KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
ĐỐI CHIẾU & NHẬN ĐỊNH
THÍCH CHÚC PHÚ
Nhà xuất bản : Hồng Đức 2014
CHƯƠNG 2 HÌNH THỨC SA-MÔN
1. CHÁNH VĂN 佛言. 除鬚髮. 為沙門. 受道法. 去世資財. 乞求取足. 日 中一食. 樹下一宿. 慎不再矣. 使人愚弊者. 愛與欲也 Dịch nghĩa Phật dạy: Cạo bỏ râu tóc, theo phép Sa-môn,
thọ trì đạo pháp,
buông xả tài sản,
khất thực vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa,
dưới gốc cây ngủ một đêm,
thận trọng đừng mong thêm; vì điều khiến
con người ngu, tệ, đó chính là ái và dục.
2. ĐỐI CHIẾU 2.1. Tư liệu Hán tạng ĐTKĐCTT, tập 1, số 001, Kinh Trường A-hàm, quyển 6, kinh Tiểu Duyên thứ nhất. Hậu Tần, Hoằng Thỉ, Phật-đà Da-xá và
Trúc Phật Niệm dịch. … Này Bà-tất-tra! Trong dòng Sát-lỵ có kẻ cắt tóc cạo râu, mặc y
tu đạo, tu bảy pháp
giác chi, không bao lâu là được
thành đạo. Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy mặc
pháp y xuất gia, tu các 39
Phạm hạnh cao thượng, thì chính ngay trong
hiện tại tự thân
tác chứng, sự sanh đã dứt,
Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh. Trong dòng Bà-la-môn, dòng
Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà có kẻ cắt bỏ râu tóc, mặc
pháp y tu đạo, tu bảy pháp
giác chi, không lâu cũng sẽ được
thành đạo như thế. Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy
xuất gia, mặc
pháp y, tu các
Phạm hạnh vô thượng, chính ngay trong
hiện tại tự thân
tác chứng, sanh đã dứt,
Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn
tái sanh. Này Bà-tất-tra! Cả bốn
chủng tánh đó, đều có thể
xuất sinh bậc La-hán
thành tựu viên mãn minh và hành, là bậc đứng nhất ở trong năm
chủng tánh ấy. Này Bà-tất-tra!
Phạm thiên có
bài kệ rằng:
Trong đời, Sát-lỵ nhất. Với ai y
chủng tính,
Minh hành thành đầy đủ Bậc nhất trong Trời-Người. (Trường A-hàm, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB.Phương Đông, 2008, tr.260-261) 大正新脩大藏經第 01 冊 No. 0001 佛說 長阿含經, 卷第六, 小 緣經第一 後秦弘始年佛陀耶舍共竺佛念譯 … 婆悉吒. 剎利種中. 有剃除鬚髮. 法服修道. 修七覺意. 道成 不久. 所以者何. 彼族姓子法服出家. 修無上梵行. 於現法中自身作 證. 生死已盡. 梵行已立. 所作已辦. 不復受有. 婆羅門. 居士. 首陀羅 種中. 有剃除鬚髮. 法服修道. 修七覺意. 道成不久. 所以者何. 彼族姓 子法服出家. 修無上梵行. 於現法中自身作證. 生死已盡。梵行已立. 所作已辦. 不復受有. 婆悉吒. 此四種中皆出明行成就羅漢. 於五種中 40 為最第一. 佛告婆悉吒. 梵天王頌曰. 生中剎利勝. 能捨種姓去. 明行 成就者. 世間最第一 ĐTKĐCTT, tập 1, số 0021, Kinh
Phật Thuyết Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến. Nguyệt Chi, Ưu-bà-tắc
Chi Khiêm dịch. Phật dạy, Sa-môn ngày ăn một bữa, chiếu tối không ăn, đúng thời thì ăn, không đúng thời không ăn. Bước
đi thong thả,
y bát luôn bên mình, ăn
vừa đủ thì ngưng. Dù đi đến đâu, đều phải
mang theo y bát,
ví như chim chóc
sở dĩ bay được tới
mọi nơi, đều do hai cánh ở bên thân. Tỷ-kheo cũng như vậy, đối với việc y áo hay
ẩm thực, thì chỉ nên lấy
vừa đủ dùng. 大正新脩大藏經第 01 冊 No. 0021, 佛說梵網六十二見經. 月支優婆塞支謙譯. 佛言. 沙門一飯. 暮不食. 以時食. 離不時食. 行知止足於衣鉢食 取足而已. 所行至處. 皆齎衣鉢自隨身. 譬如飛鳥所行至處兩翅隨其 身. 比丘亦如是. 於衣被飯食鉢取足而已. ĐTKĐCTT, tập 17, số 0721, Kinh
Chánh pháp Niệm xứ, quyển 59, phẩm Quán Thiên thứ 38. Nguyên Ngụy, Bà-lamôn Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi dịch. Tỷ-kheo
thiểu dục,
thanh tịnh tri túc,
danh tiếng đồn xa. Ngày ăn một bữa, mặc y
phấn tảo,
tự tại độc hành,
du hóa khắp chốn, non thẳm làng xa, hoặc bãi tha ma.
