Viên Thành), trang 11

¨ CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 12

¨ TỬ VẬN CỦA MÙA THU (thơ Trần Thiên Thị), trang 13

¨ THONG DONG TRƯỚC TÁM NGỌN GIÓ ĐỜI (TN. Tịnh Quang), trang 14

¨ BIẾT ĐÂU VỀ (thơ Hoàng Xuân Sơn), trang 15

¨ BÓNG CÒN TỎA THIÊN THU / CUNG TIỄN GIÁC LINH (thơ Vĩnh Hữu & Tôn Nữ Thanh Yên), trang 16

¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHÃ (HT. Thích Nguyên Trí) 17

¨ THỰC TẬP NHƯ THẾ NÀO (Tuệ Uyển dịch), trang 18

¨ BÊN PHẬT, NIỆM PHẬT, TUỔI THƠ PHẬT TỬ (thơ Lê Minh Hiền), trang 22

¨ MÙA THU VĨNH VIỄN, TA Ở BÊN ĐỜI… (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 24

¨ THÀNH KÍNH PHÂN ƯU: HT. THÍCH ĐỨC NIỆM VIÊN TỊCH (Hội Thân Hữu Già Lam), trang 25

¨ E.M. HARE & J.B. HORNER  (HT. Thích Trí Chơn), trang 26

¨ HẠNH XUẤT GIA, NGHE CHUÔNG… (thơ Chúc Hiền), trang 29

¨ TỨ NHIẾP PHÁPPhật Pháp Thứ Năm (Nhóm Áo Lam), trang 30

¨ THÀNH CÔNG LÀ MỘT SỰ NHẪN NẠI TRONG KIÊN TRÌCâu chuyện dưới cờ (Thị Nguyên Nguyễn Đình Khôi), trang 32

¨ VỀ MUỘN (thơ Diêu Linh), trang 32

¨ CÔNG ÁN THỜI @ (TN Diệu Phúc), trang 33

¨ KAPPA, XẢ ĐI (thơ Nguyễn Bảo Lễ), trang 34

¨ SỰ PHỤC HƯNG MÔN PHÁI TRÚC LÂM (Nguyễn Lang), trang 35

¨ PHẬT GIÁOCON ĐƯỜNG ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN (Tâm Cảnh - Nguyễn Ngọc Cảnh), trang 39

¨ THÔNG BẠCH SỐ 1 – KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN 8 (HT. Thích Thông Hải), trang 47

¨ MÙA THU, HƯƠNG LÚA VÀ THƠ, CHO MÙA THU(thơ Mặc Phương Tử), trang 48

¨ NHỮNG NGƯỜI PHẬT TỬ JUBU (Nguyên Giác), trang 49

¨ CÁT HOA, ĐI RONG (thơ Hoa Cát Phan Văn), trang 51

¨ TRÁI CÂY (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 52

¨ THẦN CÂY ĐA (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 54

¨ TRUYỆN NGẮN TRĂM LINH TÁM CHỮ (Steven N.), trang 55

¨ VUI TRONG ĐAU KHỔ (Thích Minh Chiếu sưu tầm), trang 57

¨ MẸ VẦNG TRĂNG THÁI KHÔNG (thơ Bạch Xuân Phẻ), trang 58

¨ CHÁO DƯỠNG SINH (Tâm Diệu), trang 59

¨ LỤC BÁT CUỐI CHIỀU (thơ Bùi Kim Anh), trang 61

¨ THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ (Phan Quỳnh Trâm), trang 62

¨ CHIÊM BAO HẠC TRẮNG (Huệ Trân), trang 64

¨ STORY OF Thera Ujjhanasanni (Daw Mya Tin), trang 65

¨ ĐỪNG ĐI ÊM ÁI VÀO GIẤC NGỦ VĨNH HẰNG (thơ Dylan Thomas – Pháp Hoan dịch), trang 66

¨ THẦN CẬY CÂY ĐA (Tiểu Lục Thần Phong), trang 68

¨ CÓ NGHE THU VỀ, ĐỔI DỜI (thơ Diệu Viên), trang 70

¨ SINH LY TỬ BIỆT (Chú Chín Cali), trang 71

¨ LỄ TÔN TRÍ TƯỢNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT LỘ THIÊN TẠI CHÙA BÁT NHÃ, SANTA ANA (Bình Sa), trang 72

¨ VÙNG ĐẤT MỚI (thơ TN. Giới Định), trang 73

¨ CHIẾC ÁO DIỆU MẦU (Lam Khê), trang 74

¨ BỤI ĐƯỜNG – chương 3 (Vĩnh Hảo), trang 78

¨ NẤU CHAY: CƠM CHIÊN THANH TỊNH (Chơn Nghiêm), trang 88


Thư tòa soạn số 72

Tháng 11.2017 

TA CÒN ĐỂ LẠI GÌ KHÔNG? 

