- Lời trần thuật của người dịch
- Trích yếu
- Bảng tóm tắt
- Chương thứ nhất. GIỚI THIỆU
- Chương thứ hai. KHỞI NGUYÊN VÀ CÁCH PHÊ PHÁN LOGIC CỦA “KATHĀVATTHU”
- Chương thứ ba. PHẬT GIÁO SƠ KỲ PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI “NHẤT THIẾT” CỦA NGOẠI ĐẠO
- Chương thứ tư. “KATHĀVATTHU” PHÊ PHÁN NHẤT THIẾT HỮU LUẬN THỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI [1]
- Chương thứ năm. “KATHĀVATTHU” PHÊ PHÁN NHẤT THIẾT HỮU LUẬN THỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI [2]
- Chương thứ sáu. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- SÁCH THAM KHẢO (BIBLIOGRAPHY)
NHẤT THIẾT HỮU LUẬN TRONG BỘ “LUẬN SỰ”
SABBAMATTHĪTIKATHĀ IN KATHĀVATTHU –
Tác giả: Nghiên cứu sinh PHRAMAHA ANON PADAO (ĀNANDO/ THÍCH A-NAN)
Thầy giáo chỉ đạo: bác sĩ Lữ Khải Văn.
Chương thứ năm.
“KATHĀVATTHU” PHÊ PHÁN NHẤT THIẾT HỮU LUẬN THỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI [2]
VII. Kết luận
Trên lập trường của Thượng Toạ bộ, họ phê phán tư tưởng Hữu bộ có thể quy nạp rằng: Hữu bộ cho là cái gọi “quá khứ hữu” bao gồm cả lập luận bậc Thánh nhân như A-la-hán có tồn tại phiền não quá khứ, rồi cả cánh tay và động tác của nó trong quá khứ… Tư tưởng như thế bị Thượng Toạ bộ dùng phương thức khảo sát y hệt khi cho quá khứ của nó phải chăng có thể bày tác dụng ngay hiện thực, rồi phát hiện ra tư tưởng ấy tự mâu thuẫn nhau, không thể thành lập. Sau đó, Thượng Toạ bộ thông qua cái gọi là tồn tại trong ba thời tổng hợp thì cái nào là “hữu”, ví như phương thức Tam thời ngũ uẩn hữu v.v… để phê phán Hữu bộ, càng nghiêm khắc phê phán rằng “Tam thời thật hữu” không thể thành lập. Ngoài ra còn phát hiện rằng Hữu bộ trước sau đã mâu thuẫn bất nhất, vốn dĩ chủ trương cho cái gọi là hữu (có thật) trong ba thời nhưng đằng sau lại bao gồm cả ba thời và không phải ba thời ngay bên trong “hữu là quá khứ và phi quá khứ” v.v… vì vậy Thượng Toạ bộ phê phán thứ chủ trương như thế: nếu vậy thì ba thời sẽ biến thành không phải ba thời, không phải ba thời thì biến thành ba thời v.v… chủ trương như thế càng mâu thuẫn hơn nữa. Trong “Kinh chứng”, hai bên dẫn dụng Kinh điển Phật giáo Sơ kỳ để tiến hành tranh luận, Kinh điển được Hữu bộ chủ trương chỉ sử dụng Kinh văn một phía liên quan đến hữu để giữ lấy quan điểm bản thân, điều này bị Thượng Toạ bộ dùng Kinh văn “phi thật hữu” (không thật có), thậm chí dùng Thế Tục đế (Tục đế) và Thắng Nghĩa đế (Chân đế) để phản bác quan điểm Hữu bộ. Từ cuộc biện luận cũng có thể phát hiện Thượng Toạ bộ không hề cố tình chủ trương hữu (có) hay vô (không), chẳng qua dùng đến thuận luận “hữu” và phản luận “vô” để tiến hành phê phán, khiến cho Hữu bộ lâm vào tình huống tự mâu thuẫn chính mình.