TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
11. THẤY BIẾT CHÂN CHÁNH
Trong 8 chánh đạo, đứng đầu là Chánh tri kiến. Ta hãy tìm hiểu xem một người phải biết những gì, thấy những gì mới được gọi là người có chánh tri kiến. Không gì tốt hơn nghe lại lời dạy của Tôn giả Xá Lợi Phất về vấn đề này, theo kinh Chánh tri kiến (Trung bộ kinh II).
Có nhiều pháp môn thành tựu Chánh tri kiến. Những pháp môn ấy gồm có:
1. Biết được bất thiện và căn bản bất thiện, biết được thiện và căn bản thiện.
2. Biết được thức ăn, tập khởi thức ăn, đoạn diệt của thức ăn và con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn.
3. Biết khổ, tập khởi của khổ, đoạn diệt của khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ.
4. Biết già chết, tập khởi, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết.
5. Biết sanh, tập khởi, đoạn diệt của sanh và con đường đưa đến đoạn diệt sanh.
6. Biết hữu, tập khởi, đoạn diệt của hữu và con đường đưa đến đoạn diệt hữu.
7. Biết thủ, tập khởi, đoạn diệt của thủ và con đường đưa đến đoạn diệt thủ.
8. Biết ái, tập khởi, đoạn diệt của ái và con đường đưa đến đoạn diệt ái.
9. Biết thọ, tập khởi, đoạn diệt của thọ và con đường đưa đến đoạn diệt thọ.
10. Biết xúc, tập khởi, đoạn diệt của xúc và con đường đưa đến đoạn diệt xúc.
11. Biết sáu nhập, tập khởi, đoạn diệt của sáu nhập và con đường đưa đến đoạn diệt sáu nhập.
12. Biết danh sắc, tập khởi, đoạn diệt của danh sắc và con đường đưa đến đoạn diệt danh sắc.
13. Biết thức, tập khởi, đoạn diệt của thức và con đường đưa đến đoạn diệt thức.
14. Biết hành, tập khởi, đoạn diệt của hành và con đường đưa đến đoạn diệt hành.
15. Biết vô minh, tập khởi, đoạn diệt của vô minh và con đường đưa đến đoạn diệt vô minh.
16. Biết lậu hoặc, tập khởi, đoạn diệt của lậu hoặc và con đường đưa đến đoạn diệt lậu hoặc.
Mười sáu pháp môn trên đây là mười sáu cửa dẫn vào chánh tri kiến, vào được một cửa thì có thể mở được tất cả các cửa khác, cũng như chỉ cần mở một gút là tất cả các gút khác sẽ được tháo tung ra.
Ta hãy tuần tự học hỏi từng pháp môn theo lời giảng dạy của tôn giả Xá Lợi Phất, để thành tựu chánh tri kiến.
1. Biết bất thiện và căn bản bất thiện, biết thiện và căn bản thiện. Bất thiện có 10 thứ đó là ba việc ác của thân (giết hại, trộm cắp, dâm dục), bốn việc ác của miệng (nói dối, nói hai lười, nói lời ác, nói lời phù phiếm), và ba việc ác của ý (tham, sân, tà kiến). Căn bản bất thiện là tham, sân, và si. Thiện là từ bỏ 10 điều ác nói trên và căn bản thiện là không tham, không sân, không si.
2. Biết thức ăn. Thân này có ra và được nuôi sống là nhờ thức ăn. Biết được thức ăn làm tiếp tục thân này qua nhiều đời kiếp thì có thể chấm dứt sinh tử bằng cách đình chỉ cung cấp thức ăn cho một đời sống kế tiếp, như hết nhiên liệu thì ngọn lửa sẽ tắt... Thức ăn đó gồm bốn thứ: đoàn thực thô và tế (đoàn là vo thành nắm tròn để bỏ vào miệng), tức thực phẩm vật chất; xúc thực (sự tiếp xúc giữa năm giác quan với ngoại vật); tư niệm thực (ý tưởng, tư duy thiền định); và thức thực (dòng ý thức tuôn chảy không ngừng ngay cả khi ngủ.