 

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã mở đầu bài thơ Nguyện Cầu (1) bằng câu hỏi ấy. Hỏi mà không hỏi; vì trong câu hỏi đã hàm ý trả lời: ta đi không để lại gì.

Vì sao? – Vì núi sông còn lở, còn bồi, thì một thân bé nhỏ nầy có chi bền chắc mà lưu lại với đời.

“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.”

Thân nầy chẳng qua cũng chỉ được trăm năm. Thân không bền, vậy danh bền chăng? – Danh là cái trừu tượng, không có hình tướng, hẳn nhiên là có thể bền hơn thân. Nhưng nếu sống ở đời mà không làm nên công danh sự nghiệp gì như  lập ngôn của Nguyễn Công Trứ “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông” (2) thì dù đã có cái tên cha mẹ đặt cho, danh nầy cũng chỉ là cái tên bình thường như bao nhiêu người khác: vô danh; và cái thân vô danh cũng sẽ lặng lẽ đi qua cuộc đời trong vòng trăm năm, rồi để lại một nhúm tro, một nấm mồ, danh còn chăng thì còn trên bia mộ dãi nắng phơi sương trong nghĩa trang.

Đến như những người tài hoa trong văn học nghệ thuật, để lại những tác phẩm bất hủ, công danh của họ cũng không thể dài lâu như núi sông, như thiên địa. Vì vậy mà Nguyễn Du tiên sinh đã tự thán, biết ba trăm năm sau còn có ai khóc cho Tố Như (3) nầy hay không! Ba trăm năm cũng là kỳ vọng khá cao, vì lúc ấy Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) chưa được viết. Kể từ năm 1820, khi tiên sinh nằm xuống, đến nay là 197 năm, người khóc Tố Như dường như đã giảm đi nhiều theo thời gian. Truyện Kiều được lưu truyền, ngâm đọc trong dân gian thì hãy còn người thường xuyên nhớ đến Tố Như. Nhưng khi chỉ còn cái tên trong văn liệu, nằm trong văn khố, văn học sử thì không ai dám chắc sẽ tồn tại bao lâu, và người khóc Tố Như e chỉ còn lác đác, năm thì mười họa mới trích dẫn Truyện Kiều xuống từ một trang mạng nào đó.

Thân như thế, danh như thế, ta đi để lại gì không?

Trăm năm sống ở đời, ai cũng để lại một cái gì, di sản hay di họa, cho người ở lại. Di sản hay di họado nơi lợi ích hay thiệt hại, từ hành nghiệp, sự nghiệp của người ra đi. Di sản có khi lợi ích cho một cá nhân, một gia đình, hay một dòng họ; có khi là công ích, làm lợi cho số đông xã hội, quốc gia, hay nhân loại. Di họa cũng thế, có khi là nợ nần hay tai tiếng làm tán gia bại sản, phá nát một dòng họ; có khi sai lầm, hoang tưởng từ chủ thuyết và chính sách, dẫn cả một dân tộc đến chỗ diệt vong.

Sống với nhận thứcchứng nghiệm sâu sắc về nguyên lý nhân-quả, người ta không chỉ tự hỏi, ta đi để lại gì không mà còn nên tự hỏi, ta đi mang theo gì không.

“Để lại gì” là dành cho người ở lại, “mang theo gì” là nghĩ cho chính ta.

Dành cho người không hẳn là vì lợi tha – có khi chỉ vì tình thế bắt buộc mà chính mình không hề nghĩ đến. Nghĩ cho ta chưa chắc là vị kỷ, bởi vì giữa ta và người, trong cuộc tử-sinh nầy, đều có tác động và tương thuộc lẫn nhau bởi nhân-quả. Để lại hay mang theo, là nơi cái “công” mà người ra đi tác tạo trong một đời, cùng với mục đích mà người ấy muốn để lại. Theo quan niệm của người Đông phương, “công” có thể là vật chất hay tinh thần, có thể nhỏ, có thể to lớn, nhưng lợi ích cho đời, cho người, thì gọi là “đức”; còn như chỉ gieo họa dài lâu cho nhiều người, nhiều thế hệ thì đó là “tội.”

Vì vậy khi lập thân, sống ở đời, người ta cần cân nhắc về nguyên nhânhậu quả trong cả hành xử, lời nóiý nghĩ của mình; mục tiêu tạo lập sự nghiệp của mình là gì, để lại cho người hay để mang theo?

Một khi ra đi, sang bên kia thế giới, hẳn nhiên là sẽ không mang theo được gì. Thân xác nầy còn không mang theo được thì tiền của, sản nghiệp, những người thân yêu… đều sẽ bỏ lại hết. Không một thứ vật chất nào có thể mang theo được (dù nhỏ xíu như viên kim cương, hay mỏng nhẹ như một mảnh bằng).

