Bilingual. 156. Ambassador Lodge proposed cutting aid selectively to force the Diem government to change. Properly handled, they can undermine the “political credit rating” of Nhu (and by inference Diem) and at the same time improve the US image in Asia and elsewhere and assuage US public opinion which Washington feels important at this time. Each move should follow immediately on the heels of a new provocation on the part of the GVN to show a cause and effect relationship. These provocations may be directed either against the US (occurring almost daily in “The Times of Viet-Nam” and in Mme. Nhu’s tirades abroad) or against the Vietnamese populace. We assume that we are concluding that the war cannot be won on a permanent basis with the present government; that covert negotiation with the military will proceed concurrently with other US actions to effect a change in government, and that the management of the aid is designed to reinforce such other attempts to change the government. DOD psywar—We suggest that [garble] withhold funds for this item in their joint support budget and then tell General Oai that we are doing this because of the close tie-in of his activities with the personal fortunes of Counsellor Nhu. If we should ever get ourselves in the unfortunate position of fighting a war on the side of rebellious Generals while the Ngo family still retains power in Saigon, we could pump in dollars or military scrip and make that acceptable currency in the regions we control. After some months of aid cut-offs we could expect importers and government bureaucrats to become worried that reserves will be exhausted and hoarding, speculation, and major price increases to set in. This would be the period of major psychological impact on the government and it is our estimate they would be more inclined to talk than they are now.// Đại sứ Lodge đề nghị cắt viện trợ một cách chọn lọc để buộc chính phủ Diệm thay đổi. Nếu được xử lý đúng cách, chúng có thể làm suy yếu “xếp hạng tín dụng chính trị” của Nhu (và rồi suy yếu Diệm), đồng thời cải thiện hình ảnh của Mỹ ở châu Á và các nơi khác, đồng thời xoa dịu dư luận Mỹ mà Washington cảm thấy quan trọng vào thời điểm này. Mỗi hành động [cắt giảm viện trợ] nên diễn ra ngay sau một hành động khiêu khích mới từ phía Chính phủ VNCH để thể hiện mối quan hệ nhân quả. Những hành động khiêu khích này có thể nhằm mục đích chống lại Hoa Kỳ (xảy ra gần như hàng ngày trên báo “The Times of Viet-Nam” và trong các bài phát biểu của Bà Nhu ở nước ngoài) hoặc chống lại người dân Việt Nam. Chúng tôi cho rằng chúng ta đang kết luận rằng cuộc chiến không thể giành chiến thắng lâu dài với chính phủ Diệm hiện tại; rằng cuộc đàm phán bí mật với quân đội sẽ tiến hành đồng thời với các hành động khác của Hoa Kỳ nhằm tạo ra sự thay đổi trong chính phủ và việc quản lý viện trợ được thiết kế để củng cố những nỗ lực khác nhằm thay đổi chính phủ. Cục Tâm Lý Chiến của Bộ Quốc phòng—Chúng tôi đề nghị [cắt xén] giữ lại khoản tiền này trong ngân sách viện trợ chung của họ và sau đó nói với Tướng Trần Tử Oai rằng chúng ta làm việc này vì hoạt động của ông có mối liên hệ chặt chẽ với vận mệnh cá nhân của Cố vấn Nhu. Nếu chúng ta rơi vào tình thế không may là phải chiến đấu theo phe của các Tướng nổi loạn trong khi nhà Ngô vẫn nắm giữ quyền lực ở Sài Gòn, chúng ta có thể bơm đô la hoặc chứng khoán quân sự và tạo ra loại tiền tệ có thể chấp nhận được ở những vùng mà chúng ta kiểm soát. Sau vài tháng cắt viện trợ, chúng ta có thể dự đoán rằng các công ty nhập khẩu và các quan chức chính phủ Diệm sẽ lo lắng rằng nguồn dự trữ sẽ cạn kiệt và tình trạng tích trữ, đầu cơ cũng như tăng giá mạnh sẽ xảy ra. Đây sẽ là giai đoạn có tác động tâm lý lớn đối với chính phủ Diệm và theo ước tính của chúng tôi, lúc đó họ [Diệm-Nhu] sẽ có nghiêng về hướng điều đình [với chúng ta] nhiều hơn hiện tại.
156. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State (1)
Saigon , September 27, 1963, 9 p.m.
