THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP HAI
H.T Thích Thanh Từ
Tu Viện Chơn Không 1971
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
ĐỜI THỨ NĂM SAU LỤC TỔ
A.Phái Hành Tư.
1. Thiền sư Lương Giới ở Động Sơn khai Tổ tông Tào Động.
2. Thiền sư Tăng Mật.
3. Thiền sư Khánh Chư ở Thạch Sương.
4. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử.
5. Thiền sư Thiện Hội ở Giáp Sơn.
B.Phái Hoài Nhượng.
6. Thiền sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế khai Tổ tông Lâm Tế.
7. Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh.
8. Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn -Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng.
9. Thiền sư Trí Nhàn ở Hương Nghiêm.
10. Thiền sư Thường Thông ở núi Tuyết Đậu.
11. Ni Liễu Nhiên ở Mạt Sơn.
12. Thiền sư Tuyên Giám ở Đức Sơn.
Động Sơn - Khai Tổ Tông Tào Động - (807-869)
Sư họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhã đến câu ?vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý?, Sư chợt lấy tay rờ mặt hỏi thầy:
- Con có mắt, tai, mũi, lưỡi? cớ sao trong kinh nói không? Ông thầy kinh lạ, bảo:
- Ta chẳng phải thầy của ngươi.
Ông giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc.
*
Sư du phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:
- Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?
Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi có bạn liền đến.
Nam Tuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.
Sư thưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.
*
Kế đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:
- Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói ?vô tình thuyết pháp?, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?
Qui Sơn bảo: - Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.
Sư thưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.
Qui Sơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?
Sư thưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.
Qui Sơn bảo: - Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.
Sư thưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?
Qui Sơn bảo:
- Ở Lễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.
Sư bèn từ Qui Sơn thă?g đến Văn Nham.
*
Đến Vân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?
Vân Nham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.
Sư hỏi:- Hòa thượng nghe chăng?
Vân Nham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.
Sư thưa:- Con vì sao chẳng nghe?
Vân Nham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?
Sư thưa:- Chẳng nghe.
Vân Nham bảo:
-Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?
Sư hỏi:-Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?
Vân Nham bảo:
- Đâu không thấy kinh Di-đà nói: ?nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp??
Ngay câu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:
Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!
Vô tình thuyết pháp bất tư nghì
Nhược tương nhĩ thính chung nan hội
Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.
DỊCH: Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!
Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì
Nếu lấy tai nghe trọn khó hội
Phải đem mắt thấy mới liễu tri.
Sư thưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.
Vân Nham hỏi:- Ngươi từng làm gì?
Sư thưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.
Vân Nham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?
Sư thưa:- Hoan hỉ thì chă?g không, như trong đống rác lượm được hòn ngọc sáng.
*
Sư từ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?
Sư thưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?
Văn Nham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?
Sư thưa:- Không.
Vân Nham hỏi:- Phải đi về quê chăng?
Sư thưa:- Không.
Vân Nham hỏi:- Bao lâu trở lại?
Sư thưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.
Vân Nham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.
Sư thưa:- Khó được chẳng thấy nhau.
Sắp đi, Sư lại thưa:
- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi ?tả được hình dáng của Thầy chăng?, con phải đáp làm sao?
Vân Nham lă?g thinh hồi lâu, bảo: - Chỉ cái ấy.
Sư trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:
- Xà-lê Lương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.
Sư vẫn còn hồ nghi.
*
Sau, Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:
Thiết kỵ tùng tha mít
Điều điều dữ ngã sơ
Ngã kim độc tự vãng
Xứ xứ đắc phùng cừ.
Cừ kim chánh thị ngã
Ngã kim bất thị cừ
Ưng tu nhậm ma hội
Phương đắc khế như như.
DỊCH: Rất kỵ tìm nơi khác
Xa xôi bỏ lảng ta,
Ta nay riêng tự đến
Chỗ chỗ đều gặp va.
Và nay chính là ta
Ta nay chẳng phải va
Phải nên như thế hội
Mới mong hợp như như.
Sư đến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúng có câu:
Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!
Phật giới, đạo giới bất tư nghì.
DỊCH
Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!
Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.
Sư hỏi:
- Phật giới, đạo giới chă?g hỏi, người nói Phật giới đạo giới là gì? Chỉ xin nói một câu?
Thủ tọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chă?g nói mau?
Thủ tọa bảo:- Nói chẳng được.
Sư thưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà ?nói chẳng được??
Thủ tọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng dẫn kinh.
Thủ tọa hỏi:- Kinh nói thế nào?
Sư thưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).
Thủ tọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.
Sư thưa:-Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?
Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọi Sư là hỏi chết Thủ tọa.
*
Đến cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840), Sư trụ núi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnh hành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.
Một hôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:
- Hòa thượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?
Sư đáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.
Tăng hỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dường làm gì?
Sư bảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.
Tăng hỏi:
- Hòa thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?
Sư bảo:
- Ta chẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp, chỉ trọng chẳng vì ta nói phá.
Sau, Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là: 1) Chánh trung thiên. 2) Thiên trung chánh. 3) Chánh trung lai. 4) Thiên trung chí. 5) Kiêm trung đáo. Có bài tụng ngũ vị:
Chánh trung thiên
Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền
Mạc quái tương phùng bất tương thức
Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.
Thiên trung chánh
Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh
Phân minh địch diện biệt vô chân
Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.
Chánh trung lai
Vô trung hữu lộ cách trần ai
Đản năng bất xúc đương kim húy
Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.
Thiên trung chí
Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị
Hảo thủ du như hỏa lý liên
Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí
Kiêm trung đáo
Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa
Nhân nhân tận dục xuất thường lưu
Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.
DỊCH
Chánh trung thiên
Đêm tối canh ba trăng rọi hiên
Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết
Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.
Thiên trung chánh
Mất sáng lão bà tìm cổ kính
Rõ ràng đối diện đâu riêng chân
Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.
Chánh trung lai
Đường cái trong không cách trần ai
(bụi bặm)
Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ
Đã thă?g tiền triều cắt lưỡi tài.
Thiên trung chí
Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như lò lửa sen
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí
Kiêm trung đáo
Chẳng rơi không, có ai dám hòa
Người người trọn muốn vượt dòng thường
Tan hiệp trở về ngồi trong tro.
[Đại ý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉ cho Dụng, Sắc, Sự.
Chánh trung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng. Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cái thể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụng đủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũ vị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứ của Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tương đương.
Thiên trung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cái dụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hành mà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵn trong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không, chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừa là kiến đạo.
Chánh trung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyên khởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơi đây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thân Bồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công, tương đương.
Thiên trung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tức là vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đến đây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bát địa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.
Kiêm Trung đáo: - Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tức là vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quả tột cùng tối thượng.
Theo Tào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên, bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới, thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phải nhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền, chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]
Sư thượng đường dạy chúng:
- Khi Hướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi Cộng Công làm sao? Khi Công Công làm sao?
Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?
Sư đáp:- Khi ăn cơm thì sao?
- Thế nào là Phụng?
- Khi trái thì sao?
- Thế nào là Công?
- Khi buông cuốc thì sao?
- Thế nào là Cộng Công?
- Chẳng được sắc.
- Thế nào là Công Công?
- Chẳng chung.
Sư nói tụng:
Hướng
Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu
Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu
Hữu thời náo thị đầu biên quá
Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.
Phụng
Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy
Tử qui thanh lý khuyến nhân qui
Bách hoa lạc tận đề vô tận
Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.
Công
Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân
Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân
Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại
Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.
Cộng công
Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,
Sơn tự cao hề thủy tự thâm
Vạn biệt thiên sai minh để sự
Chá cô đề xứ bách hoa tân.
Công Công
Đầu giác tài sanh dĩ bất kham
Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm
Điều điều không kiếp vô nhân hức
Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.
DỊCH
Hướng
Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu
Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu
Chợ ồn có lúc đi qua thẳng
Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.
Phụng
Tắm sạch máu me đấy là ai?
Ngươi trong âm hưởng khuyến người về
Trăm hoa rụng hết, ca không bặt
Lại đến núi sâu hót mải mê.
Công
Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại
Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân
Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn
Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.
Cộng Công
Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen
Núi tự cao chừ nước tự sâu
Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ
Chá cô vừa hót trăm hoa cười.
Công Công
Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên
Đem tâm cầu Phật thật hư hèn
Xa xôi không kiếp nào ai biết
Chịu hướng về nam năm mươi ba
*
Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trước mặt Sư. Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?
Tuyết Phong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.
Sư hỏi:- Sao đem đến đây được?
Tuyết Phong đáp không được.
*
Có vị Tăng hỏi:
- ?Luôn luôn siêng lau chùi?, vì sao không được y bát? Chẳng biết người nào nên được?
Sư bảo:- Người không vào cửa được.
Tăng thưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?
Sư bảo:
- Tuy nhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nói thẳng rằng ?xưa nay không một vật?, vẫn chưa nên được y bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nên có một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?
Tăng nói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, một chuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:
- Xà-lê sao không nói chuyển ngữ ấy trước?
Có vị Tăng hỏi:
- Bình thường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo), chưa biết thế nào là đường chim?
Sư bảo:- Chẳng gặp một người.
Tăng thưa:- Thế nào là đi?
Sư bảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.
Tăng thưa:- Như đi đường chim, phải là ?bản lai diện mục? chăng?
Sư bảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?
Tăng thưa:- Chỗ nào là con điên đảo?
Sư bảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?
Tăng thưa:-Thế nào là bản lai diện mục?
Sư bảo:- Chẳng đi đường chim.
