NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
I. QUAN ĐIỂM ĐẠI CƯƠNG PHẬT GIÁO
5. TẠI SAO CÓ ĐẠO PHẬT?
- Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Sự Hình Thành Các
Tôn Giáo
Trước khi
bàn luận về đề tài
"Tại sao có Đạo Phật",
chúng ta phải tìm xem
tư tưởng tôn giáo bắt đầu trong
tâm trí con người
lúc
ban đầu như thế nào. Hàng ngàn năm qua, khi
con người bắt đầu
suy nghĩ về
các loại hiện tượng thiên nhiên trên
thế giới, họ
nhận thấy có nhiều việc kỳ lạ xẩy ra. Khi một số lực
thiên nhiên hay các
hiện tượng không
thuận lợi,
con người đau khổ.
Con người đã
chứng kiến những
biến cố tai họa, khủng khiếp. Rồi
con người bắt đầu nghĩ cách
ngăn ngừa những
điều kiện không
thuận lợi gây
sợ hãi, nghi kÿ,
bất an,
căng thẳng và
đau khổ này.
Con người biết nhiều những điều này vượt qúa tầm
hiểu biết,
cho nên nghĩ rằng có một
sức mạnh siêu nhiên vô hình đằng sau những việc xẩy ra ấy. Những việc xẩy ra này rất khó hiểu cho nên họ nghĩ rằng đó là công việc của các "thần thánh".
Con người bắt đầu
tôn sùng các vị này, giết
thú vật đem cúng tế với
hy vọng làm
vừa lòng các
sức mạnh siêu
nhiên ấy.
Con người cũng bắt đầu
tán thán và tôn thờ để
tạ ơn khi một số
hiện tượng đem
thuận lợi, nghĩ rằng những
việc làm này là do hành động của
thần thánh.
Mục đích của những
thực hành này là để có sự
che chở và phước lành của các
thần thánh hầu được sống trên
thế giới này mà không phải đương đầu với nhiều khó khăn. Khi những khái niệm này bắt đầu
phát triển, một số
việc làm quan trọng khác cũng được hợp nhất. Có những
nghi thức,
nghi lễ, các cuộc lễ hoặc hội hè. Từng
cộng đồng riêng rẽ tổ chức các
lễ nghi theo nhu cầu khu vực địa dư . Khi có một khối lượng các
nghi lễ và
tư tưởng triết lý đủ lớn, 'tôn giáo'
trở thành một phần
thực chất của mỗi nền
văn minh.
Sự hình
thành tôn giáo được
xây dựng bởi
con người lúc khởi thủy để tự
bảo vệ vì
sợ hãi, nghi kÿ,
bất an và
hiểu lầm đời sống và
hiện tượng thiên nhiên. Những điều đó là nền tảng của
tôn giáo giống như các
vật liệu như gạch, đá, cát, xi măng, và đất được dùng để làm
nền móng cho một tòa nhà.
Sau đó
con người tô điểm tòa
nhà tôn giáo này bằng cách
giới thiệu niềm tin,
lễ vật,
cầu nguyện,
lời nguyện, hình phạt,
luân lý và
đạo đức dưới
danh nghĩa của
thánh thần để có thể
kiểm soát nhân loại, và cũng để
tìm ra một nơi
trường cửu gọi là
thiên đường cho
hạnh phúc và
an lạc vĩnh viễn của
linh hồn.
Sự
Thành Lập Phật Giáo
Sau này, một
tôn giáo gọi là "Đạo Phật"
xuất hiện nhưng
chúng ta thấy
Đức Phật không dùng những
niềm tin cổ. Ngài không khai thác khái niệm
thánh thần, thuyết
linh hồn,
địa ngục vĩnh viễn hay
thiên đường bất
diệt để hình
thành Đạo Phật. Ngài không khai thác
sợ hãi và những
quan điểm méo mó về
hiện tượng thiên nhiên để hỗ trợ cho
tôn giáo của Ngài. Ngài cũng chẳng đòi hỏi
niềm tin mù quáng hay
nghi thức hay
nghi lễ không
cần thiết. Ngài không tin vào sự
tự hành xác, bắt chịu hình phạt hay
tuân hành điều răn trong việc
truyền bá Đạo Phật. Ngài cũng không tìm quyền hành ở bất cứ một lực lượng
thiêng liêng bên ngoài nào để
củng
cố lập luận của Ngài. Ngài
sử dụng hoàn toàn tư tưởng nguyên thủy hay những thứ như
Chánh Kiến về
đời sống,
thế giới và
hiện tượng thiên nhiên
hay luật
vũ trụ và
đặc điểm thực sự của tâm và vật,
yếu tố và
năng lượng,
luân lý và phát triển
tinh thần, kỷ luật, huấn luyện
tinh thần và
thanh tịnh hóa,
trí tuệ và
giác ngộ để
xây dựng tòa
nhà tôn giáo gọi là
Đạo Phật. Đúng Ngài đã dùng một số chất liệu
tôn giáo sử dụng bởi một số
nhà tôn giáo vào thời đó như Nghiệp- hành động và
phản ứng,
tái sanh và một số nguyên tắc
giới luật nhưng không làm như đuờng lối họ làm hay cùng theo một
ý nghĩa. Ngài thanh lọc chúng và trình bày trong một đường
lối hữu lý và khoa học.
Một
Tôn Giáo Độc Lập
Đạo Phật không phải là một
tôn giáo pha chế hỗn tạp hay
thành lập bằng những
tư tưởng đạo lý linh tinh.
Đức Phật không thu thập các chất liệu
tôn giáo khác hay
tư tưởng triết lý nơi này nơi kia.
Đạo Phật có
đặc tính và
tính cách riêng.
Vì hiểu rằng không một vị thầy
tôn giáo nào đã
tìm ra Chân Lý Tuyệt Đối và một
công thức trường cửu cho
sự giải thoát cuốiù cùng, Ngài chỉ ra rằng một số các nhà
tư tưởng chỉ phát triển một số
quyền lực trần thế, có
thể đạt được sự phát triển
tinh thần ở một mức độ nào đó mà không
thanh tịnh hóa
hoàn toàn tâm trí,
thoát khỏi tất cả những
niềm tin
dị đoan,
ô trược,
ảo tưởng,
ám ảnh, tưởng tượng,
ảo giác và
vô minh.
Ý nghĩa thực sự hay
mục đích tôn giáo có thể hiểu được khi
chúng ta nghiên cứu Đức Phật trình bày như thế nào về 'lối
đạo lý cao thượng'. Nếu
chúng ta dùng
từ ngữ 'tôn giáo' khi
bàn luận giáo lý của
Đức Phật,
chúng ta cũng phải hiểu sự
giải thích khác biệt về
từ ngữ này của các
tôn giáo khác. Rồi
ai nấy đều có thể hiểu được "Tại sao có Đạo Phật' lại
cần thiết trong khi đã có quá nhiều các đạo khác trên
thế giới.
Không Giáo Điều
Đức Phật loại bỏ một số
quan niệm sai lầm duy trì bởi
con người từ hàng ngàn năm.
Niềm tin cho rằng
linh hồn là một
thực thể vĩnh viễn tạo ra bởi
Thượng Đế đã phải nhượng bộ khi
Đức Phật đưa ra những
lý do xác đáng tại sao khái niệm này sai và tại sao không có một thứ gì như vậy là
một
thực thể vĩnh viễn. Theo
Đức Phật, đó chỉ là mộng.
Niềm tin này
hiện hữu trong
tâm trí con người chẳng khác gì màu sắc của cái cầu vồng không phải là thực.
Đức Phật giải thích ý kiến về
linh hồn chỉ là sự
hiểu lầm trong
ý thức con người. Khái niệm về
linh hồn là một
vấn đề quan trọng trong mọi
tôn giáo, nhưng chỉ có
Đức Phật tuyên bố rõ ràng không có một
lý do nào cho
chúng ta tin vào sự
hiện hữu của
linh hồn.
Thí dụ, ngày ấy,
mọi người đều
tin tưởng mặt trời và
mặt trăng thường nhật quay
xung quanh trái đất. Dân chúng có
niềm tin ấy do sự thiếu
kiến thức về
thái dương hệ. Nhưng khi Copernicus
chứng minh không phải
mặt trời hay
mặt trăng xoay chung quanh trái đất mà là trái đất xoay
xung quanh mặt trời, rồi thì
dần dần ta
nhận thức được đó là
sự thật Ta còn có một
quan niệm sai lầm nữa về trái đất. Hàng ngàn năm, người ta
tin tưởng trái đất bằng phẳng. Galileo
chứng minh trái đất tròn, không bằng phẳng. Sau này ta
nhận thấy Galileo đúng. Khi Copernicus
khám phá ra
mặt trời là
trung tâm của
thái dương hệ, ta
nhận thấy niềm tin trước đây cho trái đất là
trung tâm vũ trụ sai.
Cho đến Thế Kỷ Thứ 19, nhiều nhà triết lý cổ
tin tưởng nguyên tử là
thực thể vật chất tối hậu, không thể tách ra được nữa, nhưng nay các khoa học gia hạt nhân đã tách ra được.
Lý thuyết tiến hóa hình thành bởi Charles Darwin
bác bỏ thuyết
sáng tạo phổ cập cho là
đời sống do
Thượng Đế tạo ra. Những nhà địa chất, sinh vật học, và
sinh lý học cũng
giải thích rất
rõ ràng phải mất cả hàng triệu năm mới có dạng thức đầu tiên của
đời sống trên trái đất. Những
khám phá này
chưa bao giờ mâu thuẫn với
giáo lý của
Đức Phật. Những
khám phá hiện đại của sự phát triển từng bước
trong đời sống khoáng chất,
thực vật, các vật sống khác và các
chúng sanh đều
phù hợp với
giáo lý của
Đức Phật.