Không nhất thiết phải để lại gì cho đời. Nhưng nếu để lại thì để cho đáng, và cho đúng người, đúng chỗ. Cũng không nhất thiết phải mang theo gì cho nặng nề khi ra đi. Nhưng nếu cần mang theo gì, nên nhớ rằng cái có thể mang theo được là công (đức) hay nghiệp (tội) mà mình đã làm trong cuộc sống trăm năm nầy.

Một di sản (tinh thần hay vật chất) để lại cho người vô tích sự, cho người xấu-ác, thì di sản ấy cũng thành vô dụng, sẽ bị hủy hoại không lâu sau đó; mà nếu kẻ xấu-ác kia sử dụng di sản ấy để làm việc ác, tổn người hại vật, phung phí hưởng lạc cá nhân, thì “công đức” của người ra đi chẳng những không có gì mà còn gián tiếp mang theo nghiệt tội.

Ngược lại, di sản được trao đúng người, được sử dụng đúng việc, mang lại lợi ích cho đời, cho người, thì với tác động dây chuyền của nhân-duyên-quả, di sản ấy không những tăng ích mãi, mà công đức của người ra đi cũng vô hạn lượng. (4)

 

Thu sang rồi.

Đêm về, hơi thu lạnh se sắt. Nhưng khi trời sắp sáng, những luồng gió dữ từ rừng núi thốc về mang hơi nóng hầm hập khô khốc suốt mấy ngày đầu mùa. Khắp nơi, lá chầm chậm chuyển sắc. Lá vàng chen lá xanh. Mai kia lá sẽ khô, rụng. Như bao nhiều đời người đã đến và đi, qua trần gian nầy. Không ai biết có bao nhiêu lá vàng rơi nơi đây, hay lặng lẽ rơi trên rừng thẳm. Cũng không ai quan tâm có những hành giả đến rồi đi, vô tung vô tích trên đỉnh cao mờ bóng mây ngàn. Hạc trắng bay qua tầng không. Không để lại gì. Không mang theo gì. Có chăng là làn gió thoảng, theo sau đôi cánh vỗ; và một trời xanh biếc, bềnh bồng mây trắng bay.

 

California, ngày 25.10.2017

Vĩnh Hảo

(www.vinhhao.info)

 

 

__________________

 

 

(1)  Thơ Vũ Hoàng Chương, trích từ thi tập Rừng Phong, do Nhà xuất bản Phạm Văn Tươi ấn hành năm 1954 (theo Nhà thơ Viên Linh trong “Chiêu Niệm Văn Chương,” trang 121-122):

 

Nguyện cầu

 

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về.

 

Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

 

Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.
Nói chi thua-được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.

 

Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.

 

Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn-mất hơi tàn thanh âm.

 

(2)  Nợ tang bồng, thơ Nguyễn Công Trứ. Nên hiểu rằng đối với Nguyễn Công Trứ và ngữ nghĩa của thời đại ông (hậu bán thế kỷ thứ 18), hai chữ “công danh” không tách rời nhau. Cho nên nói “danh” là nói “công.” Không có công thì không có danh. Ở đầu bài, hai chữ “công danh” này đã được nhắc đến (Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn), nên khi nói “danh” ở câu sau, hàm ý công danh, sự nghiệp đóng góp cho non sông, chứ không phải khuyến khích chạy theo danh vọng như một số người thời nay lầm tưởng và thực hiện cho kỳ được.

(3)  “Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Hai câu cuối của bài Độc Tiểu Thanh Ký, trích từ “Thanh Hiên Thi Tập” của Nguyễn Du, tác phẩm được viết vào khoảng 1802 – 1804 (theo Gs. Lê Thước & Gs. Trương Chính trong “Thơ Chữ Hán Nguyễn Du,” nxb Văn Học, 1978). Tố Như là một bút hiệu khác của Nguyễn Du.

(4)  Như Nobel Prizes, được thành lập năm 1895, là di sản của nhà phát minh người Thụy Điển, Alfred Nobel (1833-1896), tăng ích mỗi năm trên những giải thưởng dành cho các cá nhân và tổ chức sáng tạo, cống hiến lợi ích cho nhân loại qua các lĩnh vực Vật lý (Physics), Hoá học (Chemistry), Y học (Medicine), Văn học (Literature) và Hòa bình (Peace). Đến năm 1968 thì Swedish National Bank lập thêm giải Khoa học Kinh tế (Economic Sciences) để tưởng nhớ Alfred Nobel.


pdf_download_2
ChanhPhap 72 (11.17)


Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
04/03/2024(Xem: 45600)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.