*
Ban đêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏi xong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăng vừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:
- Lấy hai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.
Vị Tăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tất cả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.
Đến ba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:
- Đi vui vẻ!
Lúc đó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:
- Vị Tăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?
Sư bảo:
- Y chỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.
Vị Tăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. Tuyết Phong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:
- Tuy nhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.
*
Sư thượng đường dạy chúng:
- Lại có người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?
Chúng đều không đáp, Sư lại bảo:
- Nếu chẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau. Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cần phải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!
*
Tào Sơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:
- Ta ở chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng ?Bảo cảnh tam-muội? là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi. Lời rằng:
Như thị chi pháp Phật Tổ mật phó
Nhữ kim đắc chí Nghi thiện bảo hộ.
Ngân uyển thạnh tuyết Minh nguyệt tàng lộ
Loại chi phất tề Hỗn tắc tri xứ.
Ý bất tại ngôn Lai cơ diệc phó
Động thành sào cựu Sai lạc cố trữ.
Bối xúc câu phi Như đại hỏa tụ
Đản hình văn thể Tức thuộc nhiễm ô.
Dạ bán chánh minh Thiên hiểu bất lộ
Vị vật tác tắc Dụng bạt chư khổ.
Tuy phi hữu vi Bất thị vô ngữ
Như lâm Bảo cảnh Hình ảnh tương đổ.
Nhữ bất thị cừ Cừ chánh thị nhữ
Như thế anh nhi Ngũ tướng hoàn cụ.
Bất khứ bất lai Bất khởi bất trụ
Bà bà hòa hòa Hữu cú vô cú.
Chung bất đắc vật Ngữ vị chánh cố
Trùng ly lục hào Thiên chánh hồi hỗ.
Điệp nhi vi tam Biến tận thành ngũ
Như trị thảo vị Như kim cang Sử.
Chánh trung diệu hiệp Sao xướng song cử.
Thông tông thông đổ Hiệp đới hiệp lộ
Thố nhiên tắc cát Bất khả phạm ngỗ.
Thiên chân nhi diệu Bất thuộc mê ngộ
Nhân duyên thời tiết Tịch nhiên chiêu trước.
Tế nhập vô gian Đại tuyệt phương sở
Hào hốt chi sai Bất ưng luật lữ.
Kim hữu đốn tiệm Duyên lập tông thú
Tông thú phân hỷ Tức thị qui củ.
Thông thông thú cực Chân thường lưu chú
Ngoại tịch trung diêu Hệ câu phục thử.
Tiên Thánh bi chi Vị pháp đàn độ
Tùy kỳ điên đảo Dĩ tri vi tố.
Điên đảo tưởng diệt Khẳng tâm tự hứa
Yếu hiệp cổ triệt Thỉnh quân tiền cổ.
Phật đạo thùy thành Thập kiếp quán thọ
Như hổ chi khuyết Như mã chi chú.
Dĩ hữu hạ liệt Bảo kỷ trân ngự
Dĩ hữu kinh dị Ly nô bạch cổ.
Nghệ dĩ xảo lực Xạ trúng bách bộ
Tiên phong tương trị Xảo lực hà dư.
Mộc nhân phương ca Thạch nữ khởi vũ
Phi tình thức đáo Ninh dung tư lự.
Thần phụng ư quân Tử thuận ư phụ
Bất thuận phi hiếu Bất phụng phi phụ.
Tiềm hành mật dụng Như ngu như lỗ
Đản năng tương tục Danh chủ trung chủ.
DỊCH
Pháp như thế ấy Phật Tổ thầm trao
Nay ngươi được đó Nên khéo giữ gìn.
Chén bạc đựng tuyết Trăng sáng che cò
Loại đó chẳng đồng Lẫn thì biết chỗ.
Ý chẳng ở lời Cơ đến cũng đến
Động thành hang ổ Sai rơi đoái giữ.
Tránh chạm đều lỗi Như đống lửa lớn
Chỉ bày màu vẻ Liền thuộc nhiễm ô.
Nửa đêm sáng tỏ Trời sáng chẳng bày
Vì vật làm phép Dùng nhổ các khổ.
Tuy chẳng hữu vi Chẳng phải không nói
Như đến gương báu Hình bóng thấy nhau.
Ngươi chẳng phải y Y chính là ngươi
Như trẻ trong nôi Năm tướng đầy đủ.
Chẳng đi chẳng lại Chẳng dậy chẳng đứng
Tu oa! Tu oa! Có câu không câu
Trọn chẳng được vật Vì lời chưa rõ.
Lại lìa sáu hào Thiên chánh hồi hỗ
Chồng chất làm ba Biến khắp thành năm
Như vị cô trị Như sử Kim Cang.
Chánh trung khéo gộp Nhịp xướng đồng cử
Thông tông thông đồ Gộp hẹp gộp rộng
Yên lặng thì tốt Chẳng nên phạm nghịch.
Thiên chân mà diệu Chẳng thuộc mê ngộ
Thời tiết nhân duyên Lặng lẽ rành rõ.
Nhỏ vào chẳng hở Lớn tột chỗ nơi
Sai trong mảy may Chẳng hợp luật lữ.
Nay có đốn tiệm Duyên lập tông thú
Tông thú phân vậy Tức là qui củ
Tông không thú tột Chân thường trôi chảy.
Ngoài yên trong loạn Cột ngựa dẹp chuột
Thánh trước thương đó Vì làm pháp thí.
Tùy kia điên đảo Lấy nâu làm trắng
Tưởng điên đảo diệt Là tâm tự nhận.
Cốt hiệp vết xưa Xin xem xưa trước
Phật đạo sắp thành Mười kiếp quán cây.
Như hang của cọp Như trạm của ngựa
Do có thấp kém Bàn báu xe quí.
Do có sợ hãi Mèo nhà bò trắng
Nghề do sức kéo Trăm bước bắn trúng.
Tên nhọn sắp chạm Sức khéo làm gì?
Người gỗ vừa ca Gái đá đứng múa
Tình thứ? chẳng đến Đâu cho suy nghĩ.
Thần phụng nơi vua Con thuận nơi cha
Không thuận chẳng hiếu Không phụng chẳng phụ.
Làm thầm dụng kín Như ngu như ngốc
Chỉ hay tiếp nối Gọi chủ trong chủ.
*
Sư lại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếu cần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy). Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trong biển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về và bỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu, giỏi nghiên cứu mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau, trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéo biết.
Sư lại làm ba bài kệ cương yếu:
1.- Sao xướng câu hành
Kim châm song tỏa bị
Hiệp lộ ẩn toàn cai
Bảo ấn đương phong diệu
Trùng trùng cẩm phùng khai.
2.- Kim tỏa huyền lộ
Giáo hỗ minh trung ám
Công tề chuyển giác nan
Lực cùng vong tiến thối
Kim tỏa võng man man.
3.- Bất đọa phàm thánh
Sư lý câu bất thiệp
Hồi chiếu tuyệt u vi
Bối phong vô xảo chuyết
Điện hỏa thước nan trung.
DỊCH
1.- Nhịp xướng đồng hành
Chìa vàng hai khóa đủ
Ẩn bày thảy bao trùm
Ấn báu tài chống gió
Lụa gấm đứt đường khâu
2.- Lưới vàng bủa đường huyền
Lẫn nhau sáng trong tối
Chuyển giác khó, công bằng
Sức tột quên lui tới
Lưới vàng bủa khắp nơi
3.- Chẳng rơi phàm thánh
Sự lý đều chẳng mắc
Soi lại bặt u vi
Trái gió không khéo vụng
Điện chớp khó theo tầm.
Sư lại làm kệ rằng:
Đạo vô tâm hiệp nhân
Nhân vô tâm hiệp đạo
Dục thức cá trung ý
Nhất lão nhất bất lão.
DỊCH
Đạo không tâm hợp người
Người không tâm hợp đạo
Muốn biết ý trong đó
Một già một chă?g già.
Sư bệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:
- Vân Cư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói ?con đường Vân Nham sắp dứt?. Ngươi nói xong phải đứng xa, e y đánh ngươi.
Sa-di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh một gậy.
*
Sắp viên tịch, Sư bảo chúng:
- Ta có tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?
Cả chúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:
- Xin pháp hiệu Hòa thượng.
Sư bảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.
Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?
Sư đáp:- Có.
Tăng thưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?
Sư bảo:- Lão tăng xem y có phần.
Tăng thưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?
Sư bảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.
Sư lại hỏi Tăng:
- Lìa cái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùng ta thấy nhau?
Tăng không đáp được
Sư bèn làm bài kệ:
Học giả hằng sa vô nhất ngộ
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
Dục đắc vong hình dẫn tung tích
Nỗ lực ân cần không lý bộ.
DỊCH
Kẻ học hằng sa ngộ mấy người
Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi
Muốn được quên thân bặt dấu vết
Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.
Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt mở mắt bảo:
- Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?
Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: - Tăng-già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.
Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch.
Bấy giờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường (869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.
*
2. THIỀN SƯ TĂNG MẬT
(?-?)
Sư ở chỗ Nam Tuyền đến phiên đập sợi. Nam Tuyền thấy hỏi:
- Làm gì?
Sư đáp:- Đập sợi.
Nam Tuyền hỏi:- Ông lấy tay đập hay chân đập?
Sư thưa:- Thỉnh Hòa thượng nói hộ.
Nam Tuyền bảo:
- Hãy ghi nhớ rõ ràng đợi sau gặp người tác gia sáng mắt đem ra hỏi lại.
