TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
5. NẮM GIỮ
Nguyên nhân hiện diện trên cõi đời này chính là thủ: sự chấp trước, nắm giữ, bám víu. Có bốn sự chấp thủ:
1. Dục thủ: Nắm giữ những đối tượng thuộc về ngũ dục: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu, gọi là năm dục công đức hay dục trưởng dưỡng, vì năm thứ này làm tăng trưởng lòng ham muốn.
2. Kiến thủ: Nắm giữ một quan niệm, lý thuyết, ý kiến, tư duy cho là duy nhất đúng, ngoài ra đều sai lầm. Bênh vực nó tới cùng, có thể đánh nhau chết bỏ vì nó. Nhiều khi biết nó sai, nhưng lỡ theo nó từ lâu ta không thể buông bỏ, vì tình cảm, vì tự ái, vì thể diện..., vì đủ thứ. Sự cuồng tín ấy được diễn tả trong câu thơ của H.W. Longfellow:
Tại sao nỡ bỏ một niềm tin
Chỉ vì nó không còn đúng sự thật
Hãy bám lấy nó, đeo theo nó
Rồi sẽ lại thấy nó không sai
(Why abandon a belief because it ceases to be true
Attach to it, cling to it, and it will be true again)
Một điều sai khi được nhiều người nói và được lặp lại nhiều lần, thường dễ lung lạc ngay cả những người lúc đầu không tin. Như câu chuyện về bà mẹ của bậc thánh Tăng Sâm, nghe lời đồn con mình giết người, lúc đầu còn bình tĩnh dệt cửi, cả quyết không thể eó chuyện đó, nhưng khi nghe đến lần thứ ba, bà hốt hoảng tuôn chạy.
3. Giới cấm thủ: Khư khư giữ chặt một giới cấm không đưa đến giải thoát, tự trói buộc mình. Giới luật Phật chế là để giúp ta giải thoát ngay hiện tại. Tôn giả Udàyi một hôm thầm cảm ân đức của Thế Tôn đã thốt ra những lời cảm động như sau: “Thế Tôn thật sự đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho ta! Thế Tôn đã thật sự mang lại lạc pháp cho ta!” vì nhờ giới luật chế không ăn phi thời, mà tôn giả tránh được bao nhiêu nhục nhã ê chề những lúc đi khất thực vào buổi tối.
Kinh nghiệm đau đớn nhất cho Ngài, như ta được nghe Ngài kể lại với Phật, là một hôm vào lúc sẫm tối, Ngài ôm bát đứng trước một nhà nọ. Một người đàn bà từ trong đi ra, bỗng ngất xỉu vì hoảng sợ, tưởng con quỷ nào
hiện hình quấy phá. Khi
hoàn hồn bà
mắng nhiếc: “Cha
Tỳ kheo hãy chết đi! Mẹ
Tỳ kheo hãy chết đi! Thật
tốt hơn cho ngươi là lấy con dao bén mổ cái bụng chết đi còn hơn vì lỗ miệng đi
khất thực buổi tối làm cho người ta sợ hết hồn!” .
Chính vì những bất tiện ấy,
Thế Tôn mới
chế giới cho
Tỳ kheo để được sống
giải thoát an vui.
Trái lại giới cấm thủ là những kỷ luật
phi lý không do một
đấng giác ngộ lập ra, mà do những bậc thầy
ngu si muốn
lôi cuốn đệ tử bằng những điều luật khó theo, quái gở, lập dị, không vì
mục đích giải thoát mà chỉ để lòe
thiên hạ.
4. Ngã luận thủ:
Chấp chặt lý luận về ngã, cho rằng
nhất định có ngã. Vì có yêu “cái ta” nên mới nắm giữ,
bảo tồn nó không cho mất.
Điều đáng nói là, khi đã có một thủ là bao hàm cả bốn thủ. Ví dụ một người tu
ép xác khổ hạnh để
cầu sinh lên trời, thì
khổ hạnh ấy gọi là
giới cấm thủ. Cho rằng
hiện hữu ở
cõi trời là
phúc lạc tối thượng, thì đó là
kiến thủ,
lòng ham muốn sinh lên trời là
dục thủ, cho rằng mình đúng là ngã luận thủ.
Hoặc khi
chấp có một
bản ngã (thay vì hiểu đúng như Phật dạy là chỉ có sự
kết hợp tạm thời của
năm uẩn làm nên cái gọi là
con người; và cái tổ
hợp thân tâm ấy đang
biến đổi không ngừng trong từng giây phút), thì sự
chấp ngã ấy được gọi là ngã luận thủ. Đã ôm giữ một
lý luận,
quan niệm về ngã, thì có người cho rằng ngã ấy chủ yếu là thân xác, nên hưởng thụ
năm dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) cho chán chê đi, vì chết là hết không còn
gì nữa. Đấy gọi là
dục thủ. Có người lại cho rằng ngã ấy chủ yếu là
linh hồn, sau khi thân
xác chết linh hồn sẽ được lên
thiên đàng sống đời
vĩnh viễn nếu bây giờ
chịu khó ép xác khổ hạnh.
Chấp có linh hồn gọi là
kiến thủ ; chấp
khổ hạnh để sinh lên trời gọi là
giới cấm thủ.
Chính bốn thủ nói trên sẽ
đưa tới hữu là sự có mặt trong
ba cõi dục, sắc và
vô sắc Nếu không nắm giữ bất cứ gì, nghĩa là không yêu thích,
bám víu, thì tất
nhiên không còn do nghiệp trói mà phải
hiện hữu bất cứ ở đâu.