Chính thức này tạo đời sống sau khi chết, thuật ngữ gọi là kiết sanh thức). Như vậy sự sống chúng ta vô cùng phức tạp, không phải chỉ được nuôi dưỡng bằng thức ăn vật chất (đoàn thực) mà thôi. Được ăn uống đầy đủ mà bị nhốt trong phòng tối lâu ngày ta cũng chết, đó là vì thiếu xúc thực: ta cần tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, với người và cảnh vật. Con người là một con vật xã hội, cho nên xúc thực cũng là thức ăn quan trọng với phần đông.
Có những người phảỉ chết hoặc điên cuồng vì thiếu thức ăn này. Khi ta mê mải xem kịch hay chiếu bóng, hay nghe nhạc, ta có thể quên ăn: đó là vì ta đã ăn bằng xúc thực. Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực, là sự suy tư tưởng tượng, ăn bằng cách nghiền ngẫm một ý nghĩ trong tâm trí. Loại này cũng rất quan trọng, ta có thể suy nghĩ một vấn đề đến quên ăn quên ngủ. Loại thức ăn cuối cùng là thức thực, là cái duy trì và tiếp nối mạng sống. Chính thức này tạo nên một thân xác mới, do đó nó được gọi là kiết sanh thức: thức nối liền hai đời sống. Một vị nhập định diệt thọ tưởng chỉ khác với thây chết ở chỗ thần thức vị này chưa ra khỏi thân xác để trở thành kiết sanh thức.
Những
thức ăn duy trì sự sống
phức tạp như vậy, nên muốn
chấm dứt sinh tử không phải chuyện dễ. Ta
vẫn có thể nhịn ăn mà chết, nhưng
dòng tâm thức vẫn
tiếp diễn thì vẫn còn phải
tái sinh, vì nguyên liệu cho ngọn lửa sống vẫn đang còn. Vậy muốn
đoạn diệt sinh tử thì phải đoạn cả bốn
thức ăn nói trên. Những vị
tọa thiền đã
thuần thục chỉ đoạn được ba
thức ăn:
đoàn thực,
xúc thực và tư
niệm thực, còn
thức thực chưa đoạn.
Tập khởi hay
nguyên nhân của thức này là
tham ái, nên muốn đoạn nó phải diệt
tham ái. Con dường đưa đến
đoạn diệt tham ái là
thánh đạo tám ngành.
3. Biết
khổ tập, diệt, đạo. Khổ là sanh già bệnh chết,
sầu bi ưu
khổ não...
tóm lại năm
thủ uẩn là khổ.
Nguyên nhân của khổ là ái đi liền với hỉ và tham. Hỉ là khoái thích, tham là muốn vơ về cho mình. Khi
tiếp xúc với một đối tượng mà ta không khoái thích thì không có yêu khởi lên: ta
được giải thoát.
Vì vậy cái nguy hiểm là sự khoái thích đưa đến yêu, để từ đấy phải chuốc lấy
sầu bi khổ ưu não, như
lời Phật dạy: “sầu
bi khổ ưu não do ái sanh,
hiện hữu từ nơi ái”.
Nhưng khi
tiếp xúc sự vật, chỉ có những sắc đẹp, tiếng hay,
mùi thơm, vị ngon,
xúc giác êm dịu... mới phát sinh khoái cảm, từ đó phát sinh ái. Nếu chỉ
tiếp xúc toàn những sắc xấu,
mùi hôi, vị dở thì không can hệ gì. Chính cái
tâm sở thọ làm cho ta biết xấu đẹp ngon dở. Cái khó của sự
tu tập là làm sao dừng lại ở giai đoạn thọ, đừng “bước đi bước nữa” để tiến đến ái. Khi xúc và cảm nhận những cảnh xấu đẹp
vui buồn, không nên sinh tâm yêu ghét. Ví chính do ái mà có thủ (nắm giữ), do thủ mà có hữu (sự có mặt).