608. Deptel 447.(2) Following comments on possible means of exerting pressure on GVN without interfering seriously with war effort were prepared by USOM Director Brent. Analysis strikes me as sound and I hope will be helpful in Washington consideration of problem:
1. We must recognize that the management of the aid program cannot alone achieve major political changes or reversals in direction. Properly timed announcements and actions on aid matters can be used to reinforce and make effective other strategic moves.
2. In Viet-Nam the problem is complicated by the security situation and the US strategic interest. We must face the fact that we cannot hold SVN without the Vietnamese; they can hold for a considerable [Page 306]length of time without us. It is politically intolerable to postulate the possibility of our assuming the position the French were in during the period 1947-1954.
3. Since the GVN is as aware of these facts as we, it is not reasonable to assume sudden success of any moves we might make which rely either solely or largely on the aid program.
4. Items 1 through 4 of Deptel 447 are largely “psychological” rather than “real” in their impact. The GVN could compensate for any of these actions through diversions of materials and funds or through other measures. Recognizing these limitations, we believe they can exert great pressure on the GVN if appropriately publicized in each case as symbols of US determination to disassociate ourselves from the Palace Guard. Properly handled, they can undermine the “political credit rating” of Nhu (and by inference Diem) and at the same time improve the US image in Asia and elsewhere and assuage US public opinion which Washington feels important at this time.
5. The careful timing of each move is important. The tactical moves cannot be trotted out at any time with equal effect. Each move should follow immediately on the heels of a new provocation on the part of the GVN to show a cause and effect relationship. These provocations may be directed either against the US (occurring almost daily in “The Times of Viet-Nam” and in Mme. Nhu’s tirades abroad) or against the Vietnamese populace.
6. The individual tactical moves must be part of a larger plan having the purpose of changing the composition or the policies of the present government. We assume that we are concluding that the war cannot be won on a permanent basis with the present government; that covert negotiation with the military will proceed concurrently with other US actions to effect a change in government, and that the management of the aid is designed to reinforce such other attempts to change the government. If this assumption is incorrect, the moves outlined in paragraphs 1-4 of Deptel 447 hold little promise for achieving our objectives.
7. Publicity or exploitation of tactical moves in the aid program may vary from use of VOA, leaking to the press by the Ambassador or merely passing out to key GVN officials.
8. With respect to the individual suggestions:
(a) GVN written guarantees—This action should only be taken on programs we are prepared and willing to terminate. The GVN would in all likelihood refuse such guarantees as an affront implying past or proposed “repressions” on their part. Then we would proceed to suspend the aid project we had selected for such treatment and appropriate publicity would put the GVN in the position of having refused to give guarantees against repression. We could select, for such treatment, items in the police program to lend additional credibility to our position.
(b) Combat police and DGI—Though the discrimination between elements of the programs being used against the Viet Cong and those not so engaged will be difficult given the war footing of the nation as a whole, we nevertheless feel there is considerable opportunity for psychological impact in this area.
(c) Hamlet militia leaders—Concur with idea that US withdraw support and suggest that word be passed along to GVN military that US not prepared support personal political vehicles of Nhu.
(d) DOD psywar—We suggest that [garble] withhold funds for this item in their joint support budget and then tell General Oai that we are doing this because of the close tie-in of his activities with the personal fortunes of Counsellor Nhu. Hopefully this will have the effect of making the psywar effort more independent of Nhu’s direction since the operation itself is one we would prefer to continue to support.
9. Item 8 of Deptel 447 suggests the accumulation of substantial plaster resources for use by the US directly in the provinces. There is now on deposit in the Bank of Viet-Nam about $2-3 million worth of plasters belonging to the US Government as repayments on prior years Mutual Security Program loans. We could gradually withdraw those funds and hold in escrow as cash for unilateral operations during a short period of administrative foul-up in the wake of a coup or coup attempt. We do not recommend dollar purchases, especially large-scale purchases, because (1) it would frustrate our cut-back on commercial imports by yielding the GVN foreign exchange for expenditures anywhere, and (2) it would put us immediately under suspicion of contemplating a takeover operation. If we should ever get ourselves in the unfortunate position of fighting a war on the side of rebellious Generals while the Ngo family still retains power in Saigon, we could pump in dollars or military scrip and make that acceptable currency in the regions we control.
10. Regarding questions on the commercial import program, reserves are at about $150-160 million and annual earnings of foreign exchange are about $60-70 million. This would provide sufficient exchange for almost 12 months of commercial imports at the present level of licensing (excluding major investment projects and military hardware). We are assuming that the GVN would draw down reserves for a period of time rather than permit serious shortages to occur and prices to rise, in order to frustrate the US efforts to force the government to capitulate to our demands for reform.