*
Sư cùng Động Sơn (Lương Giới) qua suối . Động Sơn bảo:
- Chớ lầm hạ chân.
Sư bảo:- Lầm tức qua chẳng được.
Động Sơn bảo:- Việc chẳng lầm thì sao?
Sư bảo:- Cùng Trưởng lão qua suối.
*
Một hôm, Sư cùng Động Sơn đi cuốc cỏ trong vườn trà. Động Sơn ném cây cuốc xuống đất bảo:
- Hôm nay tôi mệt không còn một chút khí lực.
Sư bảo:- Nếu không khí lực cái gì còn nói được?
Động Sơn bảo:- Huynh sẽ bảo có khí lực là phải chăng?
*
Sư cùng Động Sơn đi núi, chợt thấy một con thỏ bạch chạy qua. Sư khen:
- Giỏi thay!
Động Sơn hỏi:- Cái gì?
Sư bảo:- Đại sĩ bạch y bái tướng.
Động Sơn nói:
- Lão lão đại đại tác gia cá thuyết thoại. (Lớn lớn già già nói ra lời ấy.)
Sư hỏi:- Huynh thì sao?
Động Sơn nói:- Bậc trâm anh thời xưa tạm thời mất hồn.
*
Sư may đồ. Động Sơn thấy, hỏi:- Việc may đồ thế nào?
Sư bảo:- In tuồng may may.
Động Sơn bảo:
- Hai mươi năm đồng hành, nói ra lời ấy đâu có được công phu.
Sư hỏi:- Huynh nói sao?
Động Sơn nói:- Đạo lý này như đại địa phát hỏa.
Sư hỏi:
- Chỗ trí thức đã thông, sao chẳng đi qua lối tắt, thỉnh huynh một lời?
Động Sơn bảo:- Sư bá ý đâu được chấp công.
Sư nhân đây đốn giác, lời nói phi thường.
*
Sư cùng Động Sơn qua cây cầu khỉ, Động Sơn qua trước rồi, giở cây cầu lên bảo:
- Qua đây! Qua đây!
Sư gọi:- Xà-lê Giới!
Động Sơn bèn hạ cây cầu xuống.
*
Bùi Hưu hỏi chúng Tăng:- Cúng dường Phật có đến ăn chăng?
Chúng Tăng đáp:- Như Đại phu tế gia thần.
Bùi Hưu đem câu này đến hỏi Vân Nham. Vân Nham đáp:
- Có bao nhiêu thức ăn đồng thời đem đến.
Vân Nham lại hỏi Sư:- Đồng thời đem đến sau làm gì?
Sư đáp:- Sau dậy trã, bát.
Vân Nham gật đầu.
*
Sau, Sư về trụ tại Thần Sơn thuộc Đàm Châu. Có vị Tăng đến hỏi:
- Thế nào không có chỗ nghe mới là nghe kinh?
Sư bảo:- Ghét hội chăng?
Tăng thưa:- Cần hội.
Sư bảo:- Chưa hiểu nghe kinh.
Tăng hỏi:- Tại sao Nhất địa chẳng thấy Nhị địa?
Sư bảo:- Ông chẳng lầm ư? Ông là địa nào?
*
Có một Cư sĩ hỏi:- Vì việc sanh tử xin Thầy một lời.
Sư bảo:- Ngươi khi nào sanh tử?
Cư sĩ thưa:- Con chẳng hội, thỉnh Thầy nói.
Sư bảo:- Chẳng hội cần một chỗ chết đi.
3. THIỀN SƯ KHÁNH CHƯ
Thạch Sương - (806-888)
Sư họ Trần quê ở Tân Cam, Lô Lăng. Năm mười ba tuổi, Sư theo Thiền sư Thiệu Loan xuất gia, hai mươi ba tuổi đến Tung Nhạc thọ giới Cụ túc, sang Đông Lạc học luật. Tuy học luật, Sư vẫn biết là Tông tiệm. Sư lại sang Đại Qui, vào pháp hội làm mễ đầu (tri khố).
*
Một hôm, Sư ở trong liêu sàng gạo, Qui Sơn (Linh Hựu) đến bảo:
Sư đến tham Đạo Ngô, hỏi:- Thế nào chạm mắt là Bồ-đề?
*
Đạo Ngô bảo chúng: Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có một vật để lâu thành bệnh, người nào hay vì ta dẹp nó?
*
Chúng thỉnh Sư trụ trì tại núi Thạch Sương, Sư cũng cho đây là nơi hợp với chí mình.
*
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
*
Sư ở trong phương trượng, có vị Tăng ở ngoài song hỏi:
*
Vân Cái đến hỏi:
*
Tú tài Trương Chuyết đến tham vấn, Sư hỏi:- Tú tài tên họ gì?
Bùi tướng công đến. Sư nắm giở cái hốt của Bùi Công hỏi:
*
Sư dạy chúng:
*
Sư ở Thạch Sương hai mươi năm, Học chúng thường ngồi chẳng nằm, ngồi thă?g như gốc cây. Thời nhân gọi là ?chúng cây khô?.
*
Niên hiệu Quang Khải năm thứ tư (889), ngày hai mươi tháng hai năm Mậu Thân, Sư có chút ít bệnh, báo tin chúng hay sắp tịch, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín tuổi hạ.
*
4. THIỀN SƯ ĐẠI ĐỒNG
Núi Đầu Tử - (819-914)
Sư họ Lưu người Hoài Ninh, Châu Thơ. Thuở bé, Sư xuất gia với Thiền sư Mãn ở Bảo Đường. Ban đầu, Sư tập quán hơi thở, kế xem kinh Hoa Nghiêm phát minh Tánh hải, lại đến núi Thúy Vi nơi hội của Thiền sư Vô Học tham vấn và được thâm ngộ.
*
Một hôm, Triệu Châu Tùng Thẩm đến huyện Đồng Thành, Sư cũng có việc xuống núi, giữa đường hai người gặp nhau mà không biết nhau. Triệu Châu hỏi thăm những người cư sĩ biết là Đầu Tử, liền nghịch rằng:
*
Triệu Châu hỏi:- Khi ở trong chết được sống là thế nào?
*
Từ đó, đạo hạnh của Sư đồn khắp, khách tâ? đạo đua nhau kéo đến.
*
Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) đứng hầu, Sư chỉ một phiến đá trước am bảo:
*
Một hôm, Tuyết Phong theo Sư đi thăm am chủ Long Miên. Tuyết Phong hỏi: ?Đường Long Miên đi về phía nào?? Sư lấy cây gậy chỉ tới trước mặt. Tuyết Phong hỏi: ?Đi bên đông hay đi bên tây?? Sư bảo: ?Chẳng thích! Thùng sơn.?
*
Hôm khác, Tuyết Phong hỏi:
*
Sư ngồi trong am, Tuyết Phong hỏi: ?Hòa thượng độ này có người tham vấn chăng?? Sư với lấy cây cuốc dưới sàn ném trước mặt Tuyết Phong. Tuyết Phong thưa: ?Thế ấy, chính chỗ này cuốc đi.? Sư bảo: ?Chẳng thích, thùng sơn.?
*
Tuyết Phong từ ra đi, Sư tiễn ra cửa, liền gọi: ?Đạo giả? Tuyết Phong ngoái đầu lại: ?dạ!? Sư bảo: ?đi đường vui vẻ?.
*
Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: ?Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức chăng?? Triệu Châu đáp: ?Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu.? Sau, vị Tăng ấy đến hỏi Sư: ?Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu, ý nghĩa thế nào?? Sư đáp:
*
Có vị Tăng hỏi Sư:- Cũng đồng là nước, tại sao ở biển mặn, ở sông lạt?
*
Sư hỏi một vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?
*
Trà đầu (trưởng phòng trà) vào phương trượng thưa hỏi. Sư bảo:
*
Tăng hỏi:- Sư tử là vua trong loài thú, tại sao bị sáu trần nuốt?
*
Sư ở núi Đầu tử hơn ba mươi năm, những Thiền khách qua lại tham vấn thường đầy cả thất. Sư dùng biện tài vô úy tùy hỏi liền đáp, ứng cơ đối đáp lời lẽ tinh vi rất nhiều, đây lược ghi ít phần mà thôi.
*
Đời Đường niên hiệu Trung Hòa (881) giặc cướp nổi dậy, dân chúng tán loạn, có bọn cuồng đồ cầm đao lên núi, hỏi Sư: ?Ở đây làm gì?? Sư tùy nghi thuyết pháp, bọn chúng nghe đều bái phục, cổi y phục cúng dường, rồi giải tán.
*
Thời Ngũ đại niên hiệu Càn Hóa năm thứ tư (914) ngày mùng sáu tháng tư, Sư có chút ít bệnh. Đại chúng rước thầy thuốc.
*
5. THIỀN SƯ THIỆN HỘI
Ở Giáp Sơn - (741-817)
Sư họ Liêu, quê ở Hiện Đình, Quảng Châu. Lức chín tuổi, Sư xuất gia tại núi Long Nha, Lễ Châu. Sau, Sư đến Giang Lăng tập học kinh luận chuyên luyện tam học và gắng sức tham thiền. Sư trụ trì tại Kinh Khẩu (Lễ Châu), một hôm nhân Đạo Ngô (Viên Trí) đi đến, rồi mách Sư đến tham vấn Hoa Đình Thuyền Tử, do đó được ngộ đạo. Sư trốn ẩn nơi vắng vẻ, mà học giả vẫn tấp nập tìm đến.
