Nguyễn Văn Sâm (Alexandria, LA, Nov. 21, 2017)
GIÁC MÊ PHÚ (bản văn)
Nguyễn Văn Sâm phiên âm
Nay ta đã nương thuyền[1] Bát Nhã,
[ Vậy] phải tua noi dấu Bồ Đề.
Nước Ma Ha rửa sạch tánh mê,
Cậy tích trượng phá tan thói tục
Muốn nên Phật kíp toan tác phước,
Quyết vượt trần phải gắng cầu duyên.
Quan Đổng Vân tướng trấn đương quyền.
Còn nạp chức tầm thầy Mật Hạnh.
Vua Vũ Đế trị vì chấp chánh,
Cũng hết lòng làm tháp chí công.
Chẳng qua là sự ở thiên công.
(t8) Bị Hầu Cảnh phá tan xã tắc.
Đào lang thiệt rất bền gan sắt,
Vợ cùng chồng ai chẳng kém ai,
Tu hành gắn vó[2] hôm mai,
Lặn lội tìm thầy non núi,
Nhà khiếm khuyết bữa dưa bữa muối.
Phận cơ hàn khi cháo khi rau,
Vợ cùng chồng khuyên bảo với nhau.
Phải nhịn miệng cùng thầy lấy thảo.
Như lòng dầu bạc đạo,
Thời chớ khá dung thân,
Phải nhớ câu xã phú cầu bần.
Đừng quên chữ từ thân cát ái,
Kể thuở Luân vương nhẫn lại[3].
Cũng nhiều người sửa dại làm ngay.
Cho đến đời hiện tại nhẫn nay,
Cũng hiếm người theo lành mà bỏ dữ.
Kỳ hữu tăng hành ác sự[4],
Tảo tu hồi hướng thiện tâm[5],
Khả tích thửa thốn âm,
Chớ màng chi xích bích[6].
Trong tam giáo đạo cùng Nho Thích,
Cũng nhiều người cải lí chánh tà.
(t9) Nhưng rứa mà ta giữ lòng ta,
Nương giáo pháp nhờ trong tam bảo.
Tuy là ba đạo,
Vốn có năm hằng.
Hữu nhân tầm tuấn lĩnh nhi cao đăng.
Hữu nhân tại thị thành nhi thủ giới.
Hữu tại gia nhi thụ phái.
Hữu xuất gia dĩ đoạn trần.
Tại lòng người giải đãi, chuyên cần,
Nào có nhẽ rằng con rằng vợ.
Ngươi Thể Đạt cưới ròng ba vợ,
Cũng làm nên tam giới bổn sư.
Vua Kiều Thi sanh đặng bốn con,
Cũng chứng đặng thập phương tôn giáo.
Có câu nhơn dưỡng vật,
Lại có chữ vật dưỡng nhơn,
Nhị đế xưa phế tử lập nhơn,
Do thiên sử ai mà muốn đặng,
Việc tu hành nói thẳng,
Đừng nói chuyện vọng cầu,
Lời nói phải ngọn đầu,
Mựa để sau lỡ bước.
Ai cho mà phước,
(t10) Mới khỏi nẻo luân hồi,
Gắng công phu sớm tối trau dồi,
Giữ qui luật hôm mai chúc tụng,
Trước nhờ của thập phương tín cúng,
Sau nhờ ơn tam bửu hộ trì,
Quyết nương bửu cái về Tây,
Ngõ Đặng ra vào nơi khoái lạc,
Nguyện chẳng xuống âm ty làm quỷ,
Mới tua lánh khỏi cuộc trầm luân,
Cảnh dương trần xem thấy cho dần
Đặng nguyện tới chốn thanh nhàn cực lạc.
Trương Thiện thiệt là người đại ác.
Trót một đời chẳng đặng chút nhơn.
Sau đến chừng hồi hướng thiện duơn,
Nửa khắc đặng về Tây vực,
Huệ Mầu thiệt tướng chi chức,
Phụng sắc sau truy tróc Đệ Tam,
Tới Bổ Đà khuynh lễ sơn nham.
Phật phong sắc tôn thiên chi vị.
Long Giả nọ thiệt người cư sĩ,
Gắng công phu được cái tràng phan[7].
(t11) Phó Kỳ xưa thiệt kẻ trần gian,
Chí tâm niệm khỏi cơn uổng tử.
Kể từ đời quá khứ, đến hiện tại đương thời,
Cũng có kẻ sát sanh, lại có người ái vật.
Tâm chánh thời là Phật,
Tâm tà vốn thiệt ma.
Thảy cả ở lòng ta,
Họa phước vô nhân triệu.
(Tác giả bản Nôm: vô danh, giới thiệu bản Việt Ngữ: Nguyễn Văn Sâm)
[1] Người Nam xưa phát âm chữ thiền thành thuyền từ đó đưa đến ý niệm con thuyền đưa đến bến bờ giải thoát của kinh Bát Nhã Ba La Mật
[2] Gắn vó: Nay nói gắn bó. Phiên âm theo thời đại bản văn xuất hiện. y
[3] Kể từ thuở luân Vương đến nay.
[4] Đời nay ít kẻ làm lành, mà thườn gcó những người làm ác.
[5] Nhữn người đó nên hướng về cái tâm thiện.
[6] Nên tiếc cái thời gian của cuộc sống, đừng lãng phí mà lo chuyên nhà rộng vách cao. Phù phiếm thôi!
[7] Người Nam xưa đọc chữ nầy là phan, nên cho vần với chhữ phiên câu dưới. Âm chuẩn là phan