Thích
Thiện Siêu
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - 2002
KHAI ĐẠO GIỚI TỬ
THỌ BỒ TÁT GIỚI
Chư vị Giới tử,
Cùng một danh từ
Bồ-tát, nhưng phân biệt ra có: Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng
Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Như hôm nay, các vị phát tâm thọ giới Bồ-tát,
là chỉ mới phát tâm thôi, chưa làm gì xứng đáng với sự phát tâm ấy, chưa hoàn
thành những giới hạnh của một vị Bồ-tát thì chỉ được gọi là Sơ phát tâm Bồ-tát.
Từ đó, tu tập trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng, tu luyện theo những
pháp môn Đại thừa mà đức Phật đã chỉ dạy thì gọi là Gia hạnh Bồ-tát. Nhờ sự gia
hạnh đó mà vô minh sẽ diệt bớt, chân như sẽ được chứng thành, dần dần nhập vào
Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Thập địa. Những Bồ-tát ở địa vị này
được gọi là Địa thượng Bồ-tát.Các vị ấy, sau khi đã thành tựu Đắng giác, Diệu
giác, vẫn tùy duyên hóa độ chúng sinh dưới nhiều hình thức, dưới nhiều căn cơ,
dưới nhiều phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ, không trú Niết-bàn của các
đức Phật, gọi là Địa hậu Bồ-tát. Vậy cùng một danh từ Bồ-tát nhưng có Sơ phát
tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Hiểu
rõ như thế chúng ta mới có một ấn tượng rõ rệt để phát tâm một cách vững chắc,
tu hành một cách sáng suốt. Địa vị đã khác nhau như thế, thì tại sao chúng ta
cũng được gọi là Bồ-tát, các vị Gia hạnh, Địa thượng, Địa hậu cũng gọi là
Bồ-tát cả? Bởi vì tuy cấp bậc khác nhau, nhưng có mộl điểm đồng nhất, đó là
Bồ-đề tâm. Bắt đầu phát Bồ-đề tâm là phát tâm thượng cầu hạ hóa (trên cầu được
giác ngộ, dưới cầu hóa độ chúng sinh). Tâm đó phát ra giờ phút nào thì chính
giờ phút đó, chúng ta được gọi là Bồ-tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, suốt thời
gian không gian không bao giờ lay chuyển, cho đến khi trải qua các địa vị Gia
hạnh, Địa thượng, Địa hậu vẫn một tâm Bồ-đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên
các hột chuỗi. Nhìn vào địa vị thì có Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa
thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Chúng ta không thể nào sánh bằng đức
Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí; chúng ta cũng không thể nào sánh bằng những vị
Bồ-tát trên các địa vị Tín, Trụ, Hạnh, Hướng ở Thập địa... nhưng bên trong vẫn
là một tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả. Vì cái tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả đó mà
tất cả đều được mang danh từ Bồ-tát, căn cứ vào sự phát Bồ-đề tâm. Như đức Bổn
sư Thích-ca của chúng ta, lúc ban sơ cũng là một chúng sinh lăn lộn trong vòng
luân hồi đau khổ. Một hôm nọ, như bao nhiêu chúng sinh khác trong cảnh địa
ngục, phải vất vả kéo xe mà còn bị ngục tốt hành hạ, Ngài phát tâm mong sao cho
mình được mạnh khỏe để kéo thay cho tất cả những chúng sinh khác để họ khỏi bị
hành hạ. Bắt đầu từ đó, Ngài phát một tâm lợi tha. Tâm ấy là căn bản, rồi từ
đấy chuyển nghiệp tiến tu, cho đến khi thành Phật, tâm Bồ-đề ấy vẫn không dứt
đoạn. Cũng vì sự phát lâm ấy là một sự phát tâm rộng lớn, căn cứ vào Đại thừa
tánh, nên Kinh thường tán thán rằng những người nào phát Bồ-đề tâm tức là đã
thành giác ngộ, không cần trải qua các địa vị, vì đã cầm chắc trong tay quả vị
giác ngộ rồi. Bởi thế, sự phát Bồ-đề tâm trở thành Bồ-tát là một điều hết sức
quan trọng.