Khi
chúng ta nghiên cứu những
giải thích của
Đức Phật về
vũ trụ,
chúng ta thấy Ngài
ghi nhận sự
hiện hữu của một số
chúng sanh may mắn hay
bất hạnh không những trên
thế giới này mà cũng cả trên các hành tinh
khác.
Những nhà khoa học và
thiên văn học
hiện đại không
thành kiến về
vấn
đề này, đều
thừa nhận có thể sự
hiện hữu của một số
chúng sanh trên một
số hành tinh khác.
Nhiều
niềm tin truyền thống giống
y như những
niềm tin của người
thượng cổ về
hệ thống thế giới và nguồn gốc của
đời sống. Nhưng
giáo lý của
Đức Phật xác nhận những
khám phá mới.
Đức Phật không tán thành
niềm tin cho rằng những
nghi thức và
nghi lễ tôn giáo là phương tiên
duy nhất để tìm
sự giải thoát. Theo
Đức Phật,
sự phát triển về
luân lý, tập trung, và
thanh tịnh tâm trí là những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống
đạo lý dẫn đến
giải thoát cuối cùng.
Ngài vạch rõ một người có
đạo lý phải sống một
cuộc đời không hại ai, không bị khiển trách,
đáng kính,
đứng đắn, cao thượng và
trong sạch.
Chỉ bằng hành động
cầu nguyện và dâng cúng
lễ vật tự nó không thể làm thành
con người có
đạo lý hay
đạt được sự toàn bích và
giải thoát.
Đức Phật khuyên
con người kiềm chế không làm những việc
tội lỗi.
Lý do tránh xa
tội lỗi là vì
hạnh phúc của
chúng sanh chứ không phải vì sợ một thuợng đế hay hình phạt.
Đồng thời Ngài khuyên
chúng ta trau dồi phẩm hạnh người thiện,
thực hành nhừng
hành vi lương hảo hầu giúp đỡ người khác không chút động cơ
vị kỷ.
Đức Phật là
vị đạo sư
duy nhất ca ngợi trí thông minh con người. Ngài khuyên
chúng ta không nên
trở thành nô lệ cho những những
tác nhân bên ngoài mà phát triển tiềm năng ẩn tàng với lòng tự tin.
Ngài cũng vạch rõ
con người chịu
trách nhiệm về mọi thứ trên
thế giới này.
Đau khổ hay
sung sướng cả hai đều do
con người tạo ra, và
con người có thể
loại bỏ đau khổ và
duy trì hòa bình
hạnh phúc và
trí tuệ bằng việc
sử dụng nỗ lực của mình mà không
lệ thuộc vào
sức mạnh bên ngoài.
Tâm trí con người không huấn luyện chịu
trách nhiệm về tất cả những
tai ương,
rối loạn mà
chúng ta gặp phải ngày nay.
Đồng thời tâm trí con người nếu
sử dụng đích đáng, có thể thay đổi
hoàn cảnh bất hạnh này, có thể biến
thế giới thành hòa bình,
hạnh phúc cho
mọi người sống. Điều này chỉ có thể
thực hiện nhờ
nghị lực tinh thần trong sạch của một người
hiểu biết qua rèn tập.
Đối Đầu Với
Thực Tế
Tôn giáo này lúc nào cũng khuyến khích
con người đối mặt với những
sự kiện của
đời sống,
chấp nhận sự thật dù nó thế nào, không hành động như người
đạo đức giả. Cho nên, người
Phật Tử không
bác bỏ những
sự kiện
thuộc về những
vấn đề vật chất khám phá ra bởi những nhà
tư tưởng và khoa học gia vĩ đại. Mặc dù
Đức Phật chú ý nhiều đến việc phát triển
tinh thần, nhưng Ngài chẳng bao giờ
chểnh mảng sự
tiến bộ vật chất của
con người trên
thế giới. Trong
giáo lý của Ngài,
chúng ta có thể thấy vang vọng
lời khuyên thực tiễn có cơ sở cho
con người hoạt động thích đáng không
phí phạm thì giờ và
nỗ lực quý báu,
đồng thời hành động khôn ngoan cho sự
tiến bộ của
loài người. Ngài dạy
con người phải
chu toàn nhiệm vụ đối với
gia đình,
thân quyến, bè bạn,
cộng đồng, xứ sở và cả toàn cầu.
Cho nên, người
Phật Tử không nên quên
nhiệm vụ và bổn phận làm cho
thế giới hạnh phúc và hòa bình bằng cách đóng góp trong
phạm vi khả năng
của mình. Ngài cũng chẳng bao giờ
can thiệp vào những công việc của chính phủ hay những
luật lệ hợp lý đặt ra bởi chính phủ. Ngài cũng chẳng
bao giờ
chống lại tập tục
xã hội và
truyền thống nếu những điều ấy
vô hại và có
lợi ích cho
xã hội.
Đồng thời Ngài cũng chẳng bao giờ tìm đến
quyền lực chính trị hay quân sự để
giới thiệu giáo pháp về
đời sống của Ngài mặc dù vua chúa và các
quan đại thần là
đệ tử của Ngài.
Tôn giáo này dạy
chúng ta phục vụ tha nhân,
hy sinh tiện ích riêng tư để cứu
nhân loại đang
đau khổ,
tôn trọng các
giới cấm đạo lý hay kỷ luật
tự giác, mà không bị áp đặt của điều răn của một
quyền năng vô hình
nào đó.
Tôn trọng nguyên tắc thiện theo
nhận thức riêng của mình không những chỉ giúp cho chính ta có cơ hội được toàn hảo mà cũng giúp đỡ người khác sống trong hòa bình.
Sự toàn bích này là
mục tiêu cao nhất một
con người phải đạt cho được để rồi đạt
giải thoát. Việc này không
thể đạt được nhờ
ảnh hưởng của bất cứ một
thượng đế nào hay một
tác nhân trung gian nào. Theo
tôn giáo này,
chúng ta có thể nhìn thấy kết quả của những hành động xấu hay tốt ngay
trong đời này.
Hạnh phúc thiên đường hay
Niết Bàn có thể
chứng nghiệm ngay
trong đời này. Không
cần thiết phải chờ đợi đến
sau khi chết
mới biết kết quả như thường được dạy ở nhiều
tôn giáo khác.
Cho nên tại sao
Đức Phật khuyên ta đến và xem
giáo lý của Ngài chứ không phải đến để tin suông. Ngài cũng khuyên ta nên chọn một
tôn giáo thích hợp bằng cách
nhận xét kỹ và
điều tra nghiên cứu bằng mọi cách chứ
không chấp nhận bằng xúc cảm hay
niềm tin mù quáng. Do đó tại sao người
ta gọi
Đạo Phật là một
học thuyết về phép phân tích. Ở nơi
tôn giáo này,
chúng ta thấy
học thuyết về phép phân tích và
tâm lý về tâm và vật mà những nhà
tư tưởng hiện đại đánh giá cao.
Luật
Vũ Trụ
Đức Phật là người thầy
khám phá ra
bản chất thực sự của luật
vũ trụ vạn năng và khuyên ta nên sống
phù hợp với
định luật này. Ngài
ghi nhận,
những kẻ
vi phạm luật này, như
chống lại thiên nhiên, sống
cuộc đời vô luân, phải đương đầu với những
hậu quả.
Ngày nay
chúng ta có thể thấy nhiều bằng chứng về điều này. Từ khi có cuộc
cách mạng kỹ nghệ ở thế kỷ vừa qua, nhiều vùng đất rộng lớn trên
trái đất bị tàn phá, dòng sông bị
ô nhiễm đến mức không sao có thể
phục
hồi vì sự
thiệt hại gây nên cho tài nguyên
thiên nhiên của
chúng ta.
Nguyên nhân trực tiếp gây nên là do sự
tham dục quá mạnh
của cải vật chất, và sự thiếu
hiểu biết về sự
quân bình tốt đẹp giữa Người và
Thiên Nhiên.
Không thể nào
thoát khỏi được
phản ứng của
định luật vũ trụ đơn giản
bằng
cầu nguyện thượng đế vì lẽ luật
vũ trụ vô tư. Nhưng
Đức Phật đã dạy
chúng ta cách ngăn chặn một số
phản ứng của một số
việc làm xấu bằng
cách càng làm nhiều
hành vi thiện,
rèn luyện tâm trí và
loại bỏ những
tư tưởng xấu trong tâm. Sau khi phá vỡ
trật tự vũ trụ không có
phương pháp nào có thể tránh dược
phản ứng ngoại trừ bằng cách
phối hợp với qui
luật
vũ trụ này.
Ích kỷ phải nhường bước cho
rộng lượng.
Tham lam phải nhường bước cho hào phóng.
Nghiệp mà
Đức Phật giải thích được
nhà tâm lý học nổi tiếng trên
thế
giới Carl Jung
chấp nhận như một tập hợp của thức. Nó chẳng là gì cả mà
là sự tồn trữ
hạt giống Nghiệp trong
năng lượng tinh thần.
Chừng nào mà
tập hợp thức và 'ý muốn sống còn' còn trong tâm như
ghi nhận bởi các
triết gia, thì
tái sanh sẽ xẩy ra dù ta tin hay không tin. Những
yếu tố của xác thân có thể tan biến nhưng dòng
tinh thần cùng với 'ý muốn sống'
sẽ được
truyền thừa và
một đời sống khác được
quyết định theo sự tập hợp của thức ấy.
