Đạo Phật: Con Đường Tiến Hóa Của Nhân Loại

20/05/20235:24 SA(Xem: 2430)
Đạo Phật: Con Đường Tiến Hóa Của Nhân Loại

blank
kinh mung phat dan

ĐẠO PHẬT: CON ĐƯỜNG TIẾN HÓA CỦA NHÂN LOẠI
Nguyễn Thế Đăng

 

1/ Lịch sử nhân loại hướng đến sự toàn thiện

Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến đời sống thực vậttiến hóa lên sinh vật và cuối cùng, trên trái đất này là con ngườitrí khôn (homo sapiens).

Cuộc cách mạng nông nghiệp của homo sapiens xảy ra cách đây 12.000 năm. Cuối cùng cuộc cách mạng khoa học xảy ra cách đây 500 năm và cho đến con người hiện đại. Những con người hiện đại chúng ta so với cách đây 1.000 năm, chúng ta đã tiến bộ rất nhiều về vật chất, tiến bộ nhiều về kiến thức, nhưng về những đức tính của con người cao cả, những trí huệ, tình thương, sự tự chế, kỷ luật tinh thần để thoát khỏi những tính xấu mang gốc rễ thú vật như tham lam, hiếu chiến, nóng giận, tranh dành, đố kỵ, mâu thuẫn trong tự thân… thì quả thật còn cần tiến hóa thêm nhiều nữa. Nói chung, con người vẫn chưa hoàn tất.

Chính vì lẽ ấyđạo Phật vẫn có mặt trong đời sống hiện đại mặc dầu đã xuất hiện cách đây 2.600 năm, và vẫn tiếp tục phát triển ở cả vùng đất ‘cũ’ là phương Đông và vùng đất ‘mới’ là phương Tây. Đạo Phật là một con đường đưa con người đến sự hoàn thiện của chính con người. Con đường ấy không chỉ bắt đầu bằng Đức Phật và những bậc thánh đệ tử của ngài, mà còn trải dài và mở rộng theo lịch sử nhân loại với rất nhiều những bậc thánh đệ tử khác ở các thời đại và ở các quốc gia khác nhau.

 

2/ Khổ chính là sự bất toàn của con người.

Sự thật đầu tiên trong Bốn chân lý cao cả là Khổ (Khổ đế). Khổ (một nghĩa của khổ là “bất toại nguyện”) nói lên sự bất toàn, còn thiếu sót, còn khuyết điểm của con người. Chúng ta lo âu, nóng nảy, quyết định sai, gây đổ vỡ không đáng có, nông nổi, thiếu kiên nhẫn, phiền muộn cần giải trí, không an tâm, luôn luôn tìm kiếm, nắm bắt…, tóm lại tất cả những thứ được gọi là phiền não, nói lên sự thiếu sót, chưa hoàn hảo của con người mình.

Tiếp theo, sự thật thứ hai là nguyên nhân của khổ (Tập đế). Nguyên nhân của khổ, phiền não, bất an, loạn động, mâu thuẫn trong tự thân,… chính là sự thiếu sót, chưa hoàn hảo của mỗi chúng ta. Sự chưa hoàn hảo, chưa hoàn thiện của chúng ta khiến các phiền não sanh khởi và chúng lọt vào để khuấy đảo tâm.

Sự thật thứ ba là khi tâm hết phiền não, không còn phiền não (Diệt đế). Diệt đế là sự tịch diệt của tâm, vