THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP HAI
H.T Thích Thanh Từ
Tu Viện Chơn Không 1971
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
ĐỜI THỨ SÁU SAU LỤC TỔ
13. Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn - Tổ thứ hai Tào Động.
14. Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư.
15. Thiền sư Tồn Tương ở Hưng Hóa.
16. Thiền sư Huệ Nhiên ở viện Tam Thánh.
17. Hòa thượng Đại Giác.
18. Thiền sư Văn Hỷ.
19. Thiền sư Quang Dũng ở Nam Tháp.
20. Thiền sư Toàn Khoát ở Nham Đầu.
21. Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong.
13. TÀO SƠN BỔN TỊCH THIỀN SƯ
Tổ thứ hai Tông Tào Động - (840-901)
Sư họ Huỳnh hiệu Bổn Tịch, quê ở Bồ Điền Tuyền Châu (nay là tỉnh Phước Kiến huyện Bồ Điền). Lúc nhỏ, Sư chuyên học Nho. Năm mười chín tuổi, Sư lên núi Linh Thạch ở huyện Phước Đường xuất gia, đến hai mươi lăm tuổi thọ giới cụ túc. Khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư đi tham vấn Thiền tông. Trước, Sư đến Động Sơn (nay là tỉnh Giang Tây huyện Cao An) tham vấn Thiền sư Lương Giới.
*
Động Sơn hỏi: ?Xà-lê tên gì? Sư thưa: ?Bổn Tịch.? Động Sơn bảo: ?Lại nói lên trên? Sư thưa: -Chẳng nói.? Động Sơn hỏi:-Vì sao chẳng nói? Sư thưa:-Chẳng tên Bổn Tịch. Động Sơn gật đầu. Từ đây, Sư vào nhập chúng.
*
Sư theo hầu Động Sơn mấy năm. Một hôm, Sư đến từ tạ đi nơi khác. Động Sơn mật truyền Tông chỉ, lại hỏi: -Ngươi đi đến chỗ nào? Sư thưa: -Đến chỗ không biến dị. Động Sơn bảo: -Chỗ không biến dị lại có đến sao? Sư thưa: -Đến cũng chẳng biến dị.
*
Sư đi đến Tào Khê lễ tháp Tổ, trở về Cát Thủy. Chúng nghe danh Sư tìm đến thỉnh khai pháp. Vì ngưỡng mộ Lục Tổ, Sư đặt tên núi là Tào Sơn. Thời gian sau bị giặc loạn, Sư dời về huyện Nghi Huỳnh. Có người cư sĩ cúng sở nhà Hà Vương cho Sư trụ trì. Sư đổi tên Hà Vương ra Hà Ngọc. Nơi đây giáo hóa hưng thạnh, học giả các nơi đua nhau kéo đến, Tông chỉ Động Sơn được rực rỡ.
*
Sư dạy chúng:
- Tình phàm kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồi hỗ.
Người lấy chánh mạng thật phải đủ ba thứ đọa: Một là phi mao đới giác. Hai là bất đoạn thanh sắc. Ba là bất thọ thực.
Khi ấy, Trù Bố Nạp hỏi:- Phi mao đới gác là cái gì đọa?
Sư đáp:- Là loại đọa (bản xưa chép Sa-môn đọa).
- Bất đoạn thanh sắc là cái gì đọa?
- Là tùy đọa (tùy loại đọa).
- Bất thọ thực là cái gì đọa?
- Là tôn quí đọa.
*
Nhân Tăng hỏi Ngũ vị quân thần chỉ quyết, Sư giải thích:
- Chánh vị là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có hình vạn tượng. Chánh trung thiên là trái lý theo sự. Thiên trung chánh là bỏ sự vào lý. Kiêm đới là thầm ứng chánh duyên chẳng rơi vào các hữu, chẳng nhiễm chẳng tịnh, chẳng chánh chẳng thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền không mắc chân tông, Tiên đức từ trước suy xét một vị này rất diệu rất huyền, phải xét kỹ biện rõ.
Quân là chánh vị, Thần là thiên vị. Thần hướng quân là Thiên trung chánh. Quân thị thần là Chánh trung thiên. Quân thần đạo hiệp là Kiêm đới.
Tăng hỏi:- Thế nào là quân?
Sư đáp:
- Đức diệu trên hoàn vũ, cao sáng khắp bầu trời (diệu đức tôn hoàn vũ, cao minh lãng thái hư).
- Thế nào là thần?
- Máy linh hoằng đạo thánh, trí chân lợi quần sanh (linh cơ hoằng thánh đạo, chân trí lợi quần sanh).
- Thế nào là thần hướng quân?
- Không rơi những đường khác, lắng tình nhìn mặt vua (bất đọa chư dị thú, ngưng tình vọng thánh dung).
- Thế nào là quân thị thần?
- Dáng điệu tuy chẳng động, đuốc sáng vẫn không thiên (diệu dung tuy bất động, quang chúc bản vô thiên).
- Thế nào là quân thần đạo hiệp?
- Hồn nhiên không trong ngoài, dung hòa trên dưới yên (hồn nhiên vô nội ngoại, hòa dung thượng hạ bình).
Sư lại bảo:
- Lấy quân thần thiên chánh mà nói, chẳng cho phạm ở giữa. Cho nên thần khen vua, không dám có lời chê bai ấy vậy. Đây là Tông yếu pháp của ta. Kệ rằng:
Học giả tiên tu thức tự tông
Mạc tương chân tế tạp ngoan không
Diệu minh thể tận tri thương xúc
Lực tại phùng duyên bất tá trung.
Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước
Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng
Vô thân hữu sự siêu kì lộ
Vô sự vô thân lạc thủy chung.
Dịch:
Học giả trước cần hiểu tự tông
Chớ đem chân tế lẫn ngoan không.
Tột thể diệu minh biết xúc chạm
Sức tại phùng duyên chẳng mượn trung.
Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến
Thầm đi nên với cổ nhân đồng.
Không thân có việc siêu đường tẻ
Không việc không thân lạc thủy chung.
Vân Môn hỏi:- Thế nào là hạnh Sa-môn?
Sư đáp:- Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy.
- Liền khi ấy đi thì sao?
- Ngươi lại chứa được chăng?
- Chứa được.
- Ngươi làm sao chứa?
- Mặc y ăn cơm có cái gì khó.
- Sao chẳng nói mang lông đội sừng?
Vân Môn lễ bái.
*
Sư bảo chúng:
- Các ông trọn giữ cách thức, sao chẳng cùng y nói một chuyển ngữ, khiến y chẳng nghi đi?
Vân Môn ở trong chúng bước ra hỏi:
- Chỗ mật mật (thầm kín) vì sao chẳng biết có?
Sư đáp:- Chỉ vì mật mật nên chẳng biết có.
- Người này làm sao thân cận?
- Chớ nhằm chỗ mật mật thân cận.
- Khi chẳng nhằm chỗ mật mật thì sao?
- Mới giỏi thân cận.
Vân Môn: dạ! dạ!
*
Tăng Nhuệ thưa:- Con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp.
Sư bảo:- Xà-lê Nhuệ lại gần đây!
Thanh Nhuệ lại gần.
Sư bảo:
- Kẻ nhà nghèo ở Tuyền Châu uống xong ba chén rượu, vẫn nói chưa dính môi.
*
Chỉ Y đạo giả đến tham vấn, Sư hỏi:
- Đâu chẳng phải Chỉ Y đạo giả ư?
Đạo giả thưa:- Chả dám.
- Thế nào là việc của Chỉ Y?
- Chiếc áo cừu vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như.
- Thế nào là dụng của Chỉ Y?
Đạo giả lại gần: dạ! liền đứng tịch.
Sư bảo:- Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đến thế ấy?
Đạo giả chợt mở mắt hỏi:
- Một chân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?
Sư bảo:- Chưa phải diệu.
- Thế nào là diệu?
- Chẳng mượn! mượn!
Đạo giả trân trọng liền tịch.
Sư dạy bài tụng:
Giác tánh viên minh vô tướng thân
Mạc tương tri kiến vọng sơ thân.
Niệm dị tiện ư huyền thể muội
Tâm sai bất dữ đạo vi lân.
Tình phân vạn pháp trầm tiền cảnh
Thức giám đa đoan tán bản chân.
Như thị cú trung toàn hiểu hội
Liễu nhiên vô sự tích thời nhân.
Dịch:
Tánh giác viên minh không tướng thân
Chớ đem thấy biết dối xa gần.
Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy
Tâm sai sao được đạo chung thân.
Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước
Thức biện lăng xăng mất bản chân.
Trong câu như thế toàn lãnh hội
Rõ ràng vô sự tích thời nhân.
*
Tăng hỏi:- Sa-môn đâu không phải là người đủ lòng đại từ bi?
Sư đáp:- Phải.
- Chợt gặp lục tặc đến phải làm thế nào?
- Cũng phải đủ đại từ bi.
- Thế nào là đủ đại từ bi?
- Dùng một cây kiếm dẹp sạch.
- Sau khi dẹp sạch thế nào?
- Mới được hòa đồng.
*
Tăng hỏi:- Mày với mắt cùng biết nhau chăng?
Sư đáp:- Chẳng biết nhau.
- Vì sao chẳng biết nhau?
- Vì đồng tại một chỗ.
- Thế ấy là chẳng phân?
- Mày chẳng phải là mắt, mắt chẳng phải là mày.
- Thế nào là mắt?
- Quả nhiên rồi.
- Thế nào là mày?
- Tào Sơn lại nghi.
- Tại sao Hòa thượng lại nghi?
- Nếu chẳng nghi tức quả nhiên rồi.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là kiếm không mũi?
Sư đáp:- Chẳng do rèn luyện mà thành.
- Dụng nó thế nào?
- Người gặp đều chết.
- Người chẳng gặp thì sao?
- Cũng phải rơi đầu.
- Người gặp đều chết là cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lại rơi đầu?
- Ông chẳng thấy nói ?hay sạch tất cả? sao?
- Sau khi sạch hết thế nào?
- Mới biết có cây kiếm này.
*
Tăng hỏi:- Huyễn vốn nào chân?
Sư đáp:- Huyễn vốn nguyên chân.
- Chính khi huyễn làm sao hiển bày?
- Tức huyễn liền hiển.
- Thế ấy thì trước sau chẳng lìa nơi huyễn?
- Tìm huyễn tướng không thể được.
*
Sư hỏi vị Tăng: -Làm gì? Tăng thưa:-Quét đất. Sư hỏi:-Trước Phật quét hay sau Phật quét? Tăng thưa: -Trước sau đồng thời quét. Sư bảo: -Đem đôi giày qua cho Tào Sơn.
*
Tăng hỏi Hương Nghiêm: -Thế nào là đạo? Hương Nghiêm đáp: -Khô mộc lý long ngâm.(trong cây khô có rồng ngâm) Tăng hỏi: -Thế nào người trong đạo? Hương Nghiêm đáp: -Độc lâu lý nhãn tình.(trong đầu lâu có tròng con mắt) Tăng không lãnh hội, đến hỏi Thạch Sương: ?Thế nào là khô mộc lý long ngâm?? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo cái hỉ.? Tăng hỏi:-Thế nào độc lâu lý nhãn tình? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo thức.Tăng không lãnh hội đến trình với Sư. Sư bảo:
- Thạch Sương ông già Thanh văn khởi cái kiến giải.
Sư làm bài tụng:
Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
Độc lâu vô thức nhãn sơ minh.
Hỉ thức tận thời tiêu tức tận
Đương nhân na biện trọc trung thanh.
Dịch:
Cây khô rồng ngâm thật thấy đạo
Đầu lâu không thức mắt rạng ngời.
Hỉ thức hết thời tin tức lặng
Người này đâu biện đục trong trong.
Tăng lại hỏi Sư:- Thế nào khô mộc lý long ngâm?
Sư đáp:- Huyết mạch chẳng đoạn.
- Thế nào độc lâu lý nhãn tình?
- Khô chẳng hết.
- Lại có người được nghe chăng?
- Trọn người trên đại địa chưa có một người chẳng nghe.
- Khô mộc lý long ngâm là chương cú gì?
- Chẳng biết chương cú gì, nguời nghe đều mất.
*
Sư dạy chúng:
- Chư Tăng ở đây cốt dưới y áo hội thông được việc hướng thượng, chớ có rảnh rang qua ngày. Nếu chỗ thừa đương đã rõ ràng, liền chuyển được chư thánh về sau lưng mình, mới là tự do. Nếu chuyển chẳng đặng, hẳn phải học được thập thành, lại cần đến sau lưng các ngài khoanh tay nói đại thoại gì? Nếu chuyển được chính mình thì tất cả cảnh thô trọng đến đều làm chủ được. Ví như đi trong chỗ lầy trợt té cũng làm chủ được. Như có vị Tăng hỏi ngài Dược Sơn: ?Trong giáo lý tam thừa lại có Tổ ý chăng?? Dược Sơn đáp: ?Có.? Tăng thưa: ?Đã có, Tổ Đạt-ma lại đến làm gì?? Dược Sơn bảo: ?Chỉ vì có cho nên đến.? Thế là đâu không phải làm chủ được chuyển được về nơi mình sao?
Kinh nói: ?Phật Đại Thông Trí Thắng, mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện trước, chẳng đặng thành Phật đạo.? Nói kiếp là đới (kẹt) vậy, gọi đó là thập thành, cũng gọi là đoạn sấm lậu (rỉ chảy). Chỉ là đầu mười đường đã bặt, chẳng quên đại quả, nên nói thủ trụ đam trước, gọi là thủ thứ thừa đương không phân quí tiện.
Ta thường thấy trong tùng lâm thích bàn một thứ hai thứ, lại hay thành lập được sự chăng? Những cái ấy chỉ nhằm việc đã qua hiển bày. Các ông chẳng thấy ngài Nam Tuyền nói: ?Cho ông thập thành, so với Vương lão sư vẫn còn một đường tuyến.? Rất khó! việc đến đây cần phải chín chắn mới được minh bạch tự tại. Bất luận thiên đường địa ngục ngạ quỉ súc sanh, chỉ là tất cả chỗ chẳng dời đổi, nguyên là người thuở xưa, cốt yếu chẳng đi con đường xưa. Nếu có tâm vui mừng thành đới trước nếu thoát được giản trạch là sao? Cổ đức nói: ?Chỉ e chẳng được luân hồi.?
Các ông nói phải làm sao? Như người hiện nay nói có chỗ tịnh khiết, thích hướng về việc ấy. Đây là bệnh thật khó trị. Nếu việc thô trọng ở thế gian lại là nhẹ, bệnh tịnh khiết thật là nặng. Như pháp vị Phật, pháp vị Tổ trọn là đới trước. Tiên sư nói: ?Tâm nghĩ là phạm giới, nếu được Pháp vị là phá trai.? Hãy bảo thế nào là được vị? Chỉ là pháp vị Phật, pháp vị Tổ, vừa có tâm vui mừng là phạm giới. Như hiện nay nói phá trai phá giới là khi làm phép ba phen yết-ma, ấy sớm đã phá rồi. Nếu là bệnh tham sân si thô trọng, tuy khó dứt mà lại nhẹ, còn bệnh vô vi vô sự tịnh khiết lại nặng không có gì thêm được. Tổ sư ra đời cũng chỉ vì cái ấy, chẳng riêng vì các ông. Hiện nay làm kẻ rảnh rang qua ngày, làm con chồn, con trâu tu hành lại thích, chẳng phải có thiền có đạo. Như các ông mỗi thứ tìm kiếm, tìm Phật tìm Tổ, cho đến Bồ-đề Niết-bàn, đến bao giờ thôi dứt xong xuôi ư? Đều là tâm sanh diệt. Do đó chẳng giống như con chồn, con trâu ngơ ngơ không biết, chẳng biết Phật, chẳng biết Tổ, cho đến Bồ-đề Niết-bàn và nhân quả thiện ác. Chỉ đói đến là ăn cỏ, khát đến thì uống nước. Nếu được thế ấy, chẳng lo chẳng xong xuôi. Đâu chẳng nghe nói: ?Tính toán chẳng thành ấy là biết có (Tâm), mới hay mang lông đội sừng kéo cày mang bừa.? Được cái tiện nghi này, mới là đạm bạc. Đâu chẳng thấy đức Di-lặc, A-súc và những thế giới Diệu Hỉ v.v? vẫn bị thượng nhân kia (Duy-ma-cật) gọi là Bồ-tát giải đãi không hổ thẹn. Cũng nói là biến dịch sanh tử, vẫn e còn phần nhỏ giải đãi.
Nơi việc bổn phận phải nên làm sao? Cần phải chín chắn mới được. Mỗi người đều có một chỗ để ngồi, dù Phật ra đời xâm phạm chỗ ấy cũng không được. Thể hội cái ấy tu hành chẳng là thích thú lắm ư! Muốn biết việc này, chính nó khiến ta thành Phật thành Tổ, cũng chính nó khiến ta rơi trong tam đồ lục đạo. Tuy nhiên như thế, vẫn không có chỗ dụng, mà lìa y cũng chẳng được, cốt cùng y làm chủ tể mới được. Nếu làm chủ tể được tức là không còn biến dịch. Nếu làm chủ tể không được tức là biến dịch. Ngài Vĩnh Gia nói: ?Phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương.?
Tăng hỏi:- Thế nào là phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương?
Sư đáp:- Chỉ là cái ấy.
- Làm sao khỏi được?
- Biết có (Tâm) liền được, dùng khỏi làm gì? chỉ là Bồ-đề Niết-bàn phiền não vô minh v.v? thảy đều chẳng cần khỏi, cho đến việc thô trọng ở thế gian cũng thế. Miễn biết có (Tâm) là được chẳng cần khỏi, khỏi tức đồng biến dịch rồi. Cho đến thành Phật thành Tổ, Bồ-đề Niết-bàn, những cái ấy đều họa ương chẳng nhỏ. Tại sao như vậy? Bởi vì biến dịch. Nếu không biến dịch, cần phải chạm việc tự do mới được.
Nam Châu Soái Nam bình Chung Vương nghe danh Sư cho sứ đi thỉnh. Sư chẳng đến, chỉ biên bài tụng của Đại Mai để đáp:
Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
Tiều khách ngộ chi du bất cố
Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm.
Dịch:
Cây khô gãy mục tựa rừng xanh
Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh
Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.
*
Sư dạy chúng kệ rằng:
Tùng duyên tiến đắc tương ưng tật
Tựu thể tiêu đình đắc lực trì
Miết khởi bản lai vô xứ sở
Ngô sư tạm thuyết bất tư nghì.
Dịch:
Từ duyên tiến được tương ưng nhanh
Đến thể lặng dừng đắc lực chậm
Chợt khởi từ xưa không chỗ nơi
Thầy ta tạm nói không nghĩ nghị.
*
Sư thượng đường, có vị Tăng bước ra hỏi:
?Thế nào là người đại xiển-đề?? Sư đáp: ?Chẳng sợ nghiệp.? Tăng hỏi: ?Thế nào là người vô minh?? Sư đáp: ?Trước sau chẳng giác ngộ.? Tăng hỏi: ?Hai người này ai ở trước?? Sư đáp: ?Người vô minh.? Tăng hỏi: ?Người xiển-đề vì sao ở sau?? Sư đáp: ?Người hướng đi.? Tăng thưa: ?Thế ấy thì người vô minh chẳng từ ngày nay đi.? Sư đáp: ?Phải.? Tăng thưa: ?Đã chẳng từ ngày nay đi, vô minh từ chỗ nào đến?? Sư đáp: ?Chỗ sáng chẳng dám vào.? Tăng thưa: ?Đâu chẳ?g phải chẳng minh chẳng ám.? Sư bảo: ?Phải.? Tăng thưa: ?Chính khi ấy thế nào?? Sư bảo: ?Chẳng cho chạm.? Sư lại bảo:
- Xiển-đề có nhiều thứ: 1- Giết cha giết mẹ, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, hủy hoại già-lam, đây quyết định thật báo chịu các thứ khổ. 2- Cũng làm như trước, nhưng mà giết cha vô minh mẹ tham ái, chẳng tin có Phật Pháp Tăng có thể phá, có già-lam có thể hoại, cho là nghiệp từ tâm mà thành, nên đọa cũng chịu các thứ quả hư vọng. Hai loại này lên xuống chẳng đồng. 3- Biết chính mình có việc bản lai, gọi là cha mẹ, chẳng nhân bên ngoài mà được, không tu không chứng, phi nhân phi quả, chẳng do thấy được, chẳng từ chứ?g mà thành. Chỗ được, chẳng khởi chấp cha, gọi là giết, chẳng khởi chấp mẹ, gọi là hại, tức là tất cả việc bổn phận chẳng giữ chẳng còn, nên gọi là giết hại. Vừa có mảy may kính trọng, được ý vị thì chẳng thành, chỉ biết có việc chính mình, nên gọi là đại xiển-đề. Do đây dấy lên diệu lực tức là thể hội tông thừa từ trước, thừa kế việc nhà, cần cắt đường huyền, phá các cong vạy, như Lão nhân Tân Phong khéo chỉ.
