HAI BÀI THƠ CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ Thích Tâm Châu dịch và chú thích
ĐỐN TỈNH (Chợt tỉnh) Tuệ Trung Thượng Sĩ
* Đoán tri không, hữu bất tương sa (sai) Snh tử nguyên tòng nhất phái ba. Tạc dạ nguyệt minh, kim dạ nguyệt, Tân niên hoa phát, cố niên hoa . Tam sinhthúc hốt chân phong chúc, Cửu giớituần hoàn thị nghĩ ma. Hoặc vấn như hà vi cứu cánh, Ma-ha bát-nhã tát-bà-ha
*** Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơicứu cánh sao đây ? Siêu nhiêntuệ giác, vẹn đầy “Sa ha”
(Thích Tâm Châu dịch ) ------- Chú thích (Thích Tâm Châu)
Đại ý: Bài thơ này Thượng Sĩ khuyên chúng tacần phảitỉnh thức mau chóng về sự đối đãi ở đời để đi đến chỗ nhất như. Trong chân thể, có không chỉ là một. Sinh tử do làn sóng vọng động của vọng tâmsinh khởi, hết sóng thì nước yên. Trăng tối qua, trăng tối nay, ánh sáng của nó cũng chỉ là một. Hoa năm cũ , hoa năm mới đều là một thể chất của hoa. Thời gian của quá khứ, hiện tại, vị lai như cầm ngọn đuốc trước gió lùa. Chín cõi của chúng sinh còn bị luân hồisinh tử, như kiến trên miệng cối xay. Muốn đạt tới giác-ngộ cứu-cánh, cần phải thành-tựu trí-tuệ siêu-việt.
KIẾN GIẢI (Thấy biết) Tuệ Trung Thượng Sĩ
* Kiến-giải trình kiến-giải, Tự niết mục tác quái. Niết mục tác quái liễu, Minh minh thường tại. ---- Nơi mình, kiến-giải trình ra, Đưa tay chà mắt đốm hoa hiện bày. Lạ lùng, chà mắt, buông tay, Tính chân tự-tại rạng ngời thường như. ---- (Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thích Tâm Châu dịch -- in trong Cánh Hoa Tâm . Canada 2001)
Chú thích (Thích Tâm Châu):
Đại ý : Kiến-giải (Darsana) : Ấn Độ gọi là triết học . Có nghĩa là sự thấy biết, sự nghiên cứusâu xa đến căn bảnchân lý của sự sự, vật vật. Tức là sự hiểu biếtphân biệt chân, giả, đúng, sai, hay, dở đối với sự vật . Đây là một thi kệ, trình bày sự thấy biết của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thực là Trần Tung, con trai Trần Liễu, anh ruột Trần Quốc Tuấn, và là anh vợ vua Trần Thái Tông là Hoàng Hậu Nguyên-Thánh Thiên-Cảm.Vua Trần Thái Tông phong cho ông tước Ninh Hưng Vương. Khi còn nhỏ, ông đã hâm mộcửa Phật. Tính tình thanh cao, thuần hậu. Ông tham học nơi thiền sưTiêu Dao ở Phúc Đường. Ông trực tiếp cầm quân chống quân Nguyên Mông. Ông làm Tiết Độ sứ ở Thái Bình. Ít lâu sau ông lui về ở ấp Tịnh -bang, lập Dưỡng- Chân -Trang và tiếp tụctham cứuđạo Phật. Vua Trần Thánh Tông thường tham cứuthiền học nơi ông. Nhà vua rất khâm phục, ban cho ông hiệu “Tuệ Trung Thượng Sĩ”.
Bài thi kệ “Kiến-giải”của ông nảy sinh trong trường hợptrai tăng trong Hoàng Cung. Nhân, vua Trần Thánh Tông làm lễ trai tăng, thỉnh các bậc danh tăng và Thượng Sĩ vào cung cúng dường, cầu siêu cho Hoàng Hậu đã mất. Trai tăng xong, nhà vua xin mỗi vị một bài thi-kệ ngắn về kiến giải của mình. Đến lượt Thượng Sĩ, Thượng Sĩ liền viết ngay bài thi kệ này.
Thi kệ này, hàm ý, nói về nghĩa chân và vọng. Chân, như thực không thay đổi. Vọng, giả dối, không thực, hay thay đổi. Mắt vẫn sáng, lấy ngón tay ấn vào mắt, mắt hiện ra những hoa đốm trong hư-không. Khi tay không ấn nữa, mắt trở lại sáng như cũ. Đem sự thấy biết của mình trình bày, so sánh với sự thấy biết khác, chỉ là sự thấy biết vọng, chứ không phải chân! Vì còn có sự đối đãi !
Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Phố Tuệ, 104 tuổi, khai thị cho Tăng Ni về phẩm chất của người tu - Thông Điệp Vesak 2019 – Lời chúc Tết năm 2020 và phóng sự về Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Phố Tuệ cùng chư tăng làm ruộng trồng rau
Khi cảm thấy thất vọng, mệt mỏi về kết quả của bầu cử, hãy hướng tâm tới những mục đích và mong nguyện chung của tất cả mọi người. Chúng ta có mặt ở trên đời này để tìm sự bình anh, hạnh phúc cho mình, cho mọi người và rộng ra khắp thế giới. Đó là nguyên lý căn bản của đời sống và xã hội loài người Tất cả mọi người đều mong cầu hạnh phúc, không ai muốn khổ đau và sầu muộn. Niềm hạnh phúc mà con người hướng tới không phải chỉ là sự vui mừng hay thỏa mãn thoáng chốc, mà một cảm giác sâu xa hơn, một cảm giác mình thuộc về thế giới này, một sự gần gũi, sẻ chia và không có sự tách rời với tất cả mọi người ở mọi nơi chốn trên thế giới.
Trước khi vượt biên (1985) tôi có vài lần được học DUY THỨC TAM THẬP TỤNG, và có một lần, một người bạn Phật tử nói với tôi rằng, Thầy Thắng Hoan dạy Duy Thức ở chùa Giác Sanh hay lắm, làm những ông duy vật hoảng hốt, các sinh viên phản bác lại chủ nghĩa duy vật.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.