After some months of aid cut-offs we could expect importers and government bureaucrats to become worried that reserves will be exhausted and hoarding, speculation, and major price increases to set in. This would be the period of major psychological impact on the government and it is our estimate they would be more inclined to talk than they are now.
If we were to elect to be more selective in the management of the commercial import program we could renew financing the kinds of goods necessary for the day-to-day well-being of the people (fertilizer, milk, cotton, medicines, etc.) adding up to perhaps $40 million on an annual rate and deleting from our program such things as steel, cement, machinery, etc., that are essential for the economy as a whole but do not directly affect people going to the market place. This approach would have the advantage of permitting us to identify ourselves and our program with the masses of people. It would have the disadvantage of permitting the GVN to hold out longer since their reserves would not be drawn down as rapidly. On balance, the latter course appears preferable.
Lodge
(1) Source: Department of State, Central Files, AID (US) S VIET. Top Secret; Priority; Eyes Only. Received at 10:18 a.m. and passed to the White House at 12:48 p.m. and to Rusk at USUN at 1 p.m.
(2) Document 140.
Source:
https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v04/d156
.... o ....
156. Điện văn từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại VN gửi về Bộ Ngoại giao (1)
Sài Gòn, ngày 27 tháng 9 năm 1963, lúc 9 giờ tối.
608. Tham khảo điện văn của Bộ Ngoại Giao số 447.(2) Sau đây là những bình luận về các biện pháp có thể gây áp lực lên Chính phủ VNCH mà không can thiệp nghiêm trọng vào nỗ lực chiến tranh đã được Giám đốc USOM Joseph Brent chuẩn bị. Phân tích đối với tôi là hợp lý và tôi hy vọng sẽ hữu ích trong việc Washington xem xét vấn đề:
1. Chúng ta phải thừa nhận rằng riêng việc quản lý chương trình viện trợ không thể đạt được những thay đổi lớn về mặt chính trị hoặc sự đảo ngược phương hướng. Những thông báo và hành động đúng lúc về các vấn đề viện trợ có thể được sử dụng để củng cố và thực hiện các hanh động chiến lược khác một cách hiệu quả.
2. Ở Việt Nam, vấn đề trở nên phức tạp do tình hình an ninh và lợi ích chiến lược của Mỹ. Chúng ta phải đối mặt với thực tế là không thể giữ được Nam VN nếu không có người Việt Nam; họ có thể cầm cự được một thời gian dài đáng kể mà không có chúng ta. Về mặt chính trị, không thể chấp nhận được khả năng chúng ta đảm nhận vị trí của người Pháp trong giai đoạn 1947-1954.
3. Vì Chính phủ VNCH cũng biết những sự thật này như chúng ta, nên sẽ không hợp lý khi cho rằng bất kỳ hành động nào chúng ta có thể thực hiện chỉ dựa vào hoặc phần lớn vào chương trình viện trợ sẽ thành công bất ngờ.
4. Các mục từ 1 đến 4 của Điện văn Bộ Ngoại Giao số 447 phần lớn mang tính chất “tâm lý” hơn là “thực tế” trong tác động của chúng. Chính phủ VNCH có thể đền bù cho bất kỳ hành động nào trong số này thông qua việc chuyển hướng vật liệu và kinh phí hoặc thông qua các biện pháp khác. Nhận thức được những hạn chế này, chúng tôi tin rằng chúng có thể gây áp lực lớn lên Chính phủ VNCH nếu được công bố một cách thích hợp trong từng trường hợp như là biểu tượng cho quyết tâm của Hoa Kỳ tách mình khỏi Lực lượng Bảo vệ Phủ Tổng Thống của Diệm. Nếu được xử lý đúng cách, chúng có thể làm suy yếu “xếp hạng tín dụng chính trị” của Nhu (và rồi suy yếu Diệm), đồng thời cải thiện hình ảnh của Mỹ ở châu Á và các nơi khác, đồng thời xoa dịu dư luận Mỹ mà Washington cảm thấy quan trọng vào thời điểm này.
