Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ về điều tâm niệm thứ tám trong Mười điều tâm niệm trích từ sách Bảo Vương Tam-muội Niệm Phật Trực Chỉ (寶王三昧念佛直指). Điều tâm niệm thứ tám nói rằng: Thí đức bất cầu vọng báo (施德不求望報), và sau đó có phần giải thích: Đức vọng báo tắc ý hữu sở đồ (德望報則 意有所圖) Lại giải thích thêm rằng: Ý hữu đồ tất hoa danh dục dương (意有圖必華名欲揚). Hòa thượng Trí Quang dịch điều tâm niệm này sang tiếng Việt là: “Thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.”
Hiểu sát theo nguyên ngữ thì việc “thí đức” là làm những chuyện gây tạo phúc đức, trong đó không hẳn chỉ có việc thi ân cho người khác, mà là bao gồm tất cả những chuyện tốt đẹp, lợi mình lợi người. Vì thế, chữ “báo” theo sau cũng không chỉ giới hạn trong sự báo đáp của người được ta giúp đỡ, thi ân, mà hàm nghĩa rộng hơn là tất cả những phước báo tốt đẹp mà người làm điều thiện sẽ được hưởng.
Cũng có thể hiểu rằng khi ta làm bất kỳ việc tốt đẹp nào thì điều tất nhiên là sẽ có người khác được hưởng lợi, vì thế cũng xem như đã thi ân với người, và sự báo đáp mà ta mong cầu là đến từ người được ta giúp đỡ. Tuy nhiên, cách hiểu này có phần hẹp nghĩa hơn so với nguyên tác muốn nói, vì việc “thí đức” vốn rộng lớn hơn, và trong nhiều trường hợp khi sự lợi lạc là rộng khắp đến nhiều người thì sẽ không thể đề cập đến một đối tượng hàm ân cụ thể. Ví như người bỏ tiền xây một cây cầu ở miền quê, hàng ngàn người sẽ được lợi lạc khi qua lại, nhưng chắc chắn sẽ không ai nghĩ đến sự báo đáp trực tiếp từ những người sử dụng cây cầu. Theo một tâm lý thực tế hơn, người “thí đức” theo cách này nếu có cầu mong sự báo đáp thì đó chính là nghĩ đến những quả báo tốt đẹp mà anh ta sẽ được hưởng trong tương lai. Vì thế, trọn câu này có thể dịch sát nghĩa là: “Gieo trồng phúc đức không mong được báo đáp, vì như thế là trong lòng có sự mưu tính.”
Thực ra, tâm lý “mong cầu báo đáp” được đề cập ở đây là một điều khá tinh tế và không dễ phân biệt rõ. Khi người làm việc phúc đức mà lòng tin chắc vào những kết quả tốt đẹp trong tương lai thì không nên xem đó là mong cầu báo đáp. Bởi nếu không nghĩ đến điều này thì người ấy có phần rất dễ rơi vào chỗ chưa tin sâu nhân quả. Với người đã tin sâu nhân quả thì chuyện “nhìn nhân biết quả” đã trở thành điều tất yếu mà không thể xem là mong cầu, vì là tất yếu phải như vậy. Tuy nhiên, cái ranh giới mong manh giữa nhận biết nhân quả với mong cầu báo đáp sẽ rất dễ dàng bị vượt qua, mà chỉ dấu báo hiệu chính là ở phần giải thích thêm trong nguyên tác: “Lòng có mưu tính thì nuôi lớn thêm danh tiếng hảo.” (Ý hữu đồ tất hoa danh dục dương.)
Thật ra, ở cương vị phàm phu như hầu hết chúng ta thì việc khởi tâm làm điều hiền thiện, phúc đức thường không ra ngoài hai trường hợp. Thứ nhất, muốn tu dưỡng, hoàn thiện bản thân mình, quyết chí hướng thượng để thoát khỏi những nỗi khổ đau vì tham lam, sân hận, si mê... Thứ hai, muốn có được một đời sống tương lai tốt đẹp hơn so với hiện tại, nhờ vào những nhân lành phúc đức được gieo trồng vào lúc này.
Đa số chúng ta hẳn rơi vào trường hợp thứ hai. Cho dù ta có mong cầu được báo đáp hay không thì niềm tin chắc chắn vào tương lai tốt đẹp vẫn chính là động lực thúc đẩy ta làm việc thiện lành phúc đức. Không có niềm tin ấy, điều tất nhiên là không ai có thể chấp nhận khó nhọc hoặc thậm chí đôi khi nguy hiểm để làm việc nhân đức.