Thức ăn ba phần, không nên dùng hết. Khi đi
khất thực, tránh xa
đàm luận, không gần người thân, chỉ thọ một bát. Tay cầm
tích trượng, khi nhận
cúng dường, dùng trí định lượng,
buông xả nếu dư. Nếu đi trên đường, chỉ nhìn một quãng, không được ngó nghiêng.
Lìa bỏ mỹ vị, không được ăn đêm, ở trong làng xóm, không quá ba đêm. 大正新脩大藏經第 17 冊 No. 0721. 正法念處經卷第五十九 . 觀 天品之三十八. 41 元魏婆羅門瞿曇般若流支譯 少欲比丘知足清淨. 名稱普聞. 唯受一食. 唯著糞掃衣. 唯獨無 侶. 遊於山谷巖窟草聚. 唯處塚間. 於食三分. 唯食其二. 若乞食時. 遠避知識. 不近親里. 唯畜一鉢. 執持錫杖. 隨得供養. 以智思惟. 捨 之而去. 若行道路. 前視一尋. 不左右顧眄. 捨離美味不食宿飯. 於聚 落中限至三宿. ĐTKĐCTT, tập 1, số 026, Kinh Trung A-hàm, quyển 51,
Đại phẩm, kinh A Thấp Bối, số 195. Tôi nghe
như vầy: Một thời Phật trú tại nước Ca-thi cùng với
đại chúng Tỷ-kheo.
Nhất tọa thực Trong lúc dừng chân tại một nơi,
Đức Phật nói với các Tỷ-kheo rằng: Ta một ngày chỉ ăn
một lần. Một ngày chỉ ăn
một lần xong,
vô vi vô cầu, không bệnh không đau,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực
dồi dào,
an ổn khoái lạc. Các ngươi cũng nên một ngày chỉ ăn
một lần. Một ngày chỉ ăn
một lần xong,
vô vi, vô cầu, không bệnh không đau,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực
dồi dào,
an ổn khoái lạc. Lúc bấy giờ
Đức Thế Tôn vì chúng Tỷ-kheo mà thi thiết giới, một ngày chỉ ăn
một lần. Các Tỷ-kheo đều phụng trì theo
học giới này và các pháp
vi diệu trong
cảnh giới của
Thế Tôn. (Trung A-hàm, tập 4, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB.Phương Đông, 2013, tr.2084) 大正新脩大藏經第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 卷第五十一. 大品 一九五. 阿濕貝經 42 我聞如是.一時. 佛遊 迦尸國. 與大比丘眾俱. 遊在一處. 告諸比 丘. 我日一食. 日一食已. 無為無求. 無有病痛. 身體輕便. 氣力康強. 安隱快樂. 汝等亦應日一食. 日一食已. 無為無求. 無有病痛. 身體輕 便. 氣力康強. 安隱快樂.爾時. 世尊為比丘眾施設日一食戒. 諸比丘 眾皆奉學戒及世尊境界諸微妙法. ĐTKĐCTT, tập 15, số 649, Kinh
Quán sát chư pháp hành, quyển thứ tư. Đời Tùy,
Thiên Trúc,
Tam tạng Xà- na-quật-đa dịch. Không tham vướng chỗ ở,
Buông xả như chim bay. Chớ mong
cầu lợi dưỡng, Đừng tính kể thân này. 大正新脩大藏經第 15 冊 No. 0649, 觀察諸法行經卷第四. 隋天竺三藏闍那崛多譯 莫愛著住處. 應去如飛鳥. 莫行為利養. 亦勿計我身.