*
Đời Đường niên hiệu Hàm Thông thứ 11 (870), toàn chúng thỉnh Sư đến trụ tại Giáp Sơn, nơi đây liền biến thành Thiền viện.
Nếu nhằm bên Phật, Tổ mà học, người này chưa có mắt sáng, đều thuộc về pháp có chỗ nương không được tự tại, vẫn là thức tánh sanh tử mênh mang không có phần tự do. Ngàn muôn dặm tìm thiện tri thức, cốt có cái thấy chân chánh hằng thoát khỏi hư dối, định lấy cái sanh tử trước mắt xem là thật có hay là thật không? Nếu có người định được lẽ này, hứa nhận ông sẽ giải thoát.
Lão trì sanh tử pháp Nhọc gìn pháp sanh tử
*
Sư có nuôi một đạo nhỏ theo làm thị giả đã lâu; sau khi Sư dừng trụ bèn khiến đi hành khước. Ông dạo đi khắp các Thiền hội mà không có chỗ dụng tâm, nghe thầy hợp chúng dạy đạo nổi danh vang dậy. Ông bèn trở về hầu hạ, thưa:
*
Có Đại đức đến hởi:
*
Trong hội của Sư có một vị Tăng đi đến Thạch Sương, vào cửa liền nói: ?Chẳng xét.? (bất thẩm) Thạch Sương bảo: ?Chẳng cần Xà-lê.? Ông liền nói: ?Thế ấy thì trân trọng.? Ông lại đi đến Nham Đầu, cũng nói: ?Chẳng xét.? Nham Đầu bèn ?hư! hư!? Ông nói: ?Thế ấy thì trân trọng.? Ông vừa bước trở ra, Nham Đầu bảo: ?Tuy là hậu sanh cũng khá sắp xếp.?
*
Tăng hỏi:- Thế nào là cảnh Giáp Sơn?
*
Đời Đường niên hiệu Trung Hòa năm đầu (881) ngày mùng bảy tháng mười một, Sư gọi Chủ sự bảo:
6. THIỀN SƯ NGHĨA HUYỀN
Ở Lâm Tế, khai Tổ tông Lâm Tế - (?-867)
Sư hiệu Nghĩa Huyền họ Hình quê ở Nam Hoa thuộc Tào Châu. Thuở nhỏ, Sư đã có chí xuất trần, đến lớn xuất gia thọ giới cụ túc. Thường dừng các nơi giảng pháp, nghiên cứu tinh tường giới luật, thâm hiểu kinh luận, Sư than rằng: ?Đây là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ của giáo ngoại biệt truyền.? Sư liền đi du phương.
*
Trước nhất, Sư đến hội Hoàng Bá. Ở đây, Sư oai nghi nghiêm chỉnh đức hạnh chu toàn. Thủ tọa (Trần Tôn Túc) thấy khen rằng: ?Tuy là hậu sanh cùng chúng chẳng giống.? Thủ tọa bèn hỏi:
*
Sư đến Đại Ngu. Đại Ngu hỏi:- Ở chỗ nào đến?
*
Hoàng Bá thấy Sư về, liền bảo:
*
Sư trồng tùng, Hoàng Bá hỏi:- Trong núi sâu trồng tùng làm gì?
*
Một hôm, Sư ngồi trước Tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, liền trở về phương trượng. Sư theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu ở đó, Hoàng Bá bảo:
*
Sư ngủ trong Tăng đường, Hoàng Bá đến thấy, lấy gậy đánh bảng một tiếng. Sư ngóc đầu xem thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt. Hoàng Bá lại đánh bảng một tiếng, lại đi đến gian trên thấy Thủ tọa ngồi thiền.
*
Một hôm, ngày công tác công cộng, Sư đi sau. Hoàng Bá ngó ngoái lại thấy Sư đi tay không bèn hỏi:- Cuốc đâu?
*
Công tác công cộng cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Sư bèn dựng cuốc đứng. Hoàng Bá hỏi:
*
Sư giữa hạ đến Hoàng Bá, thấy Hòa thượng xem kinh. Sư nói:
*
Sư đến Hòa thượng Bình ở Tam Phong. Bình hỏi:- Ở đâu đến?
*
Sư đến Phụng Lâm, Lâm hỏi:
*
Đã được Hoàng Bá ấn khả, Sư tìm đến Hà Bắc ở góc nam thành Đông Trấn Châu, gần sông Hô Đà đất Lâm Tế trụ trì một viện nhỏ. Nơi đây Phổ Hóa đã ở trước.
*
Phủ chủ Vương Thường Thị cùng các quan thỉnh Sư đăng tòa. Sư thượng đường bảo:
*
Có Tọa chủ hỏi:
*
Sư thượng đường bảo:
*
Tham vấn buổi chiều, Sư dạy chúng:
*
Chư Thiền đức! Thời nay chẳng gặp, muôn kiếp ngàn đời luân hồi tam giới, chạy theo cảnh thích rồi phải sanh trong bụng trâu bụng lừa? Đạo lưu! Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng cùng Thích-ca không khác. Hiện nay nhiều chỗ ứng dụng, kém thiếu cái gì? Sáu đường thần quang chưa từng cách dứt. Nếu hay thấy được như thế, chỉ một đời làm người vô sự.
*
Đại đức! Ba cõi không yên như trong nhà lửa, đây không phải là chỗ các ông dừng ở lâu, quỉ vô thường giết người trong khoảng chớp mắt chẳng lựa người sang kẻ hèn, người già kẻ trẻ. Các ông muốn cùng Phật Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật pháp thân của ông. Trên một tâm niệm vô phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật báo thân của ông. Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt là ngôi nhà Phật hóa thân của ông. Ba thứ thân này là người hiện nay ở trước mắt nghe pháp của ông. Chỉ không tìm kiếm bên ngoài, liền có công dụng này. Theo các nhà Kinh Luận lấy ba thân này làm nguyên tắc tột cùng. Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thì chẳng phải vậy. Ba thân này là danh ngôn, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: ?Thân y nghĩa lập, cõi cứ thế bàn.? Pháp tánh thân, pháp tánh độ biết rõ là quang ảnh (bóng sáng).
Đại đức! Các ông hãy nhận biết người đùa quang ảnh, là nguồn gốc tất cả chỗ của chư Phật, là chỗ các ông về nhà. Xác thân tứ đại của các ông không biết thuyết pháp, nghe pháp. Gan mật dạ dày ruột không biết thuyết pháp, nghe pháp. Hư không chẳng biết thuyết pháp, nghe pháp? Là một cái ?riêng sáng hiện bày rõ ràng? ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác, chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắt đều phải. Chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai. Do đó, luân hồi trong tam giới, chịu các thứ khổ. Nếu nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thật là rất sâu, thật là giải thoát.
*
Đạo lưu! Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi thấy, ở tai gọi nghe, ở mũi gọi ngửi, ở miệng nói bàn, ở tay nắm bắt, ở chân đi chạy, vốn là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp. Một tâm đã không, tùy chỗ giải thoát. Sơn tăng nói thế ấy, ý ở chỗ nào? Chỉ vì tất cả các ông chạy tìm tâm không thể dừng, leo lên cơ cảnh nhàn của cổ nhân. Các ông nhận được chỗ thấy của Sơn tăng, ngồi chặt đầu Phật Báo, Hóa. Hằng mãn tâm thập địa ví như nhận khách làm con. Bậc Đẳng giác là kẻ mang gông xiềng. La-hán, Bích-chi ví như xí uế. Bồ-đề Niết-bàn như cọc cột lừa. Vì sao như thế? Chỉ vì các ông không thấu được ba kỳ kiếp là không, nên có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chánh trọn chẳng như thế, chỉ ?tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm?, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu quả Phật. Bởi đâu như thế? Cổ nhân nói: ?Nếu muốn làm việc cầu Phật, Phật là điềm lớn sanh tử.?
*
Đại đức! thời giờ đáng tiếc, chỉ tính đến nhà bên lăng xăng học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu Thiện tri thức độ. Chớ lầm! Các ông sẵn có một cha mẹ, lại cầu vật gì? Các ông tự phản chiếu xem! Cổ nhân nói: ?Diễn-nhã-đạt-đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự.?
*
Có vị Tăng hỏi:
*
Sư dạy chúng:
Đạo lưu! Sơn tăng nói pháp, là nói pháp gì? Nói pháp tâm địa, hay vào phàm vào thánh, vào tịnh vào uế, vào chân vào tục. Hẳn chẳng phải các ông là chân tục phàm thánh, mà hay cùng chân tục phàm thánh an bài danh tự. Chân tục phàm thánh cùng người này an bài danh tự chẳng được.
*
Sư dạy chúng:
Người xuất gia phải biện được kiến giải chân chánh bình thường, biết Phật biết ma, rành chân rành ngụy, rõ phàm rõ thánh. Nếu biện được như thế, gọi là chân xuất gia. Nếu ma Phật không biết, chính là xuất gia này vào gia kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp chưa được gọi là người chân xuất gia.
*
Hỏi:- Thế nào là Phật là ma?
Sơn tăng nói ra đều phải, hiện nay trước mắt đạo lưu riêng sáng rỡ lắng nghe. Người này nơi nơi chẳng kẹt, thấu suốt mười phương, tự tại trong tam giới, vào tất cả cảnh sai biệt không thể lôi kéo, trong khoảng sát-na vào tột pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La-hán nói La-hán, gặp ngạ quỉ nói ngạ quỉ, đi tất cả chỗ dạo các cõi nước, giáo hóa chúng sanh, mà chưa từng lìa một niệm, tùy chỗ thanh tịnh, ánh sáng thấu mười phương, muôn pháp nhất như. Đạo lưu! Kẻ đại trượng phu hiện đây mới biết xưa nay vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin đến, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ-tát viên đốn mà vào trong pháp giới hiện thân. Nhằm trong tịnh độ chán phàm mến thánh, bọn người như thế chưa quên bỏ lấy, tâm nhiễm tịnh vẫn còn. Kiến giải Thiền tông chẳng phải như vậy, thẳng trong hiện tại lại không thời tiết.