*
Đời Đường niên hiệu Thiên Phục (901) mùa hạ năm Tân Sửu ban đêm, Sư hỏi Tri sự:
- Hôm nay là ngày mấy tháng mấy?
Tri sự thưa:- Ngày rằm tháng sáu.
Sư bảo:
- Tào Sơn bình sanh đi hành khước đến nơi chỉ biết chín mươi ngày là một hạ, sáng mai giờ thìn ta đi hành khước.
Hôm sau, đúng giờ thìn thắp hương, Sư ngồi yên lặng mà hóa, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy tuổi hạ. Vua ban thụy là Nguyên Chứng Thiền sư, tháp hiệu Phước Viên.
*
14. THIỀN SƯ ĐẠO ƯNG
Ở Vân Cư - (?-902)
Sư họ Vương người ở Ngọc Điền U Châu. Thuở bé, Sư đã xuất gia theo thầy học đạo. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Diên Thọ ở Phạm Dương. Bổn sư bắt Sư học kinh luật Thanh văn (Tiểu thừa). Sư than: ?Kẻ đại trượng phu đâu thể chịu luật nghi còng trói ư?? Sư bèn đến núi Thúy Vi hỏi đạo và ở lại đây ba năm.
*
Một hôm, có du Tăng từ Dự Chương đến khen ngợi pháp hội ở Động Sơn, Sư liền từ tạ, đến Động Sơn.
Động Sơn hỏi:- Từ đâu đến?
Sư thưa:- Từ Thúy Vi đến.
- Thúy Vi có lời gì dạy đồ chúng?
- Thúy Vi cúng dường La-hán, con hỏi: ?cúng dường La-hán, La-hán có đến chăng?, Thúy Vi hỏi con: ?mỗi ngày ông ăn cái gì?.
- Thật có lời này chăng?
- Có.
- Chẳng uổng tham kiến bậc tác gia (đạt đạo).
- Xà-lê tên gì?
- Tên Đạo Ưng.
- Lại nói lên trên?
- Nói lên trên tức chẳng tên Đạo Ưng.
- Ngươi đáp tương tợ với ta lúc đến Vân Nham.
*
Sư hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư?
Động Sơn đáp:
- Sau này Xà-lê có nơi chốn ở yên, chợt có người đến hỏi như thế, phải đáp làm sao?
- Đạo Ưng tội lỗi.
*
Động Sơn hỏi:
- Ta nghe Hòa thượng Tư Đại sanh làm vua nước Nhật là thật giả?
Sư thưa:
- Nếu là Tư Đại, Phật còn chẳng làm, huống là làm vua.
Động Sơn gật đầu.
Một hôm, Động Sơn hỏi:- Từ đâu đến?
Sư thưa:- Đạp núi đến.
- Quả núi nào nên ở?
- Có quả núi nào chẳng nên ở.
- Thế ấy là cả nước đều bị Xà-lê chiếm hết.
- Chẳng phải.
- Thế ấy là ngươi đã được đường vào?
- Không đường.
- Nếu không đường làm sao được cùng Lão tăng gặp nhau?
- Nếu có đường thì cùng Hòa thượng cách núi vậy.
- Kẻ này về sau ngàn muôn người nắm chẳng đứng.
*
Sư theo Động Sơn lội qua suối. Động Sơn hỏi: ?Nước cạn sâu?? Sư thưa: ?Chẳng ướt.? Động Sơn bảo: ?Kẻ thô.? Sư thưa: ?Thỉnh Thầy nói.? Động Sơn nói: ?Chẳng khô.?
*
Sư làm tương, Động Sơn hỏi: ?Làm gì?? Sư thưa: ?Làm tương.? Động Sơn hỏi: ?Dùng muối nhiều ít?? Sư thưa: ?Xoay vào.? Động Sơn hỏi: ?Làm thành vị gì?? Sư thưa: ?Đắc.?
*
Động Sơn hỏi Sư:
- Người đại xiển-đề giết cha hại mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, các việc như thế hiếu dưỡng đâu còn?
Sư thưa:- Mới được hiếu dưỡng.
Từ đây Động Sơn giao Sư làm lãnh tụ trong chúng.
*
Sư cất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuống trai đường. Động Sơn thấy lạ hỏi:
- Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?
Sư thưa:- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
Động Sơn bảo:
- Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.
Chiều, Sư đến. Động Sơn gọi:- Ưng am chủ!
Sư ứng thanh: Dạ!
Động Sơn bảo:- Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là cái gì?
Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như thế mới thôi cúng dường.
*
Sư đến trụ ở núi Vân Cư, tứ?chúng đua nhau tìm đến, pháp hội nơi đây rất thạnh hành.
Sư dạy chúng:
- Phật pháp đâu có nhiều việc, hành được là phải. Chỉ biết tâm là Phật, chớ cho Phật chẳng biết nói. Muốn được việc như thế phải là người như thế. Nếu là người như thế thì còn lo cái gì? Nếu nói việc như thế là khó, thì các bậc tiên đức từ xưa thuần phác chân thật, vốn không khôn khéo. Giả sử có người đến hỏi ?thế nào là đạo?, hoặc khi các ngài đáp ?ngói gạch gốc cây làm gì? đều chú trọng việc căn bản ở dưới gót chân lâu nay đã sẵn có. Nếu thật hữu lực, là người bất tư nghì, nắm đất biến thành vàng. Nếu không có việc như thế, dù ông nói được như hoa như gấm, nói ta phóng quang động địa thế gian không ai hơn, nói tột hết, mà mọi người vẫn không tin nhận. Bởi lâu nay việc dưới chân nhà mình vẫn rỗng không, chẳng có một chút khí lực.
Các ông! Ví như con chó săn chỉ biết đuổi theo dấu chân thôi. Nếu khi gặp con linh dương mọc sừng thì chẳng những không thấy dấu chân, mà hơi hám cũng không biết.
Tăng hỏi:- Con linh dương khi mọc sừng thì sao?
Sư đáp:- Sáu lần sáu là ba mươi sáu. Hội chăng?
Tăng thưa:- Chẳng hội.
Sư bảo:- Chẳng thấy nói ?không dấu chân? sao?
*
Có một vị Tăng ở trong phòng tụng kinh. Sư ở ngoài cửa hỏi: Xà-lê tụng đó là kinh gì? Tăng thưa: Kinh Duy-ma. Sư bảo: Chẳng hỏi kinh Duy-ma người tụng là kinh gì? Vị Tăng này nhân đó được ngộ.
*
Có vị quan liêu đến cúng dường, hỏi: Thế Tôn có mật ngữ, Ca-diếp chẳng phú tàng, thế nào là Thế Tôn mật ngữ? Sư gọi: Thượng thơ! Vị quan ấy: dạ! Sư hỏi: Hội chăng? Vị quan thưa: Chẳng hội. Sư bảo: Ông nếu chẳng hội thì Thế Tôn có mật ngữ. Nếu ông hội thì Ca-diếp chẳng phú tàng.
*
Sư dạy chúng:
- Các ông dù học được việc bên Phật, vẫn là dụng tâm sai lầm rồi. Các ông đâu không thấy cổ nhân giảng được chư thiên rải hoa cúng dường, đá gật đầu, còn chẳng can hệ việc chính mình, ngoài ra còn có nghĩa gì? Như hiện nay toan đem thân tâm hữu hạn nhằm trong vô hạn mà dùng thì có giao thiệp gì? Như đem khúc cây vuông tra vào lỗ tròn thì sự sai ngoa nhiều ít? Nếu không hợp việc ấy, dù ông nói tươi như hoa đẹp như gấm vẫn là vô dụng, vì chưa rời tình thức vậy. Nếu tất cả việc đều hướng trong ấy đến sạch hết mới được không lỗi, mới được xuất thân. Nếu một sợi lông một mảy tóc đẹp chẳng hết liền bị trần lụy, huống là quá nhiều, sai chừng hào ly phạm lỗi bằng quả núi. Cổ nhân nói: Chỗ học chẳng sạch hết, ấy là kẻ thế gian; việc trong khuê các bỏ chẳng đặng, đều là rỉ chảy. Phải nhắm trong ấy nhận lấy, trong mọi hành động đều dẹp sạch tất cả việc, mới được không lỗi. Như người sự sự đều liễu, vật vật đều thông, chỉ gọi là người liễu sự, chẳng gọi là tôn quí. Nên biết tôn quí tự có đường riêng, là vật thế gian rất trọng rất quý. Chẳng được sau này hướng bên tôn quí. Nên biết không thể nghĩ bàn, chẳng xứng tâm mong muốn. Do đó cổ nhân nói: ?Ví như hai gương sáng, ánh sáng đối nhau, ánh sáng soi nhau, không thiếu không dư.? Đâu chẳng phải là một loại, vậy mà vẫn còn gọi việc bên ảnh tượng. Như khi mặt trời mọc lên, ánh sáng soi khắp thế gian là một nửa, một nửa này gọi là gì? Như hiện nay người chưa nhận được việc thô thiển bóng sáng ở ngoài cửa, mà muốn làm việc trong nhà thì làm sao làm được?
*
Sư dạy:
- Người được chẳng nhẹ nhỏ, người sáng chẳng dùng hèn, người biết không than thở, người hiểu không chán xấu. Từ trời rơi xuống là bần cùng, từ đất vọt lên là phú quí, trong cửa ra thân là dễ, trong thân ra cửa là khó. Động thì chôn thân ngàn thước, chẳng động thì liền đó mọc mầm. Một câu nói siêu thoát cứu được người đương thời. Nói bàn chă?g cần nhiều, nói nhiều ắt là vô dụng.
Tăng hỏi:- Thế nào từ trời rơi xuống là bần cùng?
Sư đáp:- Chẳng quí mà được.
- Thế nào từ đất vọt lên là phú quí?
- Trong không mà được có.
*
Sư dạy:
- Liễu không thật có, được thì không chỗ mong, nói không lẽ phải, hành không chỗ nương, tâm không chỗ gá, đến tột mới được không lỗi. Ở chỗ đông như không người, ở chỗ không người như đông, nơi thân như không thân, ở thế như không thế, đâu chẳng phải đức vô nhiễu, vượt hơn muôn loài, thoát khỏi tất cả trói buộc. Ngàn người muôn người được, còn nói chẳng bằng mình. Như hiện nay được cọng khởi một loại bạn đầu, cổ nhân nói: ?thể hội được việc bên nây, lại sang giẵm đạp bên kia?. Bên nây có việc gì? Bên kia lại giẵm đạp gì? Sở dĩ nói có cũng chớ đem đến, nói không cũng chớ đem đi, hiện tại đây là việc nhà ai?
*
Sư dạy:
- Muốn thể hội việc này phải như người thở ra không hít vào, mới cùng người này tương ưng. Nếu thể hội được ý người ấy mới cho ít phần nói bàn, mới có ít phần hành lý. Tạm thời chẳng hiện như đồng người chết, huống là như nay bàn năm luận tháng? Như người thường hiện thì lo gì việc nhà chẳng xong, muốn biết việc lâu xa chỉ như việc hiện nay, hiện nay nếu được lâu xa cũng được. Như người ở viễn phương về nhà, đi đến là phải, phải thì tất cả đều phải, chẳng phải thì tất cả đều chẳng phải. Cần được lửa sáng trên đầu phát, cũng chẳng phải hay làm tất cả, tất cả chẳng làm. Nên nói: trọn ngày tham việc trước mặt, quên mất việc sau lưng. Nếu thấy việc sau lưng, quên mất việc trước mặt. Như người chẳng trước sau thì có việc gì?
*
Sư dạy:
- Như xem vật trong lòng bàn tay, quyết định quyết định, mới có thể tùy duyên. Nếu một như thế thì ngàn muôn cũng vậy, trong ngàn muôn khó làm một hai, một hai không thể được. Đâu chẳng nghe nói: Người hiển chiếu là dễ được, người hiển chiếu rồi thì khó được, chẳng nói hoàn toàn không, mới là hi hữu. Nếu không được như thế chẳng cho gắng làm, gắng làm tức sanh não, sanh não tức lui sụt đạo, lui sụt đạo thì tột đến trên thân, là thấy chẳng được, nói gì là đại thoại.
Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời, nhịn đói nhịn khát chí cầu vô vi, được ở trong Phật pháp mười phần sống chín phần chết, chớ trái với Phật pháp nhổ đinh cắt sắt, chớ mang nhiều việc Như Lai, nên phải ít. Mỗi người tự liễu lấy, có việc thì lại gần đây, không việc hãy lui đi.
*
Sư trụ trì ba mươi năm tại Vân Cư đạo truyền khắp thiên hạ. Chúng hiện có mặt đến một ngàn năm trăm vị. Nam Xương vương tôn Sư làm thầy, nguyện kính làm thầy đời đời.