2.2. Tư liệu Nikaya Kinh Tương ưng, kinh Tri túc. 1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) -
Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất cứ loại y nào, và
tán thán hạnh
tri túc với bất cứ loại y nào; không vì y làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được y, vị này không có
dao động. Và nếu được y, vị này dùng y không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ. 43 3)
Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kasssapa này, với bất cứ đồ ăn
khất thực nào,
tán thán hạnh
tri túc với bất cứ đồ ăn
khất thực nào; không vì đồ ăn
khất thực, làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được đồ ăn
khất thực, vị này không có
dao động. Và nếu được đồ ăn
khất thực, vị này dùng đồ ăn
khất thực ấy, không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ. 4)
Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất cứ loại sàng tọa nào, và
tán thán hạnh
tri túc với bất cứ loại sàng tọa nào; và không vì sàng tọa, làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được sàng tọa, vị này không có
dao động. Và nếu được sàng tọa, vị này dùng sàng tọa ấy, không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ. 5)
Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất cứ thuốc men trị bệnh nào. Và vị này
tán thán hạnh
tri túc với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào; và không vì duyên với thuốc men trị bệnh, làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được thuốc men trị bệnh, vị này không có
dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh, vị này dùng thuốc men trị bệnh ấy, không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ. 6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: “Chúng tôi sẽ
tri túc với bất cứ loại y nào, và
chúng tôi sẽ là người
tán thán hạnh
tri túc với bất cứ loại y nào. Và không vì y,
chúng tôi sẽ làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được y,
chúng tôi sẽ không
dao động. Và nếu được y,
chúng tôi sẽ dùng y ấy, không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy sự nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ.
Chúng tôi sẽ
tri túc với bất cứ loại đồ ăn
khất thực nào... với bất cứ loại sàng tọa nào... với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào, và
chúng tôi sẽ là người
tán thán sự
tri túc với bất cứ 44 loại thuốc men trị bệnh nào. Và không vì thuốc men trị bệnh,
chúng tôi sẽ làm điều
bất chánh, bất xứng.
Nếu không được thuốc men trị bệnh,
chúng tôi sẽ không
dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh,
chúng tôi sẽ dùng thuốc men trị bệnh ấy, không
tham lam, không
say đắm, không
phạm tội, thấy nguy hại, quán
xuất ly với
trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông
cần phải học tập”. (Kinh
Tương ưng, tập 2,
Thiên nhân duyên, chương 5,
Tương ưng Kassapa, kinh
Tri túc, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1997, tr.335-337) Kinh
Trung bộ,
kinh Kitagiri.
Như vầy tôi nghe. Một thời
Thế Tôn du hành ở Kasi cùng với
đại chúng Tỷ- kheo. Ở đây,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, Ta ăn,
từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ- kheo, do ăn,
từ bỏ ăn ban đêm, Ta
cảm thấy ít bệnh, ít não,
khinh an, có
sức lực và
an trú. Này các Tỷ-kheo, hãy đến và ăn,
từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn,
từ bỏ ăn ban đêm, các Ông sẽ
cảm thấy ít bệnh, ít não,
khinh an, có
sức lực và
an trú. - Thưa vâng, bạch
Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn. (Kinh
Trung bộ, tập 2,
kinh Kitagiri, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1992, tr.291) Kinh
Trung bộ,
Tiểu kinh Dụ
dấu chân voi. Vị ấy
từ bỏ làm hại đến các hột giống và
các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm;
từ bỏ ăn
phi thời;
từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc
trình diễn;
từ bỏ trang sức bằng
vòng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức; 45
từ bỏ dùng giường cao và giường lớn;
từ bỏ nhận các hạt sống;
từ bỏ nhận thịt sống,
từ bỏ nhận đàn bà, con gái;
từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai;
từ bỏ nhận cừu và dê;
từ bỏ nhận
gia cầm và heo;
từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái;
từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai;
từ bỏ nhận người
môi giới hoặc tự mình làm
môi giới;
từ bỏ buôn bán;
từ bỏ các sự
gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường;
từ bỏ các
tà hạnh như hối lộ,
gian trá,
lừa đảo;
từ bỏ làm
thương tổn,
sát hại,
câu thúc, bức đoạt,
trộm cắp, cướp phá. (Kinh
Trung bộ, tập 1,
Tiểu kinh Dụ
dấu chân voi, số 27, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1992, tr.400-401) Kinh
Trường bộ, kinh
Sa-môn quả. Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp (hạ tiện) nào
nghe pháp ấy. Sau khi
nghe pháp, người ấy sanh lòng
tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng
tín ngưỡng ấy, vị này
suy nghĩ: “Đời sống
gia đình đầy những
triền phược,
con đường đầy những bụi đời.
Đời sống xuất gia phóng khoáng như
hư không. Thật rất khó cho một người sống ở
gia đình có thể sống theo
Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ,
hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia,
từ bỏ gia đình”. Một
thời gian sau, người ấy bỏ
tài sản nhỏ hay
tài sản lớn, bỏ
bà con quyến thuộc nhỏ hay
bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Khi đã
xuất gia như vậy, vị ấy sống
chế ngự với sự
chế ngự của
giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
thọ trì và học tập trong
giới học,
thân nghiệp,
ngữ nghiệp thanh tịnh. Sanh hoạt
trong sạch giới hạnh cụ túc,
thủ hộ các căn,
chánh niệm tỉnh giác, và biết
tri túc. (Kinh
Trường bộ, tập 1, kinh
Sa-môn quả, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1991, tr.121-122) 46 Kinh
Tăng chi bộ, kinh Sống quá lâu. Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?
Xan tham đối với trú xứ;
xan tham đối với
gia đình;
xan tham đối với đồ vật
cúng dường;
xan tham đối với
công đức;
xan tham đối với pháp. Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ. Có năm
lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nếu sống
đồng đều tại mỗi chỗ. Thế nào là năm? Không
xan tham đối với trú xứ; không
xan tham đối với
gia đình; không
xan tham đối với đồ được
cúng dường; không
xan tham đối với
công đức; không
xan tham đối với pháp. Có năm
lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nếu sống
đồng đều tại một chỗ. (Kinh
Tăng chi bộ, tập 2, chương Năm pháp, phẩm
Du hành dài, kinh Sống quá lâu, Viện NCPHVN, 1996, tr.724-725)
3. NHẬN ĐỊNH Đây là một chương ngắn, nhưng chuyên chở những chất liệu
căn bản để
xây dựng nên
Phạm hạnh của một vị Sa-môn theo chuẩn mực
Phật giáo. Các kinh
liên quan đến chương này
xuất hiện rời rạc trong nhiều
bộ loại kinh điển và
xuất hiện khá sớm trong những bản
biệt hành. Do đó, khi phát hiện những đoạn kinh
tương tự như chương hai, khoan vội
kết luận cho rằng, chúng được dẫn xuất từ
kinh Tứ thập nhị chương. Vì trong
thực tế, đã có vài nhà
nghiên cứu căn 47 cứ vào một tờ biểu của một
sĩ phu thời cổ đại là Tương Giai được ghi lại trong Hậu Hán thư, lấy
ý tưởng đệ tử Phật không ngủ dưới cây một đêm, cũng như
câu chuyện thiên thần dâng
ngọc nữ cho Phật, các
tác giả đó đã cho rằng,
kinh Tứ thập nhị chương đã có mặt vào thời của Tương Giai. Thật sự, đây vốn là những motif đắt giá và
sinh động, đã
xuất hiện trong những dịch phẩm
kinh điển chữ Hán có niên đại khá sớm như kinh Ma-nhân-đề nữ, quyển 9, do
cư sĩ Chi Khiêm dịch; kinh
Chánh pháp Niệm xứ, quyển 59, Nguyên Ngụy, Bà-lamôn Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi dịch.