Tôn Giáo Của Duy Lý

02/03/20203:49 SA(Xem: 5552)
Tôn Giáo Của Duy Lý
TÔN GIÁO CA DUY LÝ
Thích Châu Viên trích dịch 
từ cuốn sách “Đạo đức học phật giáo” của giáo sư tiến sỹ Phra Dharmakosajarn

hoa sen trangTrí tuệ được xem là nền tảng căn bản và quan trọng nhất của Đạo Phật, Đức Phật dạy con người hãy nhìn nhận  thế giới quan bằng con mắt tuệ giác. Ngài giải thích tất cả sự vật hiện tượng của con ngườithiên nhiên không không phải bởi niềm tin mê tíngiáo điều, mà là bởi phương pháp thông diễn có thể áp dụng, nói cách khác, luật hay nguyên lý nhân quả. Tất cả các pháp, vật chất và phi vật chất hoàn toàn tuân theo quy luật tự nhiên (Niyama). Năm quy luật tự nhiên được liệt kêdiễn giải rất rõ trong Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangalavilasini) như sau:

  1. Định luật về nghiệp báo (kammaniyama): là định luật hành vi và quả hay là “nhân quả”. Nhân gieo thì trổ quả. Nhân tốt đem lại quả tốt, nhân xấu đem lại quả xấu, đó là sự tự nhiên phải trổ sanh ra như vậy chớ không do ai thưởng phạt cả. Định luật về nghiệp báo tự nhiênnăng lực tác động mà không cần đến sự kích thích. Muốn hay không muốn bên ngoài đây là định luật chung của vạn vật trong vũ trụ.
  2. Định luật về thời tiết (Utuniyama): là định luật liên quan đến sự tiến triển các vật chất không có cơ thể như hiện tượng mưa, gió, thời tiết nóng, lạnh, xuân, hạ, thu, đông tự nhiên thay đổi.
  3. Định luật về giống chồi, mầm và tế bào (Bijaniyama): là định luật về sự tiến triển của những vật chất hữu cơ như cây cỏ, hột giống và những vật có tế bào. Nói cách khác là gieo nhân nào gặt quả ấy.
  4. Định luật về tâm thức (Cittaniyama): Như lịch trình diễn tiến của tâm thức, sự sanh, sự diệt của tâm niệm, những tác động của tâm, những hiện tượng của thần giao cách cảm, viễn cảm, hồi thức, huệ nhãn, huệ nhĩ, tha tâm thông .v.v. đều thuộc về Định luật tâm thức.
  5. Định luật về quy phạm hay các pháp (Dhammaniyama): như hấp dẫn lực, nhẹ bay lên, nặng rơi xuống, nhẹ hút vào nặng, dị chất phản ứng, như âm dương tương phản, quy luật của tương sinh, tương tức, và duyên khởi (Paticcasamuppada). Đây là luật phổ biến nhất có chứa trong bốn định luật luật được nêu trên.

Với bộ luật này, Đức Phật đã bác bỏ thuyết định mệnh của chủ nghĩa hữu thần. cuộc đời con người không phải quyết định bởi Thượng Đế (isssaranimmanahetu) mà là bởi nghiệp của người ấy thực hiện. Những điều kiện biểu hiện trong hiện tại là kết quả nghiệp trong quá khứ. Đức Phật dạy rằng: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy" Hơn nữa, những niềm tin mê tín dưới nhiều hình thức khác nhau đã được Đức Thế Tôn loại bỏ. Ngài tuyên bố rằng:

 “Bahuka, sông Gàya, sông Sundarikà không thể đem lại sự giải thoát cho kẻ ngu nhiều ác nghiệp, cũng không thể rửa sạch nghiệp đen của kẻ ác gây tội. Này thầy Bà-la-môn! Thầy nên tắm, rửa tội thứ nước mà Như Lai đã dạy là: không nói dối, không làm hại chúng sinh khác, không nên lấy của người khác, không nên bỏn sẻn keo kiệt. Tất cả mọi khổ đau hay hạnh phúc đều do chúng ta tự tạo ra và tự nhận lấy kết quả. Ngược lại, tuy thầy có đi đến con sông Gaya và uống nước ấy cũng không lợi ích gì cho thầy”

“Chờ đợi các vì sao
Kẻ ngu hỏng điều lành,
Điều lành chiếu điều lành,
Sao trời làm được gì?”

 

Điều đáng nói ở đây là khía cạnh duy lý của Phật giáo, những minh chứng trên cho thấy rằng Phật giáo là một trong những đồng minh chính thức của khoa học. Trong suốt bề dày lịch sử thì Phật giáo chưa bao giờmâu thuẫn với khoa học hay những cuộc tranh cải với nhà khoa học. Bởi vì trên thực tế Đạo Phật từ chối niềm tin vào thượng đế và sự mê tín không chấp nhận được đối với khoa học. Hơn nữa cả Phật giáo và khoa học quan điểm tương đồng trong quy luật tự nhiên; quan hệ nhân quả là điểm chung có thể xích lại gần với nhau.

Nhận thức được sự tương thích giữa Phật Giáo và khoa học, Albert Einstein một trong nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20 nói rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điềuthần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó"

Đồng thời, một lần nữa ông cũng khẳng định rằng: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học"

 

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :