HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH &
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
NHÌN LẠI PHONG TRÀO
PHẬT GIÁO MIỀN NAM NĂM 1963
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG – 2013
PHẦN 4
ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC, ĐẠO PHÁP
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY
ThS. Võ Thanh Hùng
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
I. TỔNG QUAN1. Vài nét về
đặc điểm tự nhiên và kinh tế -
xã hộiTây
Nam Bộ là vùng đất phù sa mới gồm 12 tỉnh và thành phố Cần Thơ, diện tích
tự nhiên trên 4 triệu ha, dân số gần 17,3 triệu người (tính đến ngày 01/04/2009), chiếm 22% dân số cả nước. Trong đó, người Kinh trên 90%; Khmer hơn 7%; Hoa 1,2% và người Chăm chiếm gần 0,07%. Toàn vùng có 07
tôn giáo với hơn 30 hệ phái. Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) có 700km bờ biển, 400km
biên giới tiếp giáp với Campuchia.
Hệ thống sông ngòi và kênh rạch chằng chịt (khoảng 28.000km sông rạch), là cơ sở cho giao thông đường thủy và hình thành các cảng sông, cảng biển quốc tế,
đồng thời còn là nguồn tưới tiêu, thau phèn rửa mặn. Hằng năm, đóng góp 18% GDP, 50% sản lượng lúa, 70% sản lượng trái cây, 52% sản lượng thủy sản, 90% sản lượng gạo xuất khẩu và 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân toàn vùng giai đoạn 2001 - 2010 đạt 11,7%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực. Năm 2012, thu
nhập bình quân 32 triệu đồng/người, gấp 2,5 lần, thu ngân sách tăng gấp 6 lần, so với năm 2002.
Hoàn cảnh tự thổ nhưỡng và những
đặc điểm về kinh tế -
xã hội của vùng đất này sẽ giúp cho
chúng ta hiểu hơn
tính cách,
lối sống và những đặc trưng
văn hóa của người ĐBSCL, nhất là
vai trò của
Phật giáo vùng ĐBSCL trên lĩnh vực
văn hóa -
xã hội đã qua và trong
thời kỳ đổi mới hiện nay.
2. Khái quát Phật giáo Nam BộKhi
nghiên cứu về
Phật giáo Nam Bộ, dễ
nhận thấy một điều
đặc biệt là diện mạo
Phật giáo Nam Bộ vừa
xuất hiện những
hiện tượng, những
đặc điểm riêng có ở
Nam Bộ, không thấy ở bất cứ vùng miền nào, vừa là sự
tiếp nối làm sâu sắc, làm
phong phú thêm
truyền thống Phật giáo ĐBSCL. Cái
đặc sắc ấy là do
Nam Bộ đi đầu trong
tiếp xúc văn hóa, xét trong tương quan với cả nước. Ngay từ
thời kỳ khai phá vùng đất mới này ở các thế kỷ XVII-XVIII, những
truyền thống văn
hoá Phật giáo Việt, Khmer, Hoa, Chăm, Ấn... đã gặp gỡ nhau, đan xen và hòa trộn nhau, tạo ra sự đổi mới trong
Phật giáo nói chung và
văn hóa Phật giáo ĐBSCL nói riêng.
Hiện toàn vùng ĐBSCL có:
Như vậy,
Phật giáo người Việt ở
Nam Bộ là sản phẩm tổng hợp của ba nhân tố chính:
Truyền thống Phật giáo và
văn hóa dân tộc vùng ĐBSCL tiếp biến với các
tôn giáo, dân tộc khác cộng với
vị trí địa lý
thuận tiện giao lưu quốc tế,
tính cách phương Tây cũng
ảnh hưởng tới
Phật giáo Nam Bộ về tính mở, thoáng; tính
năng động và tính
thực dụng. Chính những điều này đã góp phần hình thành đặc trưng
tính cách văn hóa Phật giáo Nam Bộ: Tính đề cao
đạo lý, những
giá trị đạo đức làm người, cùng với tính sông nước,
bao dung,
năng động, trọng nghĩa.
Những đặc trưng này, suy cho cùng có nguồn gốc hình thành từ nhu cầu tổ chức
đời sống cộng đồng lưu dân Việt buổi đầu khai phá
Nam Bộ mang tính tự phát, thiếu
luật lệ, thiếu sự tổ chức và
quản lý của triều đình trung ương. Trong những
điều kiện gian khổ chống chọi với
thiên nhiên, đã xác lập
vai trò của những
cá nhân mạnh, thủ lĩnh vùng, những người có khả năng chiêu dân lập ấp, tổ chức sản xuất, tổ chức cuộc sống
cộng đồng,
giải quyết các
tranh chấp... Trong
điều kiện không có
luật lệ và tự phát thì
đạo lý làm người và
uy tín của
cá nhân là cái thay thế, trong đó
đạo lý làm người có một
vị trí đặc biệt, có
ý nghĩa quyết định sự
sinh tồn của những người đi khai hoang mở đất, đã làm
xuất hiện một dòng
tôn giáo độc đáo, mà đặc trưng
nổi bật làm nó khác với tất cả các
tôn giáo khác, là ở chỗ đã nâng
đạo lý làm người
truyền thống của người Việt lên thành nội dung chủ yếu của
giáo lý, thành
pháp môn, thành phương thức
tu hành, hay cũng có thể nói,
đạo lý làm người đã được
Phật giáo hóa, vẫn là sự
tiếp tục của
truyền thống văn hóa Việt, hơn nữa, góp phần phát triển và làm
phong phú truyền thống ấy trong sự
tiếp xúc với các
truyền thống văn hóa khác, nhất là khi Tổ
quốc thống nhất, Bắc - Nam liền một dải, cả nước
đi lên CNXH, hội nhập với quốc tế.
II. NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa Phật giáo với đời sống văn hóa vùng ĐBSCLLịch sử vùng đất
Nam Bộ đã
ghi nhận Phật giáo từng
đồng hành cùng dân tộc, nhanh chóng được
nhân dân đón nhận,
tin theo trong suốt tiến trình
lịch sử khai phá, hình thành việc dựng nước và giữ nước vùng đất mới này. Nhìn lại
lịch sử Nam Bộ qua bốn giai đoạn: trước 1802, 1802-1867, 1867-1945 và từ 1945
đến nay, trong đó giai đoạn đầu gồm
thời kỳ Đàng Trong (từ đầu đến 1777) và
thời kỳ nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh (1778-1802), có thể thấy
thời kỳ Đàng Trong là
xuất phát điểm
lịch sử rất
thuận lợi cho sự phát triển của
Phật giáo ở Nam Bộ… Với triết lý
đạo đức nhân sinh sâu sắc về từ, bi, hỷ, xả
giáo hóa con người sống và làm
việc thiện,
bao dung,
độ lượng;
Phật giáo đã
trở thành một phần của
đời sống;
trở thành chỗ dựa
tinh thần cho
nhân dân.
Phật giáo đã
đồng hành và để lại những dấu ấn sâu đậm
trong đời sống và phong tục tập quán, trong
văn học và nghệ thuật;
trở thành di sản văn hóa quý báu của ĐBSCL.
Về mặt
đạo đức,
lối sống so sánh ta thấy
Khổng giáo thì cứng nhắc, khuôn phép, chỉ dành cho tầng lớp trên, biết chữ
thánh hiền.
Đạo giáo lại
mơ hồ, cởi mở
quá mức thì
Phật giáo lại gần gũi hướng tới những người
bình dân, với
nghi thức, triết lý giản dị, dễ hòa nhập vào cuộc sống. Như vậy cho thấy
đạo đức Phật giáo là sự
hòa hợp giữa
con người với
thiên nhiên, với
vũ trụ, nên
Phật giáo có
ảnh hưởng lớn đến
tâm thức dân tộc, giữa đạo và đời, giữa
tư tưởng đạo đức Phật giáo với
tính cách đạo đức con người vùng ĐBSCL trùng khít,
phù hợp.
Phật giáo đã
thể hiện triết lý
nhân sinh sống phải
tu thân tích đức, làm điều thiện, điều lành, hướng
con người tới ứng xử nhân văn, cao đẹp
nghiệp nhân quả “ở hiền gặp lành”. Ngôi chùa được
nhận thức là nơi
tôn nghiêm, nơi
tu học,
rèn luyện đạo đức tâm linh chứ không phải là nơi lánh đời,
tiêu cực. Đó là một
ý nghĩa tích cực trong việc
nhận thức vai trò của ngôi chùa
trong đời sống
cộng đồng của
nhân dân vùng ĐBSCL; Cũng từ đây, mà vùng đất này có câu: “Thứ nhất là tu
tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa” hoặc “Tu tại tâm”, “Phật tử tại gia”... với ý răn dạy, khẳng định đối tượng tu nếu
ba nghiệp đã
thanh tịnh rồi thì việc tu đâu, ở đâu không còn là
vấn đề để bàn. “Tâm tịnh tức
Phật độ tịnh”, dù có ở nhà hay ở chợ nếu
chúng ta áp dụng giáo lý Phật đà trong mọi công việc thường nhật thì việc
tu tập cũng dễ dàng. Nhưng nếu ở chùa mà không tu thì cũng hoàn không, đó chính là
đạo đức.
Về mỹ thuật, kiến trúc:
Phật giáo để lại những
công trình kiến trúc đẹp, có phong cách riêng như: Chùa Vân Quang, chùa
Long Tuyền (Mỹ Tho), Tây An (An Giang), chùa
Giác Lâm, chùa
Giác Viên, chùa
Từ Ân (TP. HCM), chùa
Long Thiền, chùa
Đại Giác, chùa
Bửu Phong (Đồng Nai)... để lại
giá trị đặc sắc về mỹ thuật và kiến trúc
tôn giáo của ĐBSCL cũng như của cả
Nam Bộ.
Về
văn học nghệ thuật:
Phật giáo có
hệ thống in chữ của chùa,
tác giả là bậc
Tăng Ni tu hành theo
đạo Phật và các Nho sĩ có
ảnh hưởng của
đạo Phật. Ngôi chùa
xuất hiện trong
văn chương chữ Quốc ngữ ở ĐBSCL qua những câu ca dao, dân ca như:
Dù có đi đâu về đâu,
Tháng giêng hai chín nhớ câu hội về.
Trà Ôn -
Phước Hậu chùa quê,
Dâng hương tưởng nguyện niệm lời kinh tâm.
Ngoài việc
gắn liền với lễ hội,
hình ảnh ngôi chùa ở
Nam Bộ còn
gắn liền với đời sống lứa đôi, trai gái:
Tay bưng quả nếp vô chùa,
Lâm râm
lạy Phật xin bùa em đeo.
Người
Nam Bộ xưa vốn
bản tính thiết thực, đến chùa không phải để
tìm hiểu giáo lý cao siêu, không cầu mong
sự giải thoát xa vời mà chỉ cầu mong những gì
liên hệ trực tiếp và
thiết thực nhất đối với
đời sống của mình. Do đó, việc đến chùa “xin bùa em đeo” là một
việc làm phản ánh tính
thiết thực ấy của người dân
Nam Bộ. Hành động này chỉ là cái cớ nhằm
bộc lộ tình cảm lứa đôi mà thôi. Điều này, người ta cũng rất thường thấy ở một số các câu ca dao, dân ca khác:
“Sông bên đây, anh lập cảnh chùa Tân Thiện,
Sông bên kia, anh lập cái huyện Hà Đông…
Bạn mình ơi, chim kêu dưới suối trên nhành.
Qua không bỏ bậu bậu đành bỏ qua!”
Rõ ràng việc lập chùa ở đây chỉ là một cách nói
quen thuộc chứ không
nhất thiết là một
việc làm cụ thể. Đó là cách người con trai
ràng buộc người con gái trong cái nghĩa, cái tình mà anh ta từng
vun đắp. Điều này còn
thể hiện ở nhiều câu ca dao khác:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa
Châu Thới mới
sai lời nguyền.
Đây là một dị bản của câu ca dao: Bao giờ cạn lạch Đồng Nai / Nát chùa
Thiên Mụ mới
sai lời nguyền. Cho dù là dị bản, nhưng nó
vẫn có một điểm chung
nhất định, chính là dấu ấn của ngôi chùa trong
tâm thức cộng đồng. Câu ca dao đã nhắc tới ngôi chùa
Châu Thới - một ngôi chùa
nổi tiếng thuộc đất Bình Dương ngày nay. Trước đây, khi viết Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã từng xem ngôi chùa này là một trong những
thắng cảnh nổi tiếng của đất Gia Định xưa.
Về loại hình
văn chương,
hình ảnh ngôi chùa được
phản ảnh hết sức phong phú và đa dạng với nhiều thể loại khác nhau như trong
thi ca có: Vãng
Thích Ca Phật Đài của
tác giả Phạm Thái Dũng; Về phía của
tác giả Hạnh Phương. Trong tiểu thuyết,
hình ảnh ngôi chùa cũng từng được các nhà văn
Nam Bộ phản ánh khá nhiều.
Tuy nhiên ở thể loại này, ngôi chùa chủ yếu được
phản ảnh như là một
không gian tâm linh gắn bó với
đời sống con người. Trước hết có thể kể tới
hình ảnh ngôi chùa trong tiểu thuyết Người bán ngọc (1931) của Lê Hoằng Mưu,
tác phẩm Tiền bạc bạc
tiền của Hồ Biểu Chánh; Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Hòn Đất của Anh Đức... Mặc dù không phản ánh nhiều và sâu, thậm chí chỉ nhắc đến một cái tên “xóm chùa” nào đó trong Hòn Đất của Anh Đức, nhưng điều đó cũng ít nhiều cho thấy, trong chiều sâu
tâm thức của người dân
Nam Bộ, ngôi chùa là một cái gì đó rất
thiêng liêng, rất gần gũi,
gắn bó với
cộng đồng.
Truyện ngắn, tùy bút,
bút ký có: Củi mục trôi về của
tác giả Nguyễn Ngọc Tư; Giao thừa
cửa Phật của Nhật Tuấn, Về chùa của Quán Như, Những buổi chiều
thơ ấu của Hoàng Thị Giang, Lần đầu tiên tôi lên
chùa của
Huệ Thành; ở thể loại
bút ký có một số
tác giả,
tác phẩm như:
Minh Phương với
tác phẩm Một chuyến du xuân về Tây
Nam Bộ,
Trần Thế Vinh với Năm non bảy núi ở miền Tây
Nam Bộ,
Trần Thế Vinh với
Lễ hội và vía Bà Chúa Xứ núi Sam, Hồ Kiên Giang với Bồng bềnh Tân Lộc, Sơn Nam với Sài Gòn xưa -
Ấn tượng 300 năm và tiếp cận với Đồng bằng Sông
Cửu Long... Trong số các
tác giả này, có lẽ nhà văn Sơn Nam được xem là cây viết
tiêu biểu nhất viết về ngôi chùa và
sinh hoạt Phật giáo ở đất
Nam Bộ...
Qua đó, cho thấy, ngôi chùa là một
thực thể sinh động, có khả năng tạo nên
cảm hứng phong phú cho
đời sống tinh thần xã hội, trong đó có
sinh hoạt nghệ thuật
văn chương;
đồng thời cũng
chứng tỏ sự gần gũi, gắn kết của nó trong
tâm thức cộng đồng suốt chiều dài
lịch sử.
Như vậy,
Phật giáo ĐBSCL đã được
văn hóa hóa
trở thành văn hóa Phật giáo trong nền
văn hóa nước nhà.
Nghiên cứu đạo đức Phật giáo để
nhận thấy sự hình
thành nhân cách,
đạo đức con người ĐBSCL trong
thời đại hiện nay. Sự
ảnh hưởng của
Phật giáo thấm sâu vào người dân ĐBSCL. Không chỉ riêng gì dân tộc Việt, các tộc người khác trong
cộng đồng các dân tộc anh em cũng thấy rõ
ảnh hưởng của
Phật giáo trong đời sống
văn hóa, nhất là trong lĩnh vực
tinh thần của
con người.
Là người dân ĐBSCL, từ lúc bé
cho đến lớn ai cũng đều nghe
tiếng chuông chùa hoặc tiếng kinh, tiếng mõ của nhà chùa.
Hình ảnh mái chùa từ nhỏ đã thấm vào mỗi
con người ĐBSCL nên trong nhiều phong tục tập quán của ĐBSCL và một số dân tộc khác chịu
ảnh hưởng Phật giáo; thậm chí đến mức hòa nhập thành tập quán
trong đời sống thường ngày như việc
đi chùa lễ Phật, cúng mồng một, ngày rằm, ngày Tết tại chùa và
bàn thờ gia tiên. Những dịp
lễ hội như ngày
Phật đản, ngày Vu lan
báo hiếu,
Tết Trung thu hoặc ngày lễ Tết của dân tộc… người dân đến chùa để
cầu nguyện phục thiện và
cầu an cho
gia đình. Ngoài việc
đi chùa cầu an, người dân còn dâng
cúng tổ tiên
thể hiện lòng
tôn kính, tạo nên nét đẹp
văn hóa của dân tộc... Chùa là nơi để
thờ Phật, là chốn
linh thiêng,
thanh tịnh để
tín đồ,
Phật tử mỗi tháng hai lần
dâng hương đăng hoa trà quả
lễ Phật. Trước kia, những sản vật dâng lên
cúng Phật xong thường được đem phát chẩn cho người
nghèo khó. Như vậy, ngôi chùa
truyền thống có
ý nghĩa nhân văn rất lớn. Hiện nay,
Phật giáo ĐBSCL nói riêng và nước ta nói chung vẫn
thực hiện được điều này góp phần cùng
xã hội làm tốt công
việc từ thiện,
nhân đạo để lại
thiện tâm cho
chúng sanh hướng đến
cửa Phật.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị - xã hội vùng ĐBSCLĐất nước hùng cường thì
Phật giáo hưng thịnh; khi Tổ quốc
lâm nguy,
Phật giáo sẵn sàng đứng lên
tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành lại
độc lập cho dân tộc. Khi đất nước hòa bình,
Phật giáo lại cùng toàn dân
tích cực tham gia xây dựng cuộc sống thông qua
hoạt động răn dạy
tín đồ,
Phật tử phát huy
truyền thống yêu nước thương nòi, trau dồi
đạo đức,
giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc
lịch sử Việt Nam nói chung và
lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng đã
chứng minh những đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng nước, giữ nước và
bảo vệ Tổ quốc của
Phật giáo. Qua nhiều
triều đại phong kiến ở nước ta, nhiều vị vua quan là
Phật tử với sự
hiểu biết Phật pháp nên đã vận dụng những
tinh hoa trong
tư tưởng, triết lý của
đạo Phật phục vụ cho công cuộc
xây dựng đất nước ngày càng
cường thịnh.
Đạo từ đời mà có và đạo lại
đi vào đời để giúp cho đời đơm hoa kết trái. Theo đó,
đạo Phật không tách rời cuộc sống
con người nên giữ đạo để làm đẹp cho đời là
hạnh nguyện của
Phật tử.
Thực tế,
Phật giáo đã
thích ứng với mọ i
hoàn cảnh lịch sử và
văn hóa của dân tộc, hòa nhập cù ng dân tộc, thân thương với
con người cùng
thiên nhiên; góp phần
xây dựng sự đoàn kết,
hòa hợp dân tộc.
Điểm lại
lịch sử cho thấy,
Phật giáo Việt Nam nói chung và
Phật giáo vùng ĐBSCL nói riêng đã
thể hiện tinh thần tự chủ,
độc lập,
anh dũng của dân tộc;
đồng thời khẳng định
tinh thần gắn liền
đạo pháp với dân tộc của
Phật giáo Việt Nam. Phát huy
truyền thống quý báu đó, trong hai cuộc kháng chiến
trường kỳ anh dũng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược của
nhân dân ta,
Phật giáo đã có những đóng góp xứng đáng vào
thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Nhiều chùa chiền, tịnh viện là cơ sở
cách mạng, nuôi giấu,
cưu mang những chiến sĩ
cách mạng. Nhiều
nhà sư cũng đã tạm gác
áo cà sa tham gia chiến đấu chống ngoại xâm, góp phần làm nên
thắng lợi chung của cả dân tộc. Sau chiến tranh, các
nhà sư lại
cùng chung sức,
đồng lòng để
hoằng dương Phật pháp,
lợi lạc quần sinh, góp phần cùng toàn dân khắc phục
hậu quả nặng nề của chiến tranh
ác liệt do ngoại xâm gây ra. Nhiều
nhà sư đã
xuất gia nhưng vẫn
nhập thế để giúp đời, giúp nước, giúp dân bằng
trí tuệ,
hiểu biết của mình.