Lực
hấp dẫn và luật bảo
toàn năng lượng được
khám phá bởi các khoa học gia
hiện đại như Newton xác minh
học thuyết Nghiệp hay hành dộng và
phản ứng trình bày bởi
Đức Phật.
Theo
Đức Phật,
con người có thể
trở thành một
thượng đế nếu ngưới ấy
sống
đứng đắn và
chính đáng bất chấp họ có
niềm tin tôn giáo ra sao, nhưng các
tôn giáo khác chỉ khuyên
con người cầu nguyện thượng đế để được phước. Các
tôn giáo ấy cũng
thuyết giảng chỉ có
sau khi chết con người mới có thể lên
thiên đường mà
hạnh phúc hay
chứng nghiệm thiên đường không có nghĩa là
con người có thể có
đặc quyền để
trở thành một
thượng đế.
Tuy nhiên, khái
niệm Phật Giáo về
Thượng Đế khác hẳn khái niệm của các
tôn giáo khác.
Không có một vị khai sáng ra
tôn giáo nào nói là các
tín đồ của mình
một ngày nào đó có
thể đạt được
trí tuệ,
an lạc,
hạnh phúc và
giải thoát giống như vị khai sáng ra
tôn giáo ấy. Nhưng
Đức Phật nói bất cứ ai cũng có thể
trở thành Phật nếu người ấy
tu tập toàn hảo, theo
phương pháp mà Ngài
tu tập.
Bản Chất Của Tâm
Sự thay đổi nhanh chóng của tâm và những
yếu tố của xác thân đã được
giải thích trong
Phật Giáo. Theo
Đức Phật trong mỗi
sát na, tâm
hiện ra
rồi lại biến đi. Sinh vật học,
sinh lý học, và
tâm lý học dạy cùng một
bản chất thay đổi như vậy
trong đời sống. Cho nên
đời sống không đứng nguyên một chỗ.
Nhà tâm lý học William James
giải thích điểm
thời khắc của thức. Ông
bàn luận thức
xuất hiện như thế nào và lại biến đi trong sự
tiếp nối nhanh chóng.
Theo
tính chất tự nhiên gây ra tiến trình
liên tục của tâm, ngay khi
tâm được sanh ra, nó khai sanh một tâm khác và chết. Đến lượt cái tâm được sanh ra, khai sanh một tâm khác, và chết, và cứ thế
tiếp tục.
Về câu hỏi
lúc đầu những
tư tưởng tội lỗi xuất hiện trong tâm
con người như thế nào, câu
trả lời có thể
tìm thấy trong
tôn giáo này.
Nguyên nhân các
tư tưởng tội lỗi là do động cơ
ích kỷ của
con người nó
tồn tại do tham sống và
niềm tin vào cái ngã (cái tôi)
trường cửu luôn luôn tham đắm
thỏa mãn giác quan.
Khi
chúng ta nghiên cứu đời sống và
giáo lý của
Đức Phật,
chúng ta có thể nhìn thấy mọi thứ đều
công khai trình bày cho
mọi người. Không có
mật thuyết.
Những
sự kiện xẩy ra
trong suốt cuộc đời Ngài là
công khai, không dấu giếm và không có những việc xẩy ra
thần bí. Dưới mắt
Đức Phật, cái gọi là
thần thông siêu nhiên với nhiều người chẳng phải là
siêu nhiên mà
là
hiện tượng thiên nhiên mà
con người bình thường không thể
nhận thức thấu đáo. Nếu
kiến thức và
hiểu biết về
vũ trụ tăng trưởng thì
niềm tin về
siêu nhiên giảm đi. Với người
thượng cổ, 'sấm sét' là là biểu hiện
giận dữ của các
thánh thần. Ngày nay,
chúng ta biết
sấm sét chỉ là tích điện.
Nếu những vật do duyên hợp đều phải
tùy thuộc vào qui luật
tự nhiên về sự
vô thường, hoại và diệt, làm sao
chúng ta có thể trình bày chúng là
thần thông siêu nhiên?
Cả đến đản sanh,
giác ngộ và
nhập diệt của
Đức Phật cũng
công khai. Ngài sống như một vị thầy
tôn giáo bình thường như một
chúng sanh thực sự.
Ngài vạch rõ tiến trình
tiến hóa từ
đời sống thú vật thành
địa vị con người và từ
địa vị con người thành
tình trạng siêu phàm.
Tình trạng này có thể chuyển
địa vị Phạm Thiên và
đời sống của
Phạm Thiên thành
đời
sống toàn hảo. Người ta có thể
tiến tới đời sống cao thượng
trong sạch trực tiếp thành
đời sống thiêng liêng toàn hảo.
Đức Phật cũng vạch rõ
tình trạng ngược lại, đó là từ
đời sống con người trở thành đời sống con
vật.
Lối Sống Điều Độ
Đức Phật khuyên dạy người ta nên theo
con đường trung đạo trong mọi khía cạnh
cuộc đời. Nhưng nhiều người không
nhận thức được
ý nghĩa thực sự và sự hữu ích của
con đường trung đạo cao thượng.