Rơi vào trường hợp thứ nhất như trên là một số rất ít những người đã có nhân duyên nhiều đời tu tập theo hướng xuất thế. Đối với họ, những hạnh phúc thế gian đã không còn sức cám dỗ lôi cuốn, vì họ nhận chân ra được những khổ đau luôn ẩn tàng phía sau. Do đó, con đường hướng đến của họ là thoát ly mọi khổ não chứ không phải đi tìm một trạng thái “nhiều vui ít khổ”. Từ động lực này, họ tu tập các hạnh lành, làm mọi điều phước thiện chỉ duy nhất vì một mục đích là để tu dưỡng, hoàn thiện bản thân mình. Bởi có như vậy họ mới có thể vươn lên và tiến tới trên con đường tu đạo xuất thế. Những vị này tất nhiên sẽ chẳng bao giờ khởi tâm mong cầu khi làm việc phước đức.
Nhưng như đã nói, đa số chúng ta là rơi vào trường hợp còn lại. Một khi ta làm việc phước thiện thì hoặc là được thúc đẩy bởi niềm tin vào nhân quả và mong đợi một cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai, hoặc với một động lực thô thiển hơn là mong cầu sự báo đáp cho những điều tốt đẹp đã làm. Thật ra, trong cả hai trường hợp này thì kết quả tốt đẹp vẫn là điều tất nhiên sẽ đến, nhưng mức độ “lợi nhuận” mà ta có được là hoàn toàn khác xa nhau. Đây mới chính là ý nghĩa sâu xa trong lời khuyên của điều tâm niệm thứ tám này.
Về mặt
tâm lý, ta thấy nguyên bản Hán văn đã chỉ ra khá
chính xác tâm trạng của
đa số người khi
thực hiện những điều
phước thiện. Một khi khởi sinh
ý niệm mong cầu
báo đáp,
lập tức một phản xạ tính toán,
so sánh sẽ được kích hoạt ngay, nhằm giúp ta xác định xem sự việc có đáng để “bỏ công”
thực hiện hay không. Nói theo
từ ngữ trong bản văn thì đó là sự “mưu tính”, và một khi trong lòng có sự mưu tính thì cái hư danh “hơn người” của mỗi
chúng ta sẽ
ngay lập tức được
vuốt ve, nuôi lớn. Cái hư danh này rất
tinh tế, khó thấy, nhưng
tác hại thì lại
vô cùng, vì nó tiềm tàng mọi điều
xấu xa có thể khởi sinh trong tương lai. Một người khi làm
từ thiện có thể
hoàn toàn không
mong đợi nhận lại bất kỳ
lợi ích vật chất nào, nhưng lại có thể ngấm ngầm tức giận khi người được giúp đỡ có
thái độ thiếu
thiện cảm hoặc thậm chí chỉ là đã không...
cảm ơn về sự giúp đỡ. Trong nhiều
trường hợp khác, người làm việc tốt tuy không mong cầu được
báo đáp, nhưng lại âm thầm
quảng bá, truyền rộng những điều mình làm để mong cho được nhiều người biết đến. Tất cả những
hành vi này chung quy cũng chỉ là vì chịu sự
thúc đẩy của cái gọi là “hư danh” mà thôi.
Điều mà
chúng ta ít khi lưu ý đến là chính sự chạy đuổi theo “hư danh” như thế sẽ dễ dàng bóp chết mọi niềm vui
trong sáng của
chúng ta khi làm được những việc
tốt lành. Bởi trong lòng ta
trĩu nặng những
lo nghĩ về sự “mưu tính”
đánh bóng tên tuổi bản thân mình, nên không còn chỗ cho sự phát sinh những niềm vui
trong sáng vốn rất
tự nhiên và nhẹ nhàng
sinh khởi mỗi khi ta làm được điều gì đó
tốt đẹp cho
cuộc đời.
Vì thế,
kinh Kim Cang đã
vô cùng sâu sắc khi dạy rằng: “Bồ Tát theo đúng pháp, nên lấy
tâm không chỗ trụ mà làm việc
bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi
hình sắc mà
bố thí, chẳng nên trụ nơi
âm thanh, hương thơm,
mùi vị,
cảm xúc,
pháp tướng mà
bố thí.”
Tâm đã không vướng bận vào
hình sắc,
âm thanh,
mùi vị... thì làm gì còn có chỗ cho hư danh khởi sinh, thôi thúc? Do đó mà người
thực hiện hạnh
bố thí sẽ giữ được
bản tâm trong sáng tròn đầy, chỉ biết mỗi một việc là đang
tu dưỡng hoàn thiện chính mình, không còn
quan tâm đến những
giá trị hư dối của
thế gian.