Đúng như trong Diễ n văn khai mạc Đạ i lễ Phậ t đả n Liên Hợp Quốc (Vesak) năm 2008 tạ i Hà Nộ i vào ngà y 14-5-2008, nguyên Chủ tị ch nướ c Nguyễ n Minh Triế t đã khẳ ng đị nh: “...
đạo Phật là
tôn giáo có mặt rất sớm, từ gần 2.000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với
tư tưởng từ bi,
hỷ xả,
Phật giáo đã được
nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn
đồng hành cùng dân tộc với
phương châm nhập thế,
gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì
hạnh phúc và an vui cho
con người. Trong các
thời đại, thời nào
lịch sử Việt Nam cũng
ghi nhận những
nhà sư đại đức,
đại trí đứng ra giúp đời
hộ quốc an dân”.
Trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển,
Phật giáo ĐBSCL đã có những đóng góp không nhỏ cho đất nước, hòa bình và
an lạc.
Phật giáo vùng ĐBSCL ngày càng
trưởng thành và phát triển
vững chắc, thu được những
thành tựu Phật sự quan trọng trên mọi lĩnh vực.
Hệ thống tổ chức của
Giáo hội được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở và phát triển khắp cả vùng với hơn 4 triệu
Tăng Ni và
Phật tử; hàng trăm chùa chiền,
tự viện được
trùng tu, tôn tạo
đẹp đẽ. Công tác
giáo dục có nhiều
chuyển biến rõ nét, đổi mới cả về nội dung và
hình thức;
hệ thống giáo dục được
mở rộng, các cơ sở
đào tạo tăng ni từ sơ cấp đến
đại học được
củng cố và
xây dựng khang trang,
đảm bảo cho hàng nghìn
Tăng Ni sinh học tập với 1 Học viện
Phật giáo, 01 trường trung cấp và hàng chục cơ sở
đào tạo sơ cấp, nhiều Tăng, Ni có học vị
thạc sĩ,
tiến sĩ.
Phật giáo vùng ĐBSCL hàng năm cử hàng chục học viên xuất sắc đi học tại nhiều trường
đại học ở nước ngoài, như:
Đại học New Dheli (
Ấn Độ),
Đại học Phật giáo Truyền giáo Nam tông Quốc tế Yangon (Myanmar),
Phật Quang Sơn (
Đài Loan),…
Về
hoạt động nghi lễ thu hút đông đảo
tín đồ,
Phật tử tham dự như:
Đại lễ Phật đản, mùa Vu lan báo hiếu… Với
phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc -
Chủ nghĩa xã hội”, trên
tinh thần tri ân,
báo ân của người con Phật được
gắn liền với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc
Việt Nam,
Phật giáo ĐBSCL đã hướng dẫn
Tăng Ni,
Phật tử các chùa,
tịnh xá,
tịnh thất,
niệm Phật đường cử 9 hồi
đại hồng chung vào Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 hàng năm.
Hoạt động văn hóa được
quan tâm: Hàng ngàn
bản kinh sách được in hằng năm nhằm
đáp ứng nhu cầu của
tín đồ, góp phần làm cho
báo chí được
nâng cao cả về chất lượng và số lượng như các tờ:
Giác Ngộ,
Nghiên cứu Phật học,
Khuông Việt, Trang thông tin điện tử.