Sơn tăng nói ra đều là một lúc thuốc trị bệnh nhau, trọn không có pháp thật. Nếu thấy được như vậy là người chân xuất gia, mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng cũng được.
*
Hỏi:- Thế nào là kiến giải chân chánh?
Người học không hiểu chấp danh cú, bị danh phàm thánh làm ngại. Do đó, chướng ngại đạo nhãn không được phân minh. Mười hai phần giáo nói ra đều cốt biểu hiển lẽ này, học giả không hội, bèn nhằm trên danh cú biểu hiển sanh hiểu, đều là nương tựa rơi tại nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong tam giới.
Đạo lưu! Các ngươi chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn, trong khoảng sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm lấy một bữa cơm mà ăn, mặc áo vá qua ngày, chỉ cốt phỏng tầm tri thức. Chớ theo đuổi thú vui, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ đất nước lửa gió ép ngặt, tế thì bị sanh trụ dị diệt bức bách.
*
Hỏi:- Thế nào là bốn cảnh vô tướng?
Đạo lưu! Các ngươi hiện nay biết nghe pháp, chẳng phải tứ đại của các ngươi, cái biết ấy hay dùng được tứ đại. Nếu khéo thấy được như thế, là đi đứng tự do. Chỗ thấy của Sơn tăng chẳng ngờ pháp ấy. Các ngươi nếu mến Thánh thì, Thánh chỉ là tên Thánh. Có một nhóm người học đạo nhắm trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn-thù, trọn đã lầm vậy. Trong Ngũ Đài Sơn không có Văn-thù. Các ngươi muốn biết Văn-thù chăng? Chỉ cái dùng trước mắt các ngươi trước sau chẳng khác, nơi nơi chẳng nghi, cái ấy là Văn-thù sống. Các ngươi một tâm niệm sáng không sai biệt, nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền. Các ngươi một tâm niệm tự hay mở trói, tùy chỗ giải thoát, đây là Quan Thế Âm. Ba pháp lẫn nhau làm chủ bạn, ra thì đồng thời ra, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế, mới nên xem kinh.
Hỏi:- Ý Tổ sư từ phương tây sang thế nào?
Đại đức! Sơn tăng hôm nay sự bất đắc dĩ nói ra khá nhiều điều vụng về. Các ngươi chớ nhận lầm. Theo chỗ thấy của tôi, thật không chấp nhận các thứ đạo lý nhiều như thế, cần dùng liền dùng, chẳng dùng liền thôi. Các nơi nói lục độ vạn hạnh cho là Phật pháp. Tôi nói đó là cửa trang nghiêm, cửa Phật sự, chẳng phải là Phật pháp. Cho đến, trì trai giữ giới như bưng dầu chẳng nghiêng, nếu đạo nhãn chẳng sáng trọn có ngày phải đền lại nợ cơm tiền. Vì sao như thế? Vì, học đạo chẳng thông lý, đem thân đền tín thí, trưởng giả tuổi tám mốt, cây kia chẳng sanh nhĩ. Nhẫn đến ở trên chót núi, một ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là người tạo nghiệp. Hoặc đem đầu mắt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy báu hoàn toàn thí xả; hành động như thế đều là làm khổ thân tâm, lại chuốc quả khổ. Đâu bằng vô sự thuần nhất không tạp. Những hàng Bồ-tát thập địa mãn tâm muốn tìm dấu vết của vị này trọn không thể được. Do đó, chư thiên vui mừng, địa thần nâng chân, chư Phật mười phương thảy đều khen ngợi. Bởi sao như thế? - Vì đạo nhân hiện nghe pháp, chỗ dùng không dấu vết vậy.
*
Một hôm Sư cùng Hà Dương, Trưởng lão Mộc Tháp đồng ở tại Tăng đường ngồi quanh lò lửa. Nhân nói chuyện Phổ Hóa mỗi ngày ở ngoài đường chợ chụp gió chụp đầu, biết y là phàm là thánh? Nói chưa xong, Phổ Hóa vào chúng đi đến. Sư liền hỏi: ?Ngươi là phàm là thánh?? Phổ Hóa nói: ?Ông hãy nói tôi là phàm là thánh?? Sư liền hét! Phổ Hóa lấy tay chỉ nói: ?Hà Dương kẻ tân phụ [Tân phụ là cô gái mới có chồng.] Mộc Tháp thiền Lão bà, Lâm Tế đứa tớ nhỏ, lại đủ một con mắt.? Sư bảo: ?Kẻ giặc.? Phổ Hóa nói: ?giặc, giặc?, liền đi ra.
*
Một hôm, Phổ Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Sư dạy Viện chủ mua một quan tài. Phổ Hóa về đến, Sư bảo: ?Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi.? Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh đường chợ rao: ?Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa đông tịch.? Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: ?Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa nam mới tịch.? Như thế đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư, không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi mọi người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần rồi mất.
*
Sư sắp tịch ngồi yên bảo: ?Sau khi ta tịch, chẳng được diệt mất chánh pháp nhãn tạng của ta.? Tam Thánh Huệ Nhiên thưa: ?Đâu dám diệt mất chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng.? Sư bảo: ?Về sau có người hỏi, ngươi đáp thế nào?? Tam Thánh liền hét! Sư bảo: ?Ai biết, chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt mất.?
*
7. TRẦN TÔN TÚC
Hiệu Đạo Minh - (?-?)
Sư quê ở Giang Nam họ Trần. Thuở bé, Sư dung nhan kỳ đặc, nhân đến chùa Khai Nguyên lễ Phật, thấy Tăng như đã quen trước. Về, Sư xin phép cha mẹ xuất gia, cha mẹ đồng ý cho.
*
Tham vấn buổi chiều, Sư bảo chúng:
*
Bình thường, Sư thấy Tăng đến liền đóng cửa. Hoặc thấy Giảng sư đến, Sư gọi: Tọa chủ! Tọa chủ: dạ! Sư bảo: Kẻ vác bảng. Hoặc bảo: trong ấy có thùng cho tôi gánh nước.
*
Có vị sứ thần đến viếng. Sứ thần hỏi: ?Ba cửa đều mở, từ cửa nào vào?? Sư gọi: ?Thượng thơ? Sứ thần ứng thanh: ?dạ!? Sư bảo: ?từ cửa tín vào?. Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: ?Hai tôn giả đối mặt luận việc gì?? Sư gõ cây cột nói: ?Trong ba thân cái nào chẳng nói pháp??
*
Tăng hỏi: Thế nào là ý Tào Khê? Sư bảo: Lão tăng ưa sân chẳng ưa hỉ. Tăng hỏi: vì sao như thế? Sư đáp: gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ nói thơ (lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc thuyết thi.)
*
Tăng hỏi: ?Giáo ý Tổ ý là đồng là khác?? Sư bảo: ?Núi xanh tự núi xanh, mây trắng tự mây trắng.? Tăng hỏi: ?Thế nào là núi xanh?? Sư bảo: ?Trả một hạt mưa cho ta.? Tăng thưa: ?Nói chẳng được, thỉnh Thầy nói.? Sư bảo: ?Pháp Hoa xông trước trận, Niết-bàn câu chót thâu.?
*
Sư xem kinh, Thượng thơ Trần Tháo đến hỏi: Hòa thượng xem kinh gì? Sư bảo: Kinh Kim Cang. Tháo bảo: Lục triều phiên dịch, đây là thứ mấy dịch? Sư đưa quyển kinh lên bảo: Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh.
*
Sư xem kinh Niết-bàn, có vị Tăng hỏi: Hòa thượng xem kinh gì?
*
Vị Tăng mới đến lễ bái Sư, Sư quở: Xà-lê tại sao trộm trái cây của Thường trụ ăn? Tăng thưa: Con vừa mới đến, vì sao Hòa thượng nói trộm trái cây? Sư bảo: tang vật vẫn còn.
*
Có vị Đại đức được vua ban tử y đến lễ bái. Sư cầm cái mũ lên, hỏi: Cái này gọi là gì? Đại đức đáp: Mũ triều thiên. Sư bảo: Thế ấy thì Lão tăng chẳng đội. Sư lại hỏi: Nói thế nào? Đại đức đáp: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.
*
Sư thượng đường: Xé tan ra cũng là ta, gom nhóp lại cũng là ta. Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là xé tan ra? Sư bảo: ba lần chín là hai mươi bảy, Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát tức tâm tức Phật. Ta đã nói thế ấy, ngươi lại nói thế nào? Tăng thưa: con chẳng nói thế ấy. Sư bảo: cái chén đánh rơi xuống đất, cái dĩa bể thành bảy miếng. Tăng hỏi thế nào là gom nhóp lại? Sư bèn ngồi khoanh tay.
*
Sư dạy chúng:
*
Sư sắp tịch gọi môn đồ lại nói: Nơi đây hết duyên, ta sẽ đi vậy, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ chín mươi tám tuổi được bảy mươi sáu tuổi hạ.