5. Việc căn thời gian cẩn thận cho mỗi nước đi là điều quan trọng. Các bước di chuyển chiến thuật không thể được thực hiện bất cứ lúc nào với hiệu quả như nhau. Mỗi hành động [cắt giảm viện trợ] nên diễn ra ngay sau một hành động khiêu khích mới từ phía Chính phủ VNCH để thể hiện mối quan hệ nhân quả. Những hành động khiêu khích này có thể nhằm mục đích chống lại Hoa Kỳ (xảy ra gần như hàng ngày trên báo “The Times of Viet-Nam” và trong các bài phát biểu của Bà Nhu ở nước ngoài) hoặc chống lại người dân Việt Nam.
6. Những bước đi chiến thuật riêng lẻ phải là một phần của kế hoạch lớn hơn nhằm mục đích thay đổi thành phần hoặc chính sách của chính phủ Diệm hiện tại. Chúng tôi cho rằng chúng ta đang kết luận rằng cuộc chiến không thể giành chiến thắng lâu dài với chính phủ Diệm hiện tại; rằng cuộc đàm phán bí mật với quân đội sẽ tiến hành đồng thời với các hành động khác của Hoa Kỳ nhằm tạo ra sự thay đổi trong chính phủ và việc quản lý viện trợ được thiết kế để củng cố những nỗ lực khác nhằm thay đổi chính phủ. Nếu giả định này không chính xác thì những hành động được nêu trong đoạn 1-4 của Điện văn Bộ Ngoại Giao số 447 có rất ít hứa hẹn trong việc đạt được các mục tiêu của chúng ta.
7. Việc công khai hoặc khai thác các hành động chiến thuật trong chương trình viện trợ có thể khác nhau từ việc sử dụng Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA, rò rỉ cho báo chí bởi Đại sứ, hoặc chỉ đơn thuần là chuyển tin cho các quan chức chủ chốt của Chính phủ VNCH.
8. Về khuyến nghị cụ thể từng phần:
(a) Bảo đảm bằng văn bản của Chính phủ VNCH—Hành động này chỉ nên được thực hiện đối với các chương trình mà chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng chấm dứt. Chính phủ VNCH rất có thể sẽ từ chối những cam kết bảo đảm như vậy như một sự sỉ nhục ám chỉ những “sự đàn áp” trong quá khứ hoặc được đề xuất từ phía họ. Sau đó, chúng tôi sẽ tiến hành đình chỉ dự án viện trợ mà chúng tôi đã lựa chọn để đối xử như vậy và việc công khai phù hợp sẽ đặt Chính phủ VNCH vào tình thế từ chối đưa ra những cam kết sẽ không đàn áp [người dân]. Để xử lý như vậy, chúng ta có thể lựa chọn [ngưng viện trợ] các hạng mục trong chương trình của cảnh sát để tăng thêm uy tín cho quan điểm của chúng ta.
(b) Cảnh sát chiến đấu và DGI (Thông Tấn Xã VNCH)—Mặc dù việc phân biệt đối xử giữa các yếu tố của [việc siết viện trợ của] chương trình được sử dụng để chống lại VC và những chương trình không tham gia sẽ khó khăn do bối cảnh chiến tranh của cả nước nói chung, tuy nhiên chúng tôi cảm thấy có cơ hội đáng kể để ảnh hưởng tâm lý tác động trong lĩnh vực này.
(c) Các lãnh đạo dân quân ấp – Đồng tình với ý kiến rằng Hoa Kỳ rút lại sự viện trợ và đề nghị chuyển lời đến quân đội Chính phủ VNCH rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng viện trợ các phương tiện chính trị cá nhân của Nhu.
(d) Cục Tâm Lý Chiến của Bộ Quốc phòng—Chúng tôi đề nghị [cắt xén] giữ lại khoản tiền này trong ngân sách viện trợ chung của họ và sau đó nói với Tướng Trần Tử Oai rằng chúng ta làm việc này vì hoạt động của ông có mối liên hệ chặt chẽ với vận mệnh cá nhân của Cố vấn Nhu. Hy vọng rằng điều này sẽ có tác dụng làm cho nỗ lực chiến tranh tâm lý trở nên độc lập hơn với sự chỉ đạo của Nhu vì bản thân hoạt động này là hoạt động mà chúng tôi muốn tiếp tục hỗ trợ hơn.