Ý nghĩa sâu xa của
con đường trung đạo không những chỉ là
lối sống chính đáng, không những chỉ để tránh hai
cực đoan của cuộc sống, không chỉ để sống
điều độ mà là
học hỏi làm sao
sử dụng tri giác hay khả năng
con người mà không
sử dụng sai lầm hay
lạm dụng chúng.
Ý nghĩa của sự hình thành các
tri giác này là để
bảo vệ đời sống, tránh một số nguy hiểm và
tìm ra sinh kế.
Bất
hạnh thay,
đa số người sống chỉ là để
thỏa mãn giác quan,
sử dụng chúng
sai lầm chỉ để
thỏa mãn dục vọng.
Cuối cùng,
tham ái của họ càng
trở thành mãnh liệt nhưng chẳng bao giờ họ có thể
thỏa mãn tham dục mà họ mong muốn. Nhiều hành động
vô luân,
hành vi tàn bạo,
rối loạn tâm thần,
thần kinh suy nhược,
cạnh tranh không
lành mạnh,
căng thẳng và
bất an thuờng được thấy trong
xã hội hiện đại do cái tâm
bất mãn sử dụng sai lầm giác quan. Rồi
sức mạnh bản năng của các
giác quan này
tăng trưởng và bắt đầu
suy tàn, và nhiều loại bệnh
xuất hiện trong
cơ quan con người. Điều đó có nghĩa là
con người phải trả giá như thế nào vì
sử dụng
sai lầm hay đòi hỏi quá nhiều năm
giác quan. Nếu
luyến ái quá nhiều vào
lạc thú nhục dục trên
thế giới này,
nếu không có
thì giờ để
uốn nắn và sửa soạn cuộc sống cho tương lai hay bên kia
thế giới,
đời sống sẽ
trở thành khốn khổ.
Đức Phật dạy rằng thật là tàn ác và bất công khi hủy diệt bất cứ sinh vật nào dù nhỏ bé dến đâu đi nữa. Nhưng
thái độ hiền hòa đã bị sao lãng bởi nhiều
đạo sư tôn giáo khác chỉ dạy rằng chỉ làm hại người mới là
sai trái mà thôi. Hủy diệt
đời sống của
chúng sanh khác không phải chỉ là
phương cách duy nhất để
thoát khỏi phiền toái gây ra bởi các
chúng sanh này.
Mục đích của
Phật Giáo là
thức tỉnh nhân loại để
đạt được hạnh phúc tối thượng do sự
thấu triệt về
đời sống và
thiên nhiên.
Mục đích này không phải là tạo ra một số
ảo tưởng hay
thỏa mãn cảm xúc hay chiều theo
một số
tham dục trần thế bất trắc. Nó cũng chẳng hứa hẹn
lạc thú bất diệt trần tục ở nơi đâu.
Phật Giáo cho thấy một
bức tranh rõ ràng về
hai mặt của
cuộc đời:
bản chất thực sự của cuộc sống,
nguyên nhân của
đau khổ và
nguyên nhân của
hạnh phúc.
Lý thuyết về y học, khoa học, và kỹ thuật chưa
khám phá ra được phương thức nào có thể sửa chũa cái
đau đớn tinh thần,
thất vọng
và bất
toại nguyện của cuộc sống.
Thế Nào Là Trí Tuệ?
Theo
quan điểm Phật Giáo,
trí tuệ căn cứ vào chánh kiến và
chánh tư duy, sự
hiểu biết về luật
vũ trụ, và sự phát triển
tuệ giác không những
nhận biết chân lý mà cũng nhận được
phương cách đạt
hoàn toàn giải thoát
từ sự bất
toại nguyện của
đời sống.
Cho nên
trí tuệ thực sự không thể
tìm thấy trong các học viện, trong
phòng thí nghiệm
nghiên cứu khoa học, hay tại tại bất cứ nơi
thờ phượng
nào mà ta thường
lui tới để
cầu nguyện và thực thi một số
nghi thức,
nghi lễ.
Trí tuệ ở trong
phạm vi của tâm. Khi
kinh nghiệm,
hiểu biết,
chứng nghiệm và khi
thanh tịnh hóa được
hoàn tất,
bao gồm sự toàn hảo cao nhất,
trí tuệ này có thể được
khám phá.
Mục đích của
cuộc đời là
đạt
được trí tuệ ấy. Thay vì
tìm kiếm cái gì ở ngoài
không gian,
con người phải
nỗ lực tìm kiếm bản chất của cái
tuệ giác trong
không gian nơi chính mình để
đạt được mục tiêu tối hậu.
Con người có thể
loại bỏ lực lượng
tự nhiên không
thuận lợi bằng cách
củng cố và
thanh tịnh hóa tâm mình để
đạt được trạng thái hạnh phúc
siêu trần nơi đây những lực ấy không còn
sức mạnh để
vận hành nữa.
Một
triết gia nói là
tôn giáo này
mâu thuẫn tất cả những gì
con người đã từng
chứng nghiệm. Nếu như vậy
Phật Giáo không thuộc loại
tôn giáo đó vì
Đức Phật dạy
chúng ta mọi thứ do
kinh nghiệm của Ngài bao giờ
cũng về
bản chất của
con người.
Nhiều
triết gia, những nhà
tư tưởng và khoa học vĩ đại đã chỉ
sử dụng kiến thức trần thế,
sức mạnh tư duy, và
trí tuệ tìm ra nhiều điều mà họ đã
giải thích quan điểm của họ sao cho
phù hợp. Ngay cả với
kiến thức trí tuệ như vậy, cũng không thể hiểu nổi
bản chất thực sự của
hiện tượng nếu không có sự
thanh tịnh hóa tâm. Khi
nghiên cứu một số các lời
tuyên bố của các
học giả,
chúng ta có thể
tìm thấy một số
sự thật trong những lời của họ. Nhưng nhiều những lời
tuyên bố này vẫn chỉ là triết lý
khô khan vì họ chỉ dùng bộ não với nhiều
ảo tưởng và
ích kỷ.
Nhưng
Đức Phật đã
sử dụng óc và tim của Ngài để kết tinh
trí thông minh con người cùng với
từ bi và
trí tuệ để hiểu mọi sự trong
viễn cảnh đầy đủ. Do đó tại sao
giáo lý của Ngài không bao giờ
trở thành triết lý hay
lý thuyết khô khan mà là một
phương pháp thực tiễn để
giải quyết các
vân đề của
con người.
Đó là một
tôn giáo duy nhất giảng dạy cho
nhân loại qua
kinh nghiệm,
thực nghiệm,
trí tuệ và
giác ngộ của vị khai sáng.
Tôn giáo này không phải là một
thông điệp truyền trao từ một
thượng đế. Những
vấn đề của
con người phải được
thấu triệt bởi
con người qua
kinh nghiệm con người bằng cách phát triển những đức tính
nhân từ cao quý. Một người thầy của
con người phải
tìm ra giải pháp để
giải quyết những
vấn đề con người qua
sự thanh lọc và phát triển tâm
con người. Đó là
lý do tại sao
Đức Phật không bao giờ tự
giới thiệu Ngài là bậc
cứu tinh siêu nhiên. Theo Ngài
chúng ta là những vị
cứu tinh để tự cứu
chúng ta.
Tôn Giáo Đích Thực Có Gây Trở Ngại Cho Sự
Tiến Bộ Của Thế Giới?
Nhiều nhà khoa học,
tư tưởng và triết lý lớn có môt
thái độ chống đối
tôn giáo. Họ nói
tôn giáo cản trở sự
tiến bộ của
nhân loại và hướng dẫn họ
sai lầm bằng cách
giới thiệu niềm tin và
thực hành lố bịch,
dị đoan và cố làm
con người xa rời những
sự kiện khám phá ra bởi khoa học gia. Cho nên Karl Marx đã nói: "Tôn Giáo là thuốc phiện cho quần chúng".
Nhưng khi
chúng ta biết chắc ý họ muốn nói gì về
tôn giáo,
chúng ta có thể hiểu
Phật Giáo không thuộc những
tôn giáo thuộc nhóm
tôn giáo đó. Cho nên, trong
thời gian tới đây, nếu những
nhà trí thức này
thành công trong việc
bác bỏ tôn giáo, không thể nào họ có thể ném bỏ
Phật Giáo như
một
tôn giáo sai lầm vì lẽ
Đức Phật đã
khám phá ra
chân lý tuyệt đối. Nếu có
chân lý ở
đâu đó thì nó
mãi mãi vẫn là
chân lý. Nếu có bất cứ
chân lý nào bị thay đổi do những
điều kiện nào đó thì nó không phải là
chân lý tuyệt đối. Dó là
lý do tại sao mà
Đức Phật khám phá ra được gọi là
chân lý cao quý.
Chân lý này dẫn dắt
con người thành một
con người cao thượng. Cho nên cũng sẽ vẫn còn
chánh đạo cao quý của
đời sống thừa đủ để
đối đầu với bất
cứ sự thử thách khoa học hay
tri thức nào. Về
phương diện này,
thông điệp của
Đức Phật không lay chuyển. Những
nhà trí
thức chắc chắn phải
kính trọng lối sống này nếu họ thực sự có thể hiểu được
Đức Phật dạy thế nào. Cho nên,
giáo lý của
Đức Phật sẽ vẫn
tiếp tục
là
lối sống,
tiếp tục là nguyện vọng của
một đời sống cao thượng,
thánh
thiện, toàn bích, một cuộc sống hòa bình và
hạnh phúc dù có nhãn hiệu
tôn giáo hiện hữu hay không.