*
8. NGƯỠNG SƠN HUỆ TỊCH
Tổ thứ hai Tông Qui Ngưỡng - (804-899)
Thiền sư Huệ Tịch quê ở Hoài Hóa, Thiều Châu, con nhà họ Diệp. Năm mười lăm tuổi, Sư muốn xuất gia, cha mẹ không cho. Đến năm mười bảy tuổi, Sư chặt hai ngón tay, đến trước cha mẹ quì thệ cầu chánh pháp để báo ân sanh thành dưỡng dục. Cha mẹ mới cho xuất gia.
*
Sư đến yết kiến Đam Nguyên, nhân đây được huyền chỉ.
*
Sư sang Giang Lăng thọ giới ở lại một hạ để học luật. Sau đó, Sư đến tham vấn Nham Đầu. Nham Đầu thấy Sư liền giở phất tử lên. Sư trải tọa cụ. Nham Đầu đưa phất tử lại sau lưng. Sư vác tọa cụ lên vai đi ra. Nham Đầu bảo: ?Ta chẳng nhận ông buông, chỉ nhận ông thâu.?
*
Sư đến tham vấn Thạch Thất, hỏi:
*
Vi Trụ đến Qui Sơn xin một bài kệ. Qui Sơn bảo:
*
Một hôm, Thượng Tọa ở Qui Sơn đưa phất tử lên bảo:
*
Qui Sơn cùng Sư du hành, bỗng chim tha quả hô?g chín đánh rơi trước mặt. Qui Sơn vội lượm quả hồng đưa Sư. Sư nhận quả hồng đi lại nước rửa, rửa xong, Sư dâng Qui Sơn. Qui Sơn bảo: ?Ở chỗ nào con được quả này?? Sư thưa: ?Đây là đạo đức của Hòa thượng cảm nên.? Qui Sơn nói: ?con đâu phải không có?, liền bẻ nửa quả hồng cho Sư.
*
Sư đến phiên chăn trâu dưới sườn núi, thấy một vị Tăng lên núi không bao lâu lại xuống. Sư bèn hỏi: ?Thượng tọa sao không lưu lại trong núi?? Tăng nói: ?Chỉ vì nhân duyên chẳng hợp.? Sư hỏi: ?Có nhân duyên gì thử nói xem.? Tăng nói: ?Hòa thượng hỏi tôi tên gì, tôi đáp Qui Chân. Hòa thượng hỏi Qui Chân ở đâu, tôi đáp không được.? Sư bảo: ?Thượng tọa trở lên thưa với Hòa thượng con nói được, Hòa thượng hỏi nói thế nào, chỉ đáp ?trong mắt, trong tai, trong mũi?.? Vị Tăng trở lại nói đúng như Sư dạy. Qui Sơn quở: ?Kẻ nói suông vô ích, đây là lời thiện tri thức của năm trăm người.?
*
Sư nằm mộng thấy vào nội viện của đức Di-lặc, trong nhà Tăng các tòa đều có người ngồi, chỉ có tòa thứ hai trống, Sư liền lên tòa ngồi. Có vị Tôn giả bạch chùy (khai kiểng) rằng: ?Hôm nay tòa thứ hai nói pháp.? Sư đứng dậy bạch chùy rằng: ?Pháp Đại thừa ly tứ cú, tuyệt bách phi, lắng nghe! lắng nghe! chúng giải tán đi.?
*
Sư vẫn theo Qui Sơn ngót mười lăm năm. Đươc Qui Sơn mật ấn, Sư lãnh chúng ở núi Vương Mãng. Hóa duyên ở đây không hợp, Sư dời đến Ngưỡng Sơn, học chúng đua nhau đến đấy rất đông.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư?
*
Sư về Qui Sơn thăm, Linh Hựu hỏi:
*
Có vị Tăng người Ấn từ hư không đến, Sư hỏi: ?Vừa rồi ở đâu đến?? Tăng thưa: ?Ở Tây thiên.? Sư hỏi: ?Rời Tây thiên lúc nào?? Tăng thưa: ?Sớm mai.? Sư bảo: ?Sao mà chậm lắm vậy?? Tăng thưa: ?Vì còn dạo núi xem nước.? Sư bảo: ?Thần thông du hí thì chẳng không, Phật pháp của Xà-lê cần trao lại cho Lão tăng mới được?? Tăng thưa: ?định sang Đông độ lễ Văn-thù, lại gặp Tiểu Thích-ca?, bèn đem sách chữ Phạn bằng lá bối trao cho Sư, làm lễ rồi nương hư không mà đi.
*
Qui Sơn niêm một mặt gương gởi cho Sư. Sư thượng đường đưa lên bảo: ?Chúng hãy nói, là gương Qui Sơn hay gương Ngưỡng Sơn? Có?người nói được thì không đập nát.? Toàn chúng đều không nói được. Sư liền đập nát.
*
Sư hỏi Song Phong: ?Gần đây chỗ thấy của Sư đệ thế nào?? Song Phong đáp: ?Cứ chỗ thấy của tôi, thật không một pháp có thể xứng tình.? Sư bảo: ?Ngươi hiểu vẫn còn tại cảnh.? Song Phong hỏi: ?Tôi chỉ hiểu như thế, Sư huynh thế nào?? Sư đáp: ?Ngươi đâu chẳng biết, không một pháp có thể xứng tình.?
*
Sư cùng một vị Tăng nói đạo, bên cạnh có vị Tăng thưa: ?Nói đó là Văn-thù, nín đó là Duy-ma.? Sư bảo: ?Chẳng nói chẳ?g nín đó, đâu chẳng phải là ngươi?? Tăng lă?g thinh. Sư bảo: ?Sao chẳng hiện thần thông?? Tăng thưa: ?Chẳng từ hiện thần thông, chỉ ngại Hòa thượng bắt vào dạy.? Sư bảo: ?Xét rõ chỗ đến của ngươi chưa có con mắt giáo ngoại biệt truyền.?
*
Tăng hỏi:- Ý vào cửa Thiền tông đốn ngộ thế nào?
*
Sư trước ở Ngưỡng Sơn, sau dời về Quan Âm chỉ dạy Tăng chúng làm tiêu chuẩn cho Thiền tông. Còn vài năm tịch, Sư có làm bài kệ:
*
Khi Sư sắp tịch ở tại núi Đông Bình, có vài vị Tăng đứng hầu, Sư nói kệ:
9. HƯƠNG NGHIÊM TRÍ NHÀN
(724-814)
Sư quê ở Thanh Châu, chán tục xuất gia, đi tham vấn các nơi. Khi ở chỗ Tổ Bá Trượng, Sư tánh thức minh mẫn, tham thiền chẳng ngộ. Đến Tổ Bá Trượng tịch, Sư theo tham học với Qui Sơn Linh Hựu.
*
Thẳng đến Nam Dương chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư trụ tại đây. Một hôm nhân cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng, Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư trở về tắm gội thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng: ?Hòa thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay.? Sư làm bài tụng:
*
Qui Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn: ?Kẻ này đã triệt ngộ.? Ngưỡng Sơn thưa: ?Đây là máy tâm ý thức trước thuật được, đợi con đến nơi khám phá mới chắc.?
*
Sau, Sư về trụ tại Hương Nghiêm, Tăng chúng nghe danh kéo nhau đến tham vấn.
*
Tăng hỏi:
*
Sư bảo chúng:
*
Có vị Tăng từ Qui Sơn đến, Sư hỏi: ?Những ngày gần đây Hòa thượng có dạy những câu gì?? Tăng thưa: ?Có người hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, Hòa thượng liền dựng đứng phất tử.? Sư hỏi tiếp: ?Trong ấy huynh đệ hiểu ý Hòa thượng thế nào?? Tăng thưa: ?Trong ấy bàn với nhau rằng ?chính nơi sắc mà rõ được tâm, gá nơi vật mà hiển được lý?.? Sư bảo: ?Hội thì liền hội, chẳng hội mắc kẹt nơi ấy chết gấp.? Tăng lại hỏi Sư: ?Ý Thầy thế nào?? Sư liền giở phất tử lên.
*
10. THIỀN SƯ THƯỜNG THÔNG
Ở núi Tuyết Đậu - (834-905)
Sư họ Lý quê ở Hình Châu, vào núi Thước xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư trở về chùa Khai Nguyên ở bổn Châu thọ giới, ở đây học kinh luật bảy năm. Sư tự than: ?Ma-đằng sang Hán dịch ra văn này, Đạt-ma đến Lương nói rõ việc gì? Sư bèn cất bước du phương, đến tham vấn Hòa thượng Trường Sa.
*
Tăng hỏi: ?Thế nào là mật thất?? Sư đáp: ?Chẳng thông gió.? Tăng hỏi: ?Thế nào là người trong mật thất?? Sư đáp: ?Các thánh tiên xem chẳng thấy.? Lại nói: ?Ngàn Phật không thể nghĩ, muôn thánh chẳng thể bàn, càn khôn hoại mà không hoại, hư không bao mà chẳng bao, tất cả so sánh không bằng, ba đời xướng mà chẳng khởi.?
*
Khoảng niên hiệu Quang Khải (883-885) giặc cướp nổi loạn, Sư đem đồ chúng đến Tứ Minh. Đến niên hiệu Đại Thuận năm thứ hai (891), Quận thú thỉnh Sư ở núi Tuyết Đậu, ở đây sự giáo hóa được hưng thạnh.
*
Niên hiệu Thiên Hựu năm thứ hai (905) tháng bảy, Sư có chút ít bệnh, nhóm chúng thắp hương phó chúc xong, chấp tay thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.
*
11. NI LIỄU NHIÊN Ở MẠT SƠN
(?_?)
Hòa thượng Quán Khê Nhàn đi du phương đến núi này, tự nói: ?Nếu tương đương thì ở, chẳng vậy thì xô ngã giường thiền. Nhàn vừa vào Tăng đường, Liễu Nhiên sai thị giả đến hỏi: -Thượng tọa du phương đến? hay vì Phật pháp đến?. Nhàn đáp: -Vì Phật pháp đến.? Liễu Nhiên lên tòa, Nhàn đến tham. Liễu Nhiên hỏi: ?Hôm nay Thượng tọa rời ở đâu đến? Nhàn đáp: -Rời cửa đường đến.? Liễu Nhiên bảo: ?Sao chẳng đậy lại?? Nhàn không đáp được, mới lễ bái hỏi: ?Thế nào là Mạt Sơn?? Liễu Nhiên đáp: -Chẳng bày đảnh.? Nhàn hỏi: -Thế nào chủ Mạt Sơn?? Nhiên đáp: ?Chẳng phải tướng nam nữ.? Nhàn nạt rằng: -Sao chẳng biến đi?? Nhiên đáp: -Chẳng phải thần, chẳng phải quỉ, biến cái gì?? Nhàn mới kính phục, ở lại làm Tri viên ba năm.
*
Có vị Tăng đến tham vấn, Nhiên bảo: ?Rất lam lũ vậy?. Tăng đáp: -Tuy nhiên như thế vẫn là sư tử con.? Nhiên bảo: -Đã là sư tử con, vì sao bị Văn-thù cỡi? Tăng không đáp được. Tăng hỏi: -Thế nào là tâm cổ Phật?. Nhiên đáp: -Thế giới nghiêng đổ?
*
12. ĐỨC SƠN TUYÊN GIÁM
(780-865)
Sư họ Chu quê ở Kiếm Nam, Giản Châu, xuất gia lúc hai mươi tuổi, cũng năm ấy thọ giới cụ túc. Sư nghiên cứu tinh thâm Luật tạng, thông suốt chỉ thú các kinh thuộc Tánh tông và Tướng tông. Vì thường giảng kinh Kim Cang Bát-nhã, nên thời nhân gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư thường nói với đồng học: ?Một sợi lông nuốt bể cả, tánh bể không thiếu; hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động, học cùng không học chỉ có ta biết thôi.?
Nghe phương Nam Thiền tông thạnh hành, Sư bất bình nói: ?Kẻ xuất gia muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, chẳng còn được thành Phật. Những kẻ ma ở phương Nam dám nói ?trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật?. Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt hết những giống ấy để đền ơn Phật.? Sư bèn khăn gói lên đường mang theo bộ Thanh Long sớ sao, ra khỏi đất Thục, nhắm Lễ Dương tiến bước.
Trên đường, Sư gặp một bà già bán bánh, bèn dừng nghỉ chân và bảo bà lấy ít cái bánh điểm tâm. Bà già chỉ gánh của Sư hỏi: ?Gói ấy là sách vở gì?? Sư bảo: ?Thanh Long sớ sao.? Bà hỏi: ?Thầy thường giảng kinh gì?? Sư đáp: ?Kinh Kim Cang.? Bà nói: ?Tôi có một câu hỏi, nếu Thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp chẳng được, mời Thầy đi nơi khác?? Sư chịu. Bà hỏi: ?Kinh Kim Cang nói ?quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc?, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?? Sư đáp không được, bèn hỏi đường lên Long Đàm.
*
Đến Pháp đường (nhà nói pháp) gặp Long Đàm, Sư nói: ?Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi Đàm (đầm) chẳng thấy, mà Long (rồng) cũng không hiện.? Sùng Tín bảo: ?Ngươi đã gần đến Long Đàm.? Sư không đáp được, liền dừng lại đây.
*
Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo: ?Đêm khuya sao chẳng xuống?? Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa: ?Bên ngoài tối đen.? Sùng Tín thắp đèn cầy đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ, liền lễ bái. Sùng Tín hỏi: ?Ngươi thấy cái gì?? Sư thưa: ?Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong thiên hạ.?
*
Sư đem bộ sớ sao chất đống trước pháp đường (nhà nói pháp) nổi lửa đốt, nói:
*
Đến Qui Sơn, Sư vào pháp đường từ phía tây đi qua phía đông, lại từ phía đông sang phía tây, hỏi: ?Có chăng? Có?chăng?? Qui Sơn ngồi lặng lẽ không ngó tới. Sư nói: ?không, không?, liền đi thẳng ra cửa tự nói: ?Tuy nhiên như thế cũng chẳng đặng thô xuất.? Sư bèn đầy đủ oai nghi đi trở vào. Vừa bước ra cửa, Sư đưa tọa cụ lên, gọi: ?Hòa- thượng?, Qui Sơn toan nắm phất tử, Sư liền hét, phủi áo ra đi.
Sư dừng lại Lễ Dương 30 năm. Gặp lúc Đường Võ Tôn phế giáo, Sư tị nạn ở một mình trong thạch thất tại Phù Sơn. Đến thời Đại Trung năm đầu (847), Thái thú tên Tiết Đình Vọng tái trùng tu tịnh xá Đức Sơn để hiệu là Cổ đức Thiền viện, tìm kiếm những vị đạo hạnh trụ trì. Nghe tiếng Sư, Đình Vọng nhiều phen đến thỉnh, Sư chẳng chịu xuống núi. Đình Vọng lập kế, lấy trà, muối đến phao vu Sư phạm cấm pháp, điệu Sư về Châu chiêm lễ. Đình Vọng cố thỉnh cho được Sư ở Đức Sơn. Sau cùng Sư chấp nhận. Ở đây, Sư xiển dương Tông phong rất thạnh.
*
Sư thượng đường bảo chúng:
*
Sư thượng đường bảo:
*
Long Nha hỏi:
*
Sư thượng đường bảo: ?Hỏi tức có lỗi, chẳng hỏi lại trái.? Có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư liền đánh. Tăng thưa: ?Con mới lễ bái vì sao Hòa thượng đánh?? Sư bảo: ?Đợi ngươi mở miệng làm gì kịp.?
*
Sư sai thị giả gọi Nghĩa Tồn, Nghĩa Tồn đến, Sư bảo: ?Ta bảo kêu Nghĩa Tồn, ngươi đến làm gì?? Nghĩa Tồn không đáp được.
*
Sư thấy vị Tăng đến, liền đóng cửa. Vị Tăng gõ cửa. Sư hỏi: ?ai? Tăng thưa: ?sư tử con?. Sư mở cửa. Tăng lễ bái. Sư liền leo lên cổ cỡi, nói: ?Súc sanh này từ xứ nào đến??
*
Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi: ?Tông thừa từ trước, riêng con có phần chăng?? Sư đánh một gậy, bảo: ?Nói gì?? Nghĩa Tồn thưa: ?Chẳng hội.? Hôm sau, giờ thưa hỏi, Sư nói: ?Tông của ta không cầu lời, thật không có một pháp dạy người.? Tuyết Phong nhân câu này được tỉnh.
*
Sư dạy chúng:
Các ông bị những lão trọc mọi nơi dùng ma mị làm bệnh, nói ta là người tu hành, làm ra hình thức in tuồng bộ mặt người đắc đạo. Chớ có nhận dụng tâm như thế, muôn kiếp ngàn đời luân hồi trong tam giới đều là ?Có tâm?. Vì cớ sao? Vì tâm sanh thì các thứ pháp sanh. Nếu khéo một niệm chẳng sanh thì hằng thoát khỏi sanh tử, chẳng bị sanh tử trói buộc, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, lại còn có việc gì?
*
Nhân giả! ta thấy các ông phát tâm đến trong hội những lão trọc học Phật pháp, gánh vác chẳng tiếc thân mạng, rốt cuộc các ông đều bị đâm đui mắt, đoạn đứt mạng căn. Có vài ba trăm kẻ tương tợ dâm nữ, nói: ?ta làm hóa chủ dựng lập pháp tràng, vì người sau mở mắt cho họ?. Kẻ ấy tự cứu được chăng?
Nhân giả! nói tu hành như thế, các ông đâu chẳng nghe Lão Hồ (ông già Ấn Độ, chỉ Phật) trải ba kiếp A-tăng-kỳ tu hành mà nay còn đâu? Sau tám mươi (80) năm chết mất, cùng các ông có khác gì?
*
Nhân giả! Các ông chạy lăng xăng bên nhà ngoài, nói ?ta hiểu thiền, hiểu đạo?; chỉ ngực, chỉ sườn, khen ngợi, trịnh trọng. Những cái ấy cần phải mửa hết mới được Vô Sự.
Kẻ khách trong nhà thiền vừa bị người hỏi đến việc bổn phận, miệng in cây cọc, liền trở lại nói với họ Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát, dẫn rộng trong ba tạng, nói giáo là thiền là đạo, dối gạt người chung quanh, có gì là dính dáng, chê bai tiên Tổ của ta.
*
Nhân giả! chớ lầm thân mặc áo ghẻ bướu, học việc gì? Ăn cơm no rồi, nói chân như Niết-bàn, ngoài da lại có máu chăng? Cần phải có ý khí trượng phu mới được.