Do ta thích có mặt trên đời, ta mới sinh ra ở đời, cũng như có thích xem cải lương mới có mặt ở rạp cải lương. Không ai mời ta đến giữa
cuộc đời này nếu chính
chúng ta không muốn; chính ta đã
đăng ký, xếp hàng để được
hiện hữu, sinh ra trên cõi đời này. Ta có
trách nhiệm hoàn toàn về sự
hiện hữu ấy. Không thể đổ thừa trách móc ai. Vì sao có hữu? Ấy là vì có thủ (nắm giữ) và
sở dĩ có nắm giữ là vì có ái phát sinh từ thọ những thứ làm ta khoái thích.
Thọ là
cảm giác (vui, khổ,
trung tính) khởi lên thuộc sáu loại do có
sáu giác quan.
Nguyên nhân của thọ là xúc: sự
tiếp xúc của 5
giác quan với 5 đối tượng như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v.. Muốn
đoạn diệt thọ cần
đoạn diệt xúc.
Nguyên nhân của xúc là
lục nhập, 6 lối vào: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; 6 chỗ qua đó sự vật bên ngoài có thể
đi vào tâm thức ta. Vì có mắt tai nên có sự thấy nghe v.v...
Nguyên nhân của
lục nhập là
danh sắc. Do có
danh sắc mà có
lục nhập. Danh là phần
tâm lý gồm xúc,
tác ý, thọ tưởng, tư. Sắc là thân xác
vật lý làm bằng
bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong.
Quá trình để một sự vật
đi vào tâm thức ta
gồm có 5 giai đoạn chính:
a. Xúc: như mắt
tiếp xúc với
hình sắc khi sắc ở trong tầm mắt thì sự
tiếp xúc mới có thể xảy ra.
b.
Tác ý: có sự chú ý. Nếu mắt thấy vật mà không có
tác ý thì không có giai đoạn
kế tiếp là .
c. Thọ:
tiếp nhận, có chú ý nhìn mới có sự
nhận ra đó là vật gì.
d. Tưởng: bắt đầu có
ý niệm về vật ấy: đẹp hay xấu, đáng ưa hay đáng chán v.v... Ngang đây
nếu không dừng lại mà “bước đi bước nữa” thì tức là bắt đầu vào tròng của nghiệp, đó là giai đoạn chót:
e. Tư.
tơ tưởng về đối tượng mình
ưa thích. Chính từ đây mà ái sanh, đầu mối của sầu, bi, khổ, ưu, não. Nó cũng là mầm mống tạo nghiệp.
Nguyên nhân của
danh sắc là thức (cái biết) có 6 loại: cái biết của mắt, của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nói khác đi, vì có thấy nghe mà có mắt tai v.v.. để
sử dụng cho việc thấy nghe.
Nguyên nhân của thức là hành
gồm có 3:
thân hành, khẩu hành,
tâm hành (hay ý hành) là những
hoạt động cố ý của thân, khẩu, ý gọi là
ba nghiệp. Cần
nhấn mạnh ở
yếu tố cố ý vì chỉ những hành động
cố ý mới phát sinh ra nghiệp.
Nguyên nhân của hành là
vô minh, nghĩa là không biết về khổ,
khổ tập,
khổ diệt và
con đường đưa đến
khổ diệt.
Yếu tố sinh ra
vô minh,
tăng trưởng vô minh là
ba lậu hoặc (sơ hở
mê lầm):
dục lậu (ham các đối tượng
giác quan),
hữu lậu (ham
hiện hữu) và
vô minh lậu là sự
u mê căn bản phát sinh ra
dục lậu,
hữu lậu. Cũng từ
vô minh sinh ra
lậu hoặc, rồi
lậu hoặc lại
tăng trưởng vô minh; hai cái sinh lẫn nhau như từ một giống sinh cây quả, quả lại sinh ra
hạt giống.
Thánh đạo tám ngành là
con đường đưa đến
đoạn diệt của
lậu hoặc, của
vô minh, của hành, của thức, của
danh sắc... và của bất cứ gút nào trong 12 gút thắt của vòng
luân hồi sinh tử. Mở được một gút là phá tan được xiềng xích
vô minh trùng trùng vô tận.