- Lời trần thuật của người dịch
- Trích yếu
- Bảng tóm tắt
- Chương thứ nhất. GIỚI THIỆU
- Chương thứ hai. KHỞI NGUYÊN VÀ CÁCH PHÊ PHÁN LOGIC CỦA “KATHĀVATTHU”
- Chương thứ ba. PHẬT GIÁO SƠ KỲ PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI “NHẤT THIẾT” CỦA NGOẠI ĐẠO
- Chương thứ tư. “KATHĀVATTHU” PHÊ PHÁN NHẤT THIẾT HỮU LUẬN THỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI [1]
- Chương thứ năm. “KATHĀVATTHU” PHÊ PHÁN NHẤT THIẾT HỮU LUẬN THỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI [2]
- Chương thứ sáu. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- SÁCH THAM KHẢO (BIBLIOGRAPHY)
NHẤT THIẾT HỮU LUẬN TRONG BỘ “LUẬN SỰ”
SABBAMATTHĪTIKATHĀ IN KATHĀVATTHU –
Tác giả: Nghiên cứu sinh PHRAMAHA ANON PADAO (ĀNANDO/ THÍCH A-NAN)
Thầy giáo chỉ đạo: bác sĩ Lữ Khải Văn.
TRÍCH YẾU
Nội dung nghiên cứu bản luận thuyết được xem xét ở đây là Nhất thiết hữu luận (Sabbamatthītikathā), ghi chép trong “Luận Sự” (Kathāvatthu) của Abhidhamma (A-tì-đạt-ma) trong hệ văn hiến Pāḷi do Moggaliputta-tissa (Mục-kiền-liên Tử Đế-tu) biên thành. Sự tranh luận này phát sinh vào khoảng sau khi Phật nhập diệt chừng 200 – 300 năm, trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái, cũng tức là thời đại Vua Asoka (A-dục) bên Ấn-độ. Bởi vì Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Sabbatthivāda) bàn luận về nội dung nhất thiết đối với Kinh điển Phật giáo Sơ kỳ, tồn tại quan điểm và cách giải thích riêng biệt, dẫn đến Thượng Tọa bộ (Theravāda) phê phán Nhất thiết hữu luận. Đề tài luận thư chuyển đến việc tranh luận và bàn cãi đối với “Nhất thiết hữu” và “Tam thời thật hữu” (Bắc truyền gọi là Ba đời thật có) giữa hai bên Thượng Tọa bộ và Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Nội dung thảo luận chủ yếu của bản luận văn có thể chia làm hai phần: một là sự phê phán của đức Phật đối với tư tưởng “nhất thiết” của ngoại đạo thời Phật giáo Sơ kỳ; hai là sự phê phán “Nhất thiết hữu luận” đối với Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ của Thượng Tọa bộ thời Phật giáo Bộ phái.
1. Trong sự phê phán đối với ngoại đạo vào thời Phật giáo Sơ kỳ, tức chỉ rõ cho cái gọi “Tất cả là có” (nhất thiết vi hữu) và “Tất cả là không” (nhất thiết vi vô) đều bị đức Phật xác định là cực đoan, đều thuộc lập trường trên quan điểm tà kiến. Đức Phật theo đó mà đề xuất nên quan điểm Trung Đạo – “nhân duyên”. Trên nguyên tắc, nhân duyên bao hàm “Hữu – Vô”, “Sinh – Diệt” bên trong, có thể nói bản thân nó đã là không bắt đầu cũng không kết thúc, vì vậy theo đó không tồn tại thân thế đấng Sáng tạo thông thường với đầy đủ tất cả các tính chất căn nguyên giống như trong các tôn giáo khác. Thái độ Phật giáo Sơ kỳ đều không thừa nhận đối với đấng Thần tối cao hay Thần Phạm Thiên sáng tạo tất cả. Ngoài ra, ở trong Phật giáo, định nghĩa về “nhất thiết” (tất cả) nằm trong “mười hai xứ” (dvādasa-āyatana).
2. Thời kỳ Phật giáo Bộ phái, liên quan đến Nhất thiết hữu luận trong “Kathāvatthu”, sự tranh luận của hai bên đối với “nhất thiết” chỉ xoay quanh về “mười hai xứ”, nhưng có thêm vài thứ khác như: biện về năm uẩn, ba thời, phiền não… Tư tưởng y cứ của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ đến từ mối quan hệ liên quan về “năm uẩn và ba thời” đối với Kinh điển Phật giáo Sơ kỳ, giữ một cách nhìn riêng tiến tới chủ trương “tam thời thật hữu”. Quan điểm này qua sự hỏi đáp logic của Thượng Tọa bộ mà chia chẻ làm ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai không thể nào thay thế lẫn nhau, có dẫn chứng một bộ Kinh riêng liên quan đến “năm uẩn và ba thời”. Đức Phật vì các Tỳ-khưu thuyết pháp bằng “đạo lộ ngôn biệt” (niruttipathā), “đạo lộ tăng ngữ” (adhivacanapathā; chọn danh xưng), “đạo lộ thi thiết” (chế định; paññattipathā) làm định thuyết, tức là đem “Thế tục đế” làm tên gọi, chẳng giống như điều mà Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ công nhận là chân thật, vĩnh hằng, bất biến. Phương châm Thượng Tọa bộ thì phê phán đối với quan điểm “nhất thiết hữu” của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ là tà kiến, điều này rất rõ ràng là dựa trên quan điểm Phật giáo Sơ kỳ.
Từ khóa: Phật giáo Sơ kỳ, Phật giáo Bộ phái, Kathāvatthu, Thượng Tọa bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, tự thuyết, tha thuyết, logic Phật giáo, nhất thiết hữu luận, nhất thiết hữu, tam thời thật hữu.