Lão Đức Sơn này khuyên các ông chi bằng giữ bổn phận đi, sớm thôi dứt đi, chớ học cuồng loạn, mỗi người gánh tử thi một cách linh hoạt đi. Các lão trọc trong miệng ưa ăn đàm dãi của người, nói ?ta là người vào tam giới tu hạnh uẩn tích, nuôi lớn thai thánh, nguyện thành quả Phật?. Những bọn như thế, Lão Đức Sơn này thấy như tên độc bắn vào tim, kim châm vào mắt, đã cô phụ tiên Tổ, làm lụy Tông đồ của ta. Họ nói ?ta là kẻ xuất gia?, như thế ăn tiêu của thí chủ mười phương, thật sự một giọt nước cũng chẳng tiêu đặng, còn chẳng dám đi trên đất quốc vương, cha mẹ không nuôi món ngon vật lạ, đâu phải là không việc. Chớ lầm dụng tâm, vua Diêm-la sẽ thăm hỏi ngươi, sẽ xỏ mũi ngươi trói vào cột trụ để đền lại nợ trước. Chớ bảo Lão tăng chẳng nói.
Các ông thật là có phước gặp Đức Sơn ra đời, vì các ông cổi dây trói buộc, thoát khỏi lồng giam, gỡ khỏi lưng ngựa, được làm người tốt, tam giới lục đạo bắt ông chẳng được. Lại không có pháp khác. Cái sáng rỡ rỗng rang không ngại tự tại ấy, chẳng phải vật do các ông trang nghiêm được. Từ Phật đến Tổ đều truyền pháp này mà được xuất ly. Một Đại tạng kinh chỉ là chỉnh lý các ông hiện thời.
Nhất là, chớ khoanh tay làm Thiền sư, tìm chỗ xuất đầu, dùng lời khéo léo lừa gạt kẻ hậu sanh, muốn được người gọi mình là Trưởng lão, trên phần của chính mình không chút dính dáng, vẫn là tâm thức lăng xăng ngày đêm tác quái chẳng dừng, tán thán trịnh trọng ta là tông đồ của Mã Đại sư ở Giang Tây. Lão Đức Sơn này chẳng phải thế.
*
Nhân giả! chớ chạy mòn gót chân các ông, không có thiền đạo nào khác có thể học. Nếu có học được, tức là hai đầu ba cổ, là kiến giải của ngoại đạo. Cũng không có thần thông biến hóa thật. Nếu ông nói thần thông là thánh thì chư thiên, long thần, tiên, ngoại đạo được ngũ thần thông và tu-la cũng có thần thông lý ưng là Phật sao?
*
Nhân giả! Lão Hồ chẳng phải Thánh. Phật là cục cứt của Lão Hồ. Cần thiết nhân giả biện rành tốt xấu, chớ mắc nhân ngã thì khỏi bị chư thánh cột, Bồ-đề cột, giải thoát, thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa nhận chìm, trói buộc. Vì cớ sao? - Vì một niệm vọng tâm chẳng sạch tức là sanh tử tiếp nối.
*
Chư nhân giả! muốn được biết chăng? Chỉ là cái rỗng không, còn không có một mảy bụi có thể được, nơi nơi thanh tịnh, sáng rỡ rỗng suốt, trong ngoài đều sáng suốt, vô sự, vô y, không chỗ nương gá thì có việc gì? Lão tăng từ sanh đến tử chỉ là Lão tỳ-kheo, tuy sanh trong tam giới mà không cấu nhiễm, còn muốn được ra khỏi chỗ nào? Dù có chỗ đi, cũng là lồng bẫy, ma sẽ có cơ hội thuận tiện.
*
Nhân giả! làm sao cắm mỏ xuống, các ông nhiều tri giải, đã từng biết mặt mày y chăng? Kẻ xuất gia, cho đến bậc Bồ-tát thập địa mãn tâm tìm dấu vết của y cũng chẳng được. Do đó, chư thiên hoan hỉ, địa thần đỡ chân, mười phương chư Phật khen ngợi, ma vương khóc lóc. Vì cớ sao? Bởi cái rỗng không này hoạt bát rạng ngời, không cội gốc, không chỗ nơi. Nếu người đến được trong ấy, con mắt đứng chớp đều không liên hệ.
*
Nhân giả! chớ cầu Phật, Phật là kẻ giặc đại sát nhân lừa bao nhiêu người rơi vào hầm ma dâm. Chớ cầu Văn-thù Phổ Hiền, là kẻ tớ ruộng nhà. Đáng tiếc, là bậc trượng phu đường đường mà uống thuốc độc của người. Bèn toan làm Thiền sư, trước mặt thấy thần thấy quỉ, về sau cuồng loạn chạy sang nhà bên tìm Sư bà đập ngói bói cho. Bị các lão trọc vô tri, xủ quẻ bảo lễ quỉ Tổ sư, quỉ Phật, quỉ Bồ-đề Niết-bàn. Kẻ dâm nữ nhỏ ấy chẳng hội, liền hỏi ?thế nào là ý Tổ sư từ tây sang?, lão trọc kia liền đánh giường thiền làm cảnh, hoặc dựng phất tử, bảo ?trời trong tốt, mưa tốt, lồng đèn tốt?, lời lẽ khéo léo gượng làm tiết mục, có huyền lộ, điểu đạo, xè tay. Nếu nhận những lời nói như thế, khác nào đem bát báu đựng đồ dơ, như đem phẩn làm hương chiên-đàn.
*
Nhân giả! kia đã là trượng phu, ta cũng vậy, khiếp nhược với ai? Mà trọn ngày đến các lão trọc mọi nơi nhận lấy đàm dãi của họ, trọn không biết hổ thẹn, khổ thay! khổ thay! làm cuồng loạn ngươi, nhân quả rõ ràng sẽ làm thân trâu kéo cày mang bừa.
*
Sư dạy chúng:
*
Sư có bệnh, Tăng hỏi: ?Lại có cái chẳng bệnh chăng?? Sư đáp: ?Có.?
*
LỜI DỊCH GIẢ
Chúng tôi cố tránh né không dám lạm bàn những ngôn ngữ và hành động của chư Thiền đức. Bởi lẽ không muốn độc giả nhai lại những bã xác mía khô, để mỗi độc giả tự thưởng thức vị cam lồ của chính mình phát minh.
Đức Sơn là một ngôi sao sáng trong Thiền môn vào thời Đường mạt. Những Thiền sinh đến tham vấn đa số được Ngài cho ăn gậy. Mỗi khi thượng đường dạy chúng, Ngài thường dùng những ngôn ngữ táo bạo, mà người ta gọi là ?mắng Phật mạ Tổ?.
Vì sao Đức Sơn có hành động ngôn ngữ ấy? Bởi lẽ, Ngài quá NHIỆT TÌNH, nói theo danh từ nhà Thiền có ?tâm lão bà?. Chúng ta thấy, khi Ngài cất gánh kinh lên vai sang phương Nam, không vì tìm hiểu thiền, mà cốt ?tiêu diệt chúng ma quái (Thiền tông) để báo ân Phật?. Tâm niệm ấy, đã nói lên Ngài là sứ giả của Luật, Giáo. Luật, Giáo là lý tưởng tối thượng đời Ngài phải phụng thờ. Như vậy, Ngài sang phương Nam với NHIỆT TÌNH hộ pháp ?tồi tà phụ chánh? (dẹp tà giúp chánh).
Sau khi gặp Long Đàm, lý tưởng tối thượng của Ngài tôn thờ đã trở thành hình ảnh chết, là cặn bã của người xưa. Chí nguyện ?tồi tà phụ chánh? của Ngài đã tan biến như mây khói, hay ngược lại chính Ngài tự thấy mình là nguời ?phụ tà tồi chánh? (giúp tà dẹp chánh). Đột biến bất thần ấy, khiến Ngài mang gánh kinh ra trước pháp đường thiêu sạch.
Thiền, Đạo là cái linh minh hiện hữu nơi mình. Song vừa khởi tâm tìm nó liền mất, mong thấy nó đã chẳng hiện. Nó không phải những văn tự khô cằn, cũng không phải ngôn ngữ sanh diệt. Bám vào văn tự, vào ngôn ngữ để cầu Thiền cầu Đạo thật là đại sai lầm. Bỏ mình đi cầu Thiền cầu Đạo nơi người, thật là việc ?cỡi trâu tìm trâu?, ?bính đinh cầu hỏa?.
Nhưng, nhà giam văn tự ngôn ngữ, dây xiềng cầu cạnh bên ngoài đã và đang giam giữ xiềng xích bao nhiêu người có thiện chí học đạo. Do đó, với NHIỆT TÌNH của Đức Sơn phải đập tan nó bằng gậy, mạt sát chúng bằng lời, hầu mong cổi trói cho mọi người. Đúng như lời bình của Vân Môn sau này ?chỉ có Đức Sơn mới hay khen ngợi Phật, Tổ?.
Phật, Tổ cố lập mọi phương tiện để phá chấp cho chúng ta. Chúng ta không mượn phương tiện ấy để gột sạch vọng chấp của mình, trái lại bám lấy phương tiện cho là cứu kính, thật là tự lấy dây trói mình. Khi đã bị trói rồi, chạy cầu người khác mở trói. Đó là từ sai lầm này sang sai lầm khác, cả đời lẩn quẩn làm sao thoát được!
Cho nên, đọc Đức Sơn, chúng ta đừng khó chịu bởi ngôn ngữ và hành động của Ngài, vì biết đó là phương tiện cấp bách, cũng đừng bắt chước ngôn ngữ ấy để phỉ báng Tam Bảo mà phải đọa địa ngục. Chúng ta cần phải học NHIỆT TÌNH của Đức Sơn, và cốt nhận ra chỗ chí yếu mà Ngài muốn chỉ dạy.