Một
Tôn Giáo Tự Do
Sự
tự do mà những
tín đồ theo
Đức Phật vui hưởng trên
thế giới này đáng được
ca ngợi.
Thực ra, nhiều
Phật Tử chưa
nhận thức được điều đó.
Chúng ta hoàn toàn tự do để phán xét và suy ngẫm hoặc
chấp nhận hay
bác bỏ bất cứ điều gì.
Chúng ta không bị buộc phải
chấp nhận bất cứ điều gì dưới
danh nghĩa tôn giáo, chỉ vì nghĩ đến sự vĩ đại của bậc đại bậc
đạo sư tôn giáo ấy hay cũng chẳng phải bởi nghĩ rằng đó là bổn phận của
chúng ta là phải
chấp nhận chỉ vì những
giáo lý này
tìm thấy trong
kinh điển thần thánh hoặc trong
truyền thống hay tập tục.
Phật Tử hoàn toàn tự do điều tra nghiên cứu và
chấp nhận chỉ khi điều đó
thích hợp với sự
nhận thức của mình.
Phật Tử không chấp nhận hay
bác bỏ điều gì mà
không có lý do dứng đắn. Họ không bao giờ nói họ bị cấm làm cái này hay cái kia. Họ nói không thích làm điều ấy vì điều ấy gây khó khăn hay khổ sở hay
đau đớn hay
rắc rối cho
đại chúng. Họ làm một số điều thiện không phải vì
Đạo Phật đòi họ phải làm mà vì
nhận thấy giá trị và
ý nghĩa của những hành động này mang
phúc lợi cho người khác.
Tôn giáo này là một
tôn giáo tự do không bao giờ
hạn chế công việc riêng tư của
con người nếu những việc này
không vô luân hay
tác hại.
Phật Tử hoàn toàn tự do tổ
chức
việc gia đình không
vi phạm nguyên tắc
căn bản đạo lý.
Tôn giáo này giống như mỏ vàng cho những
nhà trí thức trong công việc
tìm tòi nghiên cứu,
tìm thấy khía cạnh
sâu xa về
tâm lý,
triết học, khoa học, luật
vũ trụ, cho việc phát triển
tinh thần cùng
giải thoát nhân loại khỏi bất
toại nguyện và
bất an. Cho nên tại sao đã trên 2500 năm,
Phật Giáo đã có thể
thuyết phục đại chúng tại hầu hết các
quốc gia Á Châu. Ở mọi
thời đại, người ta đón chào
giáo lý của
Đức Phật như một
thông điệp hòa bình hay một
thông điệp thiện chí. Do đó tại sao người
Phật Tử có thể đem
giới thiệu tôn giáo này không chút khó khăn, không cần
áp dụng một loại
lợi dụng nào, không cần làm
đảo lộn những
hoạt động văn hóa đang hiện tồn.
Nguyên Nhân Khó Khăn Của
Chúng Ta
Một khía cạnh quan trọng khác trong
tôn giáo này là sự
giải thích về
nguyên nhân chính các
vấn đề và khổ đau của
con người. Theo
Đức Phật,
chúng ta hết thẩy đều phải
đối đầu với những
vấn đề trên
trần thế này do
lòng tham
hiện hữu trong tâm. Ngài đã
khám phá ra ba loại
sức mạnh của lòng tham trong tâm và chúng chịu
trách nhiệm về sự
tồn tại,
tái sanh và
hàng ngàn
vấn đề và
rối loạn tinh thần của
chúng ta. Chúng là: tham sống,
tham sự ham muốn trần tục hoặc nhục dục và
tham sự không tồn tại. Muốn
hiểu ý nghĩa thực sự của những điều này,
chúng ta phải
suy nghĩ cẩn
thận và khôn ngoan về chúng
cho đến khi sự
nhận thức được đến được với
chúng ta.
Những
triết gia và
tâm lý học
nổi tiếng cũng đã
giải thích ba
sức mạnh ấy bằng
ngôn ngữ khác biệt là những
nguyên nhân của sự
hiện hữu. Arthur Schopenhaumer
giải thích ba
sức mạnh ấy là nhục dục,
bản năng tự bảo toàn, và quyên sinh.
Nhà tâm lý học Sigmund Freud
giải thích là
dục tình,
bản năng về cái tôi và cái chết do
bản năng. Một nhà
tâm lý khác Carl Jung nói: "Từ nguồn gốc
bản năng nảy sanh mọi sáng tạo". Giờ đây hãy nhìn những
nhà trí thức vĩ đại chuẩn bị tán thành
chân lý khám phá ra bởi
Đức Phật 25 thế kỷ trước đây như thế nào.
Tuy nhiên, khi
xem xét những lời
giải thích này,
chúng ta có thể hiểu được
Đức Phật đã
vượt qua
khả năng
hiểu biết của các nhà
tư tưởng vĩ đại về những
vấn đề ấy.