Đời Đường niên hiệu Thiên Phục năm đầu (902) mùa Thu, Sư có chút ít bệnh, đến ngày hai mươi tám tháng chạp, vì chúng nói pháp lần chót. Sau đó, Sư từ biệt chúng, chúng đều thương mến. Lưu lại đến ngày mùng ba tháng giêng năm sau, Sư hỏi thị giả: Hôm nay ngày mấy? Thị giả thưa: mùng ba. Sư bảo: ?ba mươi năm sau, chỉ nói là cái ấy?. Sư ngồi ngay thẳng từ chúng tịch.
15. HƯNG HÓA TỒN TƯƠNG THIỀN SƯ
(?-924)
Sư làm thị giả Lâm Tế, Lạc Phổ đến tham vấn. Lâm Tế hỏi: Ở đâu đến? Lạc Phổ thưa: Ở Loan Thành đến. Lâm Tế bảo: Có việc đem hỏi được chăng? Lạc Phổ thưa: Mới thọ giới chẳng hội. Lâm Tế bảo: Đập tan nước Đại Đường tìm cái người chẳng hội cũng không, đến nhà tham thiền đi. Sư đi theo sau Lâm Tế, thưa: Vị Tăng vừa mới đến là thành phá y hay chẳng thành phá y? Lâm Tế bảo: Ta nào có quản, ngươi thành phá hay chẳng thành phá? Sư thưa: Hòa thượng chỉ giỏi đem con chim sẻ chết để dưới đất bắn, mà chẳng giỏi đem chuyển ngữ che đậy người. Lâm Tế hỏi: Ngươi lại làm sao? Sư thưa: Thỉnh Hòa thượng làm Tăng mới đến. Lâm Tế bèn nói: Mới thọ giới chẳng hội. Sư thưa: Lại là tội lỗi của Lão tăng. Lâm Tế bảo: Lời của ngươi giấu kín mũi nhọn. Sư suy nghĩ, Lâm Tế liền đánh.
Chiều Lâm Tế lại hỏi: Hôm nay ta hỏi Tăng mới đến là đem chim sẻ chết để dưới đất bắn, hay đến trong ổ đập? Đến ngươi thốt được lời, lại hét khởi xong. Nhằm trong mây xanh đập. Sư thưa: Giặc cỏ đại bại. Lâm Tế liền đánh.
*
Ở hội của Tam Thánh Huệ Nhiên, Sư làm Thủ tọa, thường nói:
- Ta nhắm phương nam đi hành khước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp.
Tam Thánh nghe được hỏi:
- Ngươi đủ con mắt gì mà nói thế ấy?
Sư liền hét. Tam Thánh nói: phải là ngươi mới được.
Sau, Đại Giác nghe thuật lại, bèn nói: Làm sao được gió thổi gã đến trong cửa Đại Giác này.
*
Sư đến hội Đại Giác làm Viện chủ. Một hôm, Đại Giác gọi:
- Viện chủ! Ta nghe ông nói: ?nhắm phương nam đi hành khước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp?, ông cứ y vào đạo lý gì mà nói như thế?
Sư liền hét! Đại Giác liền đánh. Sư lại hét! Đại Giác lại đánh.
Hôm sau, Sư đi ngang qua pháp đường, Đại Giác gọi: Viện chủ! Ta vẫn còn nghi hai tiếng hét của ông hôm qua. Sư lại hét! Đại Giác lại đánh. Sư lại hét! Đại Giác lại đánh. Sư nói:
- Tôi ở chỗ Sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, nay bị Sư huynh bẻ gãy rồi, xin cho tôi pháp môn an lạc.
Đại Giác bảo:
- Cái gã mù, đến trong ấy đã chịu thua, cổi áo nạp ra đánh đòn một trận.
Ngay lời nói này, Sư hiểu được đạo lý Tiên sư Lâm Tế ở chỗ Tổ Hoàng Bá ăn gậy.
*
Sư khai đường, niệm hương:
- Một cây hương này vốn vì Sư huynh Tam Thánh, Tam Thánh đối với ta rất ít oi; vốn vì Sư huynh Đại Giác, Đại Giác đối với ta rất dư dật; chẳng bằng cúng dường Tiên sư Lâm Tế.
*
Tăng hỏi:- Khi bốn phương tám hướng đến làm sao?
Sư bảo:- Đánh khoảng giữa.
Tăng liền lễ bái.
Sư bảo:
- Hôm qua đi phó trai giữa đường gặp một trận gió lớn mưa to, phải đến trong cổ miếu ẩn mình mới qua.
Sư hỏi vị Tăng mới đến:- Ở chỗ nào đến?
Tăng thưa:- Ở chỗ Thiền sư Thôi đến.
- Có đem được cái hét của Thiền sư Thôi chăng?
- Chẳng đem đến được.
- Thế ấy chẳng phải ở chỗ Thiền sư Thôi đến. Tăng liền hét. Sư bèn đánh.
*
Sư dạy chúng:
- Ta chỉ nghe ngoài hành lang hét, ở giá sau cũng hét. Các ông chớ có hét mù, hét loạn, dù cho hét được Hưng Hóa bay đến trụ trong giữa trời, lại phải rơi xuống tắt thở, đợi Hưng Hóa tỉnh lại sẽ bảo ông ?chưa hiện tại?. Vì cớ sao? Ta chưa từng nhằm trong màn lụa đỏ để chân châu, với những người các ông hét loạn trong hư không để làm gì?
*
Vua Đường Trang Tông đi Hà Bắc trở về đến Ngụy Phủ dừng lại Hành Cung, cho sứ mời Sư. Sư đến, Vua hỏi:
- Trẫm thâu Trung Nguyên nhận được hòn ngọc quí, chưa từng có người trả giá.
Sư nói:- Xin Bệ hạ cho xem.
Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân.
Sư nói:- Ngọc quí của quân vương ai dám trả giá.
Trang Tông rất vui, ban cho Sư tử y và hiệu, Sư đều từ chối chă?g nhận. Vua bèn tă?g ngựa, Sư nhận.
*
Sư cỡi ngựa, chợt bị ngựa quăng té gãy chân. Sư gọi: Viện chủ! chuốt cho ta một cái chân cây. Viện chủ chuốt xong đem đến cho Sư. Sư cặp vào đi khấp khểnh chung quanh viện, hỏi Tăng chúng:
- Các ngươi biết Lão tăng chăng?
Chúng Tăng đáp:- Làm sao mà không biết Hòa thượng.
Sư bảo:- Pháp sư què nói được đi chẳng được.
Sư đi đến pháp đường sai Duy-na đánh chuông họp chúng. Chúng tụ họp, Sư bảo:
- Lại biết Lão tăng chăng?
Chúng không đáp. Sư ném chân cây, ngồi ngay thẳng thị tịch.
*
16. VIỆN TAM THÁNH - THIỀN SƯ HUỆ NHIÊN
Sau khi được Lâm Tế truyền tâm pháp, Sư dạo khắp các tùng lâm. Đến Ngưỡng Sơn, Ngưỡng Sơn hỏi:- Ngươi tên gì?
Sư thưa:- Huệ Tịch.
Ngưỡng Sơn bảo:- Huệ Tịch là tên của ta.
- Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn cười to.
*
Nhân có vị quan đến hỏi đạo, Ngưỡng Sơn hỏi: Quan ở vị nào? Quan thưa: Thôi quan. Ngưỡng Sơn dựng đứng phất tử hỏi: Lại Thôi được cái này chăng? Quan không đối được. Ngưỡng Sơn dạy chúng đáp; nhiều người đáp mà không hợp. Sư bệnh nằm tại nhà niết-bàn, Ngưỡng Sơn sai thị giả đến thỉnh Sư đáp. Sư bảo thị giả: Chỉ nói với Hòa thượng ngày nay có việc. Ngưỡng Sơn lại sai thị giả đến hỏi: Chưa biết có việc gì? Sư đáp: Tái phạm chẳng tha.
*
Sư đến Hương Nghiêm, Hương Nghiêm hỏi:- Ở đâu đến?
Sư thưa:- Ở Lâm Tế đến.
- Đem được thanh kiếm của Lâm Tế đến chăng?
Sư lấy tọa cụ che miệng, đánh rồi đi.
*
Đến Đức Sơn, Sư vừa trải tọa cụ, Đức Sơn bảo:
- Chớ trải cái khăn phủi bụi, trong đây không có canh cặn cơm thừa.
Sư thưa:- Dù có cũng không có chỗ đổ.
Đức Sơn liền đánh, Sư chụp gậy đẩy thẳng đến giường thiền. Đức Sơn cười to. Sư khóc nói: trời xanh! rồi xuống nhà tham thiền.
*
Sư ở hội Tuyết Phong, Tuyết Phong nói:
- Mỗi người tự có tấm gương xưa một mặt, con khỉ con vượn cũng có tấm gương xưa một mặt.
Sư ra hỏi:
- Bao nhiêu kiếp không tên, tại sao Hòa thượng lập tên gương xưa?
Tuyết Phong nói:- Bị vết tích.
Sư quở:- Lão Hòa thượng này câu thoại đầu cũng chẳng biết.
Tuyết Phong nói:- Lão tăng tội lỗi, bởi trụ trì nhiều việc.
*
Gặp Hòa thượng Bảo Thọ khai đường (mở hội tham thiền), Sư đẩy một vị Tăng ra trước Bảo Thọ. Bảo Thọ liền đánh vị Tăng ấy. Sư nói: Trưởng lão vì người thế ấy, làm mù mắt hết nhân dân trong thành Trấn Châu.
*
Ở Viện Tam Thánh, Sư thượng đường:
- Ta gặp người liền ra, ra thì chẳng vì người.
Liền xuống tòa.
17. HÒA THƯỢNG ĐẠI GIÁC
Lời Sư tham Lâm Tế và tiếp Hưng Hóa đã nói trong hai vị ấy. Khi sắp lâm chung, Sư gọi chúng bảo:
*
18. THIỀN SƯ VĂN HỶ
(820-899)
*
Niên hiệu Hàm Thông năm thứ ba (862), Sư đến Hồng Châu lại viện Quan Âm yết kiến Ngưỡng Sơn. Qua câu nói, Sư liền khế ngộ bản tâm. Ngưỡng Sơn cử Sư xung chức Điển tọa.
*
Sư nấu cháo, thường thấy Văn-thù hiện trên nồi cháo. Sư lấy cây giầm quậy cháo đập, nói:- Văn-thù tự Văn-thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ.
*
Một hôm, có một vị Tăng lạ đến xin một bữa cơm, Sư bớt phần ăn của mình cúng dường. Ngưỡng Sơn dự biết hỏi:
*
Niên hiệu Quang Khải năm thứ ba (887), Tiền Vương thỉnh Sư trụ Long Tuyền Giải thự (nay là viện Từ Quang).
*
Niên hiệu Quang Hóa năm thứ hai (899), Sư có chút bệnh. Đến ngày hai mươi bảy tháng mười vào lúc giờ tý giữa đêm, Sư bảo chúng:
*
19. THIỀN SƯ QUANG DŨNG
Ở Nam Tháp
Sư họ Chương quê ở Phong Thành ? Dự Chương. Khi mẹ sanh Sư, có thần quang soi sáng khắp sân, ngựa trong chuồng đều kinh hoảng, nhân đó đặt tên Sư là Quang Dũng. Thuở nhỏ Sư rất thông minh, theo Ngưỡng Sơn xuất gia.
*
Sau, Sư kế vị ở Ngưỡng Sơn tháp phía nam. Có vị Tăng hỏi:
*
Tăng hỏi:- Thế nào là diệu dụng một câu?
*
20. THIỀN SƯ TOÀN KHOÁT
Ở Nham Đầu - (828-887)
Sư họ Kha quê ở Tuyền Châu. Thuở thiếu thời, Sư theo Nghị Cộng ở Thanh Nguyên xuất gia. Sau Sư đến Trường An ở chùa Bảo Thọ thọ giới cụ túc và học tập các bộ kinh luật.
*
Đến tham yết Đức Sơn, Sư cầm tọa cụ lên pháp đường nhìn xem. Đức Sơn hỏi: Làm gì? Sư quát tháo. Đức Sơn hỏi: Lão tăng có lỗi gì? Sư thưa: Lưỡng trùng công án. Sư trở xuống nhà tham thiền. Đức Sơn nói: Cái ông thầy in tuồng người hành khước.
*
Tuyết Phong ở Đức Sơn làm phạn đầu (trưởng ban trai phạn). Một hôm cơm trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Tuyết Phong phơi khăn lau, trông thấy Đức Sơn bèn nói: Ông già này, chuông chưa kêu trống chưa đánh mà ôm bát đi đâu?
*
Một hôm, Sư cùng Tuyết Phong, Khâm Sơn ba người họp nhau, bỗng dưng Tuyết Phong chỉ một chén nước. Khâm Sơn nói: Nước trong, trăng hiện. Tuyết Phong nói: Nước trong, trăng chẳng hiện. Sư đá chén nước rồi đi.
*
Sư cùng Tuyết Phong đến từ Đức Sơn. Đức Sơn hỏi: Đi về đâu? Sư thưa: Tạm từ Hòa thượng hạ sơn. Đức Sơn hỏi: Con về sau làm gì? Sư thưa: Chẳng quên. Đức Sơn hỏi: Con nương vào đâu nói lời này? Sư thưa: Đâu chẳng nghe ?trí vượt hơn thầy mới kham truyền trao, trí ngang bă?g thầy kém thầy nửa đức?. Đức Sơn bảo: Đúng thế! đúng thế! phải khéo hộ trì. Hai vị lễ bái rồi lui.
*
Tăng hỏi:- Không thầy lại có chỗ xuất thân chăng?