Đặc biệt là Báo Khmer ngữ Cần Thơ phát hành 1 kỳ/tuần với 6.000 tờ. Tới đây tăng 2 kỳ/tuần với 8.000 tờ/kỳ. Trong lĩnh vực hoằng dương
Chính pháp,
Giáo hội thường xuyên tổ chức các đoàn đi
thuyết pháp ở nhiều nơi; thông qua việc
truyền bá triết lý và
thực hành giáo lý Phật giáo để
xây dựng đạo đức tốt đẹp,
duy trì bản sắc
văn hóa dân tộc, góp phần
giảm bớt tiêu cực và tệ nạn
xã hội; hướng dẫn
tín đồ tu tâm dưỡng tính, làm những
việc thiện, tránh những việc ác, biết
thương yêu đùm bọc lẫn nhau
thể hiện đức tính
tốt đẹp của những người con Phật. Thông qua đó nhằm giúp
con người tránh
vô minh,
chế ngự dục vọng, lòng
tham lam để mang lại sự
sáng suốt,
an lạc,
hạnh phúc và sẵn sàng làm
mọi việc vì nước, vì dân, vì
cộng đồng, góp phần ổn định
xã hội.
Hoạt động từ thiện,
nhân đạo của
Phật giáo ĐBSCL đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng.
Đến nay hầu hết các chùa
Bắc tông và 30% chùa
Nam tông có phòng chẩn trị y học dân tộc, bốc thuốc Nam, hàng năm khám và phát thuốc
miễn phí cho hàng chục ngàn lượt người với trị giá hàng chục tỷ đồng.
Ngoài ra, còn
tham gia nhiều
hoạt động nhằm chia sẻ khó khăn với
cộng đồng, như mở các lớp học
tình thương nuôi dạy trẻ em khuyết tật,
mồ côi, trẻ bị
ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin; chăm sóc những người già không
nơi nương tựa,
tư vấn và
nuôi dưỡng những người bị nhiễm HIV/AIDS, hiến máu
nhân đạo; tặng xe chuyển bệnh
từ thiện, tặng nhà tình nghĩa, hỗ trợ đồng bào bị
thiên tai, lũ lụt và nhiều những
việc làm nhân văn sâu sắc khác… Chỉ tính riêng trong năm 2012, số tiền làm công tác
từ thiện,
nhân đạo đã lên tới trên 300 tỷ đồng.
Với
phương châm “Đạo pháp - Dân tộc -
Chủ nghĩa xã hội”,
Phật giáo vùng ĐBSCL đã
đồng hành cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi mới trong
tinh thần hòa hợp, đoàn kết và với
phương châm “phụng đạo, yêu nước”.
Phật giáo ĐBSCL đã
quan tâm hướng dẫn
tín đồ,
Phật tử sinh hoạt theo đúng
Chính pháp, góp phần
xây dựng cuộc sống
lành mạnh cho người dân; Các
hoạt động của nhà chùa và
giáo lý nhà Phật không ngoài
mục đích “Phụng sự
chúng sinh tức
cúng dường chư Phật”
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của
Tăng Ni,
Phật tử nên đã tạo thành sức sống mãnh liệt, là nguồn cổ vũ lớn lao cho
tăng ni,
Phật tử ở trong vùng, trong nước và ngoài nước
tin tưởng vào đường hướng
hành đạo của
Phật giáo, góp phần làm cho
Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh trong lòng dân tộc. Đó là
thể hiện tinh thần Phật giáo Việt Nam luôn
duy trì và phát huy
truyền thống từ ngàn xưa, theo lời dạy của
đức Phật thực hiện lý tưởng hoằng dương Chánh pháp, phụng đạo giúp đời; vừa đẩy mạnh
hoạt động Phật sự, vừa
tích cực tham gia hoạt động xã hội vì cuộc sống
an lạc của
con người không ngoài
mục đích “Phụng sự
chúng sinh tức
cúng dường chư Phật”.
Phật giáo vùng ĐBSCL luôn
kiên định đường hướng
hoạt động, tuyên truyền,
vận động Tăng Ni,
Phật tử tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, đóng góp sức người và sức của cho
sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh với các lực lượng
lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết
tôn giáo ở
Việt Nam.
Ngoài ra, còn
tăng cường tham gia các
hoạt động đối ngoại nhằm làm cho
Phật giáo các nước hiểu được những
thành tựu của
Phật giáo Việt Nam và chính sách của Nhà nước đối với
tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng;
đồng thời còn góp phần làm cầu nối giữa
Tăng Ni,
phật tử, kiều bào
Việt Nam ở nước ngoài thông qua các
hoạt động Phật giáo, quy tụ
cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc.
III. ĐÔI LỜI KẾT LUẬNQua ba trăm năm phát triển và
cống hiến của mình,
Phật giáo ở
Nam Bộ đã
trải qua nhiều
biến động tự thân cũng như nhiều
thăng trầm lịch sử.
Tuy nhiên vẫn luôn mang trong mình
ý nghĩa của sự
kế thừa một cách
sáng tạo truyền thống Tam giáo hòa đồng
lâu đời của dân tộc trên vùng đất mới, một
yếu tố tích cực kích thích Phật giáo ở ĐBSCL phát triển mạnh hơn trên
con đường Phật pháp bất ly
thế gian giáo.
Con đường mà từ Phật
Thích Ca đến các
Phật tử chân chính đều hướng tới khuyến khích
con người theo cái thiện, loại trừ cái ác.
Phải chăng con người ĐBSCL sẵn có lòng
khoan dung,
đức độ,
nhân ái, khi gặp được
đạo Phật với triết lý
tư tưởng gần gũi với dân tộc nên được đón nhận mạnh mẽ và
trở thành một trong những
tôn giáo lớn tại ĐBSCL. Chính điều này đã được
lịch sử vùng đất
chứng minh về
vai trò và
ảnh hưởng của
Phật giáo trong
sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm và
xây dựng đất nước.
Đạo đức Phật giáo được
sử dụng trở thành chuẩn mực về
đạo đức con người ĐBSCL,
ảnh hưởng sâu sắc đến
quần chúng nhân dân và họ đã
lựa chọn cho mình một
tôn giáo phù hợp với
điều kiện tu hành,
phù hợp với
lối sống,
văn hóa dân tộc
đồng thời cũng mang bản sắc
văn hóa vùng ĐBSCL - Đó là
tu hành nhưng vẫn
nhập thế giúp đời, hộ nước an dân.
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Đào Duy Anh –
Việt Nam văn hóa sử cương, NXB
Thời đại 2010;
2.
Phật giáo GS. TS Đặng
Hữu Toàn (Chủ biên), Các nền
văn hóa thế giới, Tập 1 Phương Đông, NXB Từ điển Bách khoa 2011;
3. Học viện
Báo chí và Tuyên truyền,
Khoa Văn hóa và Phát triển,
Lịch sử văn minh thế giới (
Lưu hành nội bộ 2009);
4. Phan Ngọc - Bản sắc
văn hóa Việt Nam, NXB
văn học 2002;
5. TS. Đỗ Minh Hợp, TS. Đỗ
Anh Tuấn, TS Nguyễn Thanh, ThS Lê
Hải Thanh -
Tôn giáo lý luận xưa và nay, NXB Tổng hợp TP.HCM -2005;
6. Trường
Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn -
Trung tâm Nghiên cứu tôn giáo đương đại -
Văn hóa tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB
Tôn giáo 2010;
7. GS.TS Lê Hữu Nghĩa, TS Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ biên) -
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về
tôn giáo và công tác
tôn giáo, NXB
Tôn giáo 2003;
8. Nguyễn Đức Sự - Mác, Ănghen về
tôn giáo, NXB
Tôn giáo 2003;
9. Gia Lộc,
Văn hóa chùa, NXB
Văn hóa thông tin 2009.
10. Lê Mạnh Thát,
Nghiên cứu về
Mẫu Tử, tập 1,
Tu thư Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1982.
11. Xem Nguyễn Khoa Chiêm: Nam Triều
công nghiệp diễn chí, Sở Văn hoá Thông tin xuất bản, Huế, 1986.
12.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb
Giáo dục, 2004.
13 Nguyễn Lang,
Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, Nxb
Văn Học, Hà Nội, 1992.
14. Ian. P.McGreal, Những
tư tưởng gia vĩ đại phương Đông, NXB Lao động 2005.
15.
Báo cáo của Ban
Chỉ đạo Tây
Nam Bộ từ năm 2006 đến 2012.