Thế nhưng, đó là chuyện của hàng
Bồ Tát. Còn “phàm phu chi nhân” như
chúng ta thì trong
thực tế là không mấy ai có thể thực sự
đi theo đúng
con đường xuất thế như vậy. Giữa chốn
bụi trần, khi mọi
cảm thọ vẫn còn mạnh mẽ,
âm thanh hình sắc vẫn còn nhiều
tác động, thì việc
khởi tâm bố thí nói riêng, hay làm việc
phước đức tốt đẹp nói chung, lẽ nào lại có thể xem là vô ích?
Cho nên,
chúng ta cũng không nên lớn tiếng
chê trách người khác khi thấy họ
làm việc phước thiện mà mong cầu
báo đáp hoặc
chạy theo hư danh. Tất nhiên như thế là không
hoàn hảo, nhưng vẫn còn
tốt đẹp hơn nhiều so với những kẻ
suốt đời chỉ biết bo bo hám lợi, không một chút tiền tài công sức đóng góp vào việc chung hay làm
công ích xã hội.
Vấn đề ở đây là, điều
tâm niệm thứ tám không nhằm giúp ta
dựa vào đó để
chê trách những người chưa
hoàn hảo, mà nó chỉ là dạy cho ta biết thế nào là
hoàn hảo mà thôi. Như trong
kinh Kim Cang,
đức Phật có dạy: “Nếu
Bồ Tát bố thí với
tâm không trụ tướng,
phước đức ấy chẳng thể suy lường.”
Điều khác biệt ở đây chính là ở chỗ khi ta có thể làm việc
phước đức với tâm
trong sáng không mong cầu, không
vướng mắc, thì
tự nhiên kết quả
đạt được của
việc làm ấy,
phước đức của
hành vi ấy, sẽ là “chẳng thể suy lường”,
hay nói cách khác là sẽ lớn lao
vô cùng tận.
Ngược lại, những kẻ
phàm phu cho dù có thể tránh được những
tâm niệm thô như mong cầu sự
báo đáp từ người được giúp đỡ, nhưng rất khó lòng dứt hẳn được sự “mưu tính” khi nghĩ đến những kết quả
tốt đẹp ngày sau, những
phước báo trong tương lai. Mà như thế tức là đã có
vướng mắc, đã có mong cầu, không
thể đạt được
phước báo vô lượng. Nhưng đó là
sự thật đối với hầu hết
chúng ta, nên cần có sự nhìn rõ,
chấp nhận, mới có thể tự mình
tu dưỡng tốt hơn.
Hiểu được điều này,
chúng ta sẽ tránh cho mình được tâm trạng
mặc cảm khi
nhận ra những mong cầu hay
thôi thúc tinh tế mỗi lúc ta làm một điều gì
tốt đẹp,
phước thiện. Điều tất nhiên là
cần phải luôn
tỉnh giác để không
chạy theo hư danh hoặc mong cầu
báo đáp từ người được giúp đỡ, nhưng cũng không vì thế mà băn khoăn tự trách khi
nhận ra mình chưa thực sự “vô cầu”.
“Gieo trồng
phúc đức không mong được báo đáp” là một tâm trạng
vô cùng cao quý, thoát tục. Tuy mỗi
chúng ta đều không dễ
đạt đến, nhưng nó lại như ngọn hải đăng luôn
sáng ngời giúp định hướng cho ta trong
cuộc đời này.
Chúng ta cần
hiểu rõ rằng, mỗi khi
phát tâm làm được một điều gì
tốt đẹp,
lợi ích cho người khác, nếu trong tâm ta càng gần với
trạng thái “vô cầu”, không
vướng mắc, thì
lợi lạc thực sự mà việc ấy mang lại, cả
vật chất lẫn
tinh thần,
chắc chắn sẽ càng lớn lao hơn. Ngược lại, càng chịu sự
thôi thúc bởi những toan tính mong cầu, bởi những “mưu tính” dù
hết sức tinh tế, thì sự
lợi lạc từ
hành vi phước thiện của ta cũng sẽ theo đó mà
suy giảm, nhỏ nhoi hơn.
Với điều
tâm niệm thứ tám này,
chắc chắn chúng ta sẽ không còn lầm đường
lạc lối trong việc tu tạo
phước đức, mà mỗi một
việc làm với sự
tỉnh giác suy ngẫm về điều
tâm niệm này đều sẽ có
giá trị giúp ta
tu dưỡng tự thân để ngày càng trở nên
hoàn thiện,
tốt đẹp hơn.