9. Mục 8 của Điện văn Bộ Ngoại Giao số 447 đề xuất việc tích lũy nguồn tài nguyên tiền mặt [tiền đồng VN] để Hoa Kỳ sử dụng trực tiếp tại các tỉnh. Hiện nay, Ngân hàng Việt Nam đang gửi số tiền mặt VND trị giá khoảng 2-3 triệu USD của Chính phủ Hoa Kỳ để trả cho các khoản vay của Chương trình An ninh Tương hỗ những năm trước. Chúng ta có thể rút dần số tiền đó và giữ lại dưới dạng ký quỹ làm tiền mặt cho các hoạt động đơn phương trong một thời gian ngắn có rắc rối hành chính sau một cuộc đảo chính hoặc nỗ lực đảo chính. Chúng tôi không khuyến khích mua hàng bằng đồng đô la, đặc biệt là mua hàng quy mô lớn, bởi vì (1) nó sẽ cản trở việc cắt giảm nhập khẩu thương mại của chúng tôi bằng cách mang lại ngoại hối cho Chính phủ VNCH để chi tiêu ở bất cứ đâu, và (2) nó sẽ khiến chúng tôi ngay lập tức bị nghi ngờ đang dự tính mua hàng bằng đồng đô la như một hoạt động tiếp quản. Nếu chúng ta rơi vào tình thế không may là phải chiến đấu theo phe của các Tướng nổi loạn trong khi nhà Ngô vẫn nắm giữ quyền lực ở Sài Gòn, chúng ta có thể bơm đô la hoặc chứng khoán quân sự và tạo ra loại tiền tệ có thể chấp nhận được ở những vùng mà chúng ta kiểm soát.
10. Về vấn đề chương trình nhập khẩu thương mại, dự trữ khoảng 150-160 triệu USD và thu nhập ngoại hối hàng năm khoảng 60-70 triệu USD. Điều này sẽ cung cấp đủ trao đổi cho gần 12 tháng nhập khẩu thương mại ở mức cấp phép hiện tại (không bao gồm các dự án đầu tư lớn và thiết bị quân sự). Chúng tôi giả định rằng Chính phủ VNCH sẽ giảm lượng dự trữ trong một khoảng thời gian thay vì để tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng xảy ra và giá cả tăng cao, nhằm làm nản lòng những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm buộc chính phủ Diệm phải đầu hàng trước yêu cầu cải cách của chúng tôi.
Sau vài tháng cắt viện trợ, chúng ta có thể dự đoán rằng các công ty nhập khẩu và các quan chức chính phủ Diệm sẽ lo lắng rằng nguồn dự trữ sẽ cạn kiệt và tình trạng tích trữ, đầu cơ cũng như tăng giá mạnh sẽ xảy ra. Đây sẽ là giai đoạn có tác động tâm lý lớn đối với chính phủ Diệm và theo ước tính của chúng tôi, lúc đó họ [Diệm-Nhu] sẽ có nghiêng về hướng điều đình [với chúng ta] nhiều hơn hiện tại.
Nếu chúng ta chọn lựa một cách chọn lọc hơn trong việc quản lý chương trình nhập khẩu thương mại, chúng ta có thể gia hạn tài trợ cho các loại hàng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của người dân (phân bón, sữa, bông, thuốc, v.v.), có thể bổ sung tới 40 triệu đô la với lãi suất hàng năm và loại bỏ khỏi chương trình [viện trợ] của chúng ta những thứ như thép, xi măng, máy móc, v.v., những thứ cần thiết cho toàn bộ nền kinh tế nhưng không ảnh hưởng trực tiếp đến những người đi chợ. Cách tiếp cận này sẽ có ưu điểm là cho phép chúng tôi xác định bản thân và chương trình của mình với đông đảo mọi người. Sẽ có bất lợi khi cho phép Chính phủ VNCH cầm cự lâu hơn vì nguồn dự trữ của họ sẽ không bị rút xuống nhanh chóng. Xét trên phương diện cân bằng, cách thứ hai có vẻ thích hợp hơn.
Lodge
(Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)
(1) Nguồn: Bộ Ngoại giao, Central Files, AID (US) S viet. Bí mật hàng đầu; Sự ưu tiên; Chỉ để đọc. Nhận được lúc 10:18 giờ sáng và chuyển đến Bạch Ốc lúc 12:48 giờ trưa. và đến Ngoại Trưởng Dean Rusk tại USUN lúc 1 giờ chiều.
(2) Văn bản 140.
.
Kho sử liệu PHẬT GIÁO VIỆT NAM 1963 - SONG NGỮ:
https://thuvienhoasen.org/a39405/phat-giao-viet-nam-1963-song-ngu