Khi đức Phật dạy
các giới pháp Sa-di và Tỳ-kheo, khi chúng ta lãnh thọ các giới pháp ấy, là
chúng ta đã trở thành những người xuất gia với những giới luật và tư cách đã
đầy đủ lắm rồi. Nhưng còn phương diện lợi tha, hành đạo rộng rãi vô biên nữa
nên Phật mới căn cứ vào tâm địa giác là giác tánh có sẵn ở trong tất cả chúng
sinh cũng như nơi đức Phật và Bồ-tát. Tất cả đều có tâm địa giác, nhưng ở chúng
ta thì không thành tâm địa giới, bởi vì tâm địa giác ở chúng ta không được để
ý, không được khai thác, không được khuếch truơng, không được hiểu biết. Tâm
địa giác nơi chúng ta luôn bị vùi lấp dưới những hành vi sai quấy, những nghiệp
chướng nặng nề, những tâm niệm ích kỷ, nên không thành Đại thừa tâm địa giới.
Phật thấy chúng sinh đã có tâm địa giác nhưng chưa có tâm địa giới, nên mới căn
cứ vào tâm địa giác đó mà chế ra những điều mục tu hành để thành tựu tâm địa
giới. Tâm địa giới ấy gọi là Đại thừa Bồ-tát tâm địa giới mà hôm nay các vị sắp
thọ. Tâm địa chúng ta vốn có khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Phật từ đó chế
ra Nhiếp luật nghi giới. Tâm địa chúng ta vốn đủ khả năng làm mọi điều lợi ích,
chuyển nghiệp, căn cứ vào đó Phật chế ra Nhiếp thiện pháp giới. Tâm địa chúng
ta vốn là giác tánh bình đẳng, lợi lạc hữu tình, từ bi hỉ xả, quảng đại vô
biên, vô lậu, Phật căn cứ vào đó chế ra Nhiếp chúng sinh giới (Nhiêu ích hữu
tình giới). Tu tập theo Nhiếp luật nghi giới, chúng ta ngăn ngừa mọi tội lỗi ba
nghiệp thân miệng ý. Tu tập theo Nhiếp thiện pháp giới, chúng ta làm mọi việc
lành, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh hay tám muôn bốn nghìn pháp môn mà đức
Phật đã chỉ giáo cho chúng ta tu hành. Nhiếp luật nghi giới là 10 giới trọng
cấm và 48 giới khinh mà kinh Phạm Võng đã đề ra và lát nữa đây các vị sẽ thọ.
Tám vạn bốn nghìn pháp môn là những pháp môn phụng thờ Tam Bảo, thừa sự Như
Lai, không phải một hai đức Phật mà vô lượng đức Phật. Với một tâm Đại thừa quả
cảm, dõng mãnh tinh tấn phụng thờ Tam Bảo mà khi gặp đức Phật Đề-sa đi ngang
qua, Ngài (Bồ-tát Thích-ca văn) đã say sưa chiêm ngưỡng đức Phật trong bảy
ngày; một cái chân giơ lên, không để xuống mà không biết; mắt không nháy mà
không hay. Lúc đó Ngài chỉ thấy việc tán dương đức Phật là sung sướng, quý báu
hơn tất cả, thời gian không có nữa đối với Ngài. Nhiếp thiện pháp giới có vô số
phương pháp tu tập, nhưng nói tóm Tứ nhiếp, Lục độ là những phương pháp viên
mãn nhất để lợi lạc chúng sinh. Cuối cùng, vượt lên trên tất cả Nhiếp luật nghi
giới, Nhiếp thiện pháp giới là Nhiếp chúng sinh giới. Đây là một điều nhằm vào
sự cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Trong Sa-di giới, Tỳ-kheo giới, sự cứu
độ này được coi nhẹ, nhưng ở Bồ-tát giới thì rất trọng. Vì lẽ, một tâm Bồ-đề
“thượng cầu hạ hóa” là một tâm nhìn xa, thấy rộng, biết sâu không phải là một
tâm còn hạn cuộc trong một chúng sinh, trong một thân ngũ uẩn. Tâm đó vượt
ngoài biên cương của một thể xác để nhìn khắp tất cả chúng sinh cùng chung một
tâm địa giác như mình, khổ đau như mình, cùng chung một khả năng giác ngộ như
mình, để theo niệm đại bi đồng thể đó mà cứu độ tất cả. Tu tập theo đó là Nhiếp
chúng sinh giới.
– Chúng sinh vô
biên thệ nguyện độ,
– Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn,
– Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học,
– Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
Bốn đại nguyện là
duyên theo Bốn đế mà phát ra. Một người muốn giữ trọn Bồ-tát giới phải phát
Bồ-đề tâm, lập bốn đại nguyện. Từ căn bản đó mới phát sinh, thành tựu các giới
đức viên mãn.
(Khai đạo Giới tử thọ Bồ-tát giới tại giới đàn Vĩnh Gia, năm 1970).