*
Sư cùng La Sơn đi xem nền tháp. Đi giữa đường La Sơn gọi: Hòa thượng! Sư xoay đầu hỏi: Làm gì? La Sơn đưa tay chỉ nói: Trong ấy có miếng đất tốt. Sư quở: Kẻ bán dưa ở Qua Châu. Lại đi khoảng ít dặm, La Sơn lễ bái hỏi: Hòa thượng đâu chẳng phải ở Động Sơn ba mươi năm mà chẳng chấp nhận Động Sơn ư? Sư đáp: Phải. La Sơn lại hỏi: Hòa thượng đâu chẳng phải nối pháp Đức Sơn mà chẳng chấp nhận Đức Sơn chăng? Sư đáp: Phải. La Sơn hỏi tiếp: Chẳng chấp nhận Đức Sơn thì miễn hỏi, còn Động Sơn có khuyết điểm gì? Sư làm thinh giây lâu đáp: Động Sơn là ông Phật đẹp, chỉ là không hào quang.
*
Sư hỏi vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?
*
Sư dạy chúng:
*
Sau này có người hoặc hỏi Phật, hỏi pháp, hỏi đạo, hỏi thiền, Sư đều hư lên một tiếng. Sư thường bảo chúng: Khi Lão già này đi, sẽ rống lên một tiếng rồi đi.
*
Đời Đường sau thời Quang Khải, Trung Nguyên giặc cướp dấy lên, chú?g Tăng đều đi tránh nơi khác. Sư vẫn an nhiên ở đây. Một hôm giặc đến, chúng trách Sư không có gì dâng biếu, bèn đâm Sư. Sư thần sắc không đổi, chỉ rống lên một tiếng rồi chết. Tiếng ấy vang xa đến mười dặm.
*
21. THIỀN SƯ NGHĨA TỒN
Ở Tuyết Phong - (822-908)
Sư họ Tằng người Nam An Tuyền Châu. Sư sanh trong gia đình thờ Phật, thuở nhỏ đã không chịu ăn thịt cá. Còn trong nôi mà Sư nghe tiếng chuông, hoặc thấy tràng phan, hoa hương, tượng Phật Bồ-tát liền cười.
*
Tại Động Sơn, Sư làm Phạn đầu (trưởng ban trai phạn) đang đãi gạo. Khâm Sơn hỏi: Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát? Sư đáp: Gạo cát đồng thời bỏ. Khâm Sơn hỏi: Đại chúng lấy gì ăn? Sư bèn lật úp thau đãi gạo. Khâm Sơn nói: Cứ theo nhân duyên này, huynh hợp ở Đức Sơn.
*
Một hôm, Động Sơn hỏi: Làm gì đây? Sư thưa: Đẽo máng. Động Sơn hỏi: Đẽo mấy búa được thành? Sư thưa: Một búa đẽo thành. Động Sơn bảo: Vẫn là việc bên này, việc bên kia thì sao? Sư thưa: Hẳn được không chỗ hạ thủ. Động Sơn bảo: Vẫn là việc bên này, việc bên kia thì sao? Sư im lặng.
*
Sư đến tạm biệt Động Sơn, Động Sơn hỏi: Ngươi đi đâu? Sư thưa: Đi về trong đảnh núi. Động Sơn hỏi: Đương thời từ đường nào ra? Sư thưa: Từ đường vượn bay đảnh núi ra. Động Sơn hỏi: Nay quay lại đường mà đi? Sư thưa: Từ đường vượn bay đảnh núi đi. Động Sơn bảo: Có người chẳng từ đường vượn bay đảnh núi đi, ngươi biết chăng? Sư thưa: Chẳng biết. Động Sơn hỏi: Tại sao chẳng biết? Sư thưa: Y không mặt mày. Động Sơn bảo: Ngươi đã chẳng biết, sao biết không mặt mày? Sư không đáp được.
*
Đến Đứ? Sơn, Sư hỏi: Tông thừa từ trước, con có phần cùng chăng?
*
Sư cùng Nham Đầu đi đến Ngao Sơn ở Lễ Châu gặp trở tuyết (tuyết xuống quá nhiều) dừng lại, Nham Đầu mỗi ngày cứ ngủ, Sư một bề ngồi thiền. Một hôm, Sư gọi: Sư huynh! Sư huynh! hãy dậy.
*
Tăng hỏi:- Hòa thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi?
*
Có hai vị Tăng đến, Sư lấy tay chặn cửa am, nhảy vọt ra, nói: Ấy cái gì? Tăng cũng nói: Ấy cái gì? Sư cúi đầu vào am. Tăng từ Sư đi nơi khác. Sư hỏi: Đi nơi nào? Tăng thưa: Hồ nam. Sư bảo: Ta có người bạn đồng hành ở Nham Đầu, gởi ông một lá thơ đưa hộ. Thơ viết: ?Tôi gởi thơ lên Sư huynh, từ ngày tôi thành đạo ở Ngao Sơn về sau cho đến ngày nay vẫn còn no chẳng đói.?
*
Tăng ở lại đến cuối hạ mới lên thưa hỏi câu ấy. Nham Đầu bảo: Sao chẳng hỏi sớm? Tăng thưa: Chưa dám dễ dàng. Nham Đầu bảo: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, mà chẳng cùng ta đồng điều tử. Cần biết câu rốt sau chỉ là thế.
*
Vị Tăng hỏi Hòa thượng Tây Sơn: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang? Tây Sơn đưa cây phất tử lên chỉ đó. Tăng không chấp nhận.
*
Có một vị Tăng ở dưới núi cất thảo am, nhiều năm không cạo tóc, dùng một ống cây dài ra bên suối múc nước. Vị Tăng khác thấy hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang? Am chủ đáp: Suối sâu ống cây dài.
*
Tam Thánh Huệ Nhiên hỏi:- Cá vàng vượt khỏi lưới lấy gì ăn?
*
Sư hỏi vị Tăng mới đến: Vừa rời chỗ nào đến? Tăng thưa: Phú Thuyền (Thiền sư Hồng Tiến) đến. Sư hỏi: Biển sanh tử chưa qua, vì sao lại Phú Thuyền (úp thuyền)? Tăng không đáp được, bèn trở về thuật lại Phú Thuyền. Phú Thuyền bảo: Sao không nói y không sanh tử. Tăng trở lại nói lời này. Sư bảo: Đây không phải lời của ông. Tăng thưa: Phú Thuyền nói thế ấy. Sư bảo: Ta có hai mươi gậy gởi cho Phú Thuyền, còn ta tự ăn hai mươi gậy, chẳng can hệ gì việc Xà-lê.
*
Huyền Sa Sư Bị thưa:- Hiện nay có đại dụng, Hòa thượng phải làm sao?
*
Một hôm, Sư ở trong nhà tăng đóng cửa trước cửa sau nổi lửa đốt, lại kêu: Cứu lửa! Cứu lửa! Huyền Sa đem một thanh củi từ cửa sổ ném vào trong. Sư bèn mở cửa.
*
Sư thượng đường:
*
Một hôm, Sư bảo Huệ Lăng (Trường Khánh):
*
Sư sắp thị tịch, Sư tự chế tháp và làm bài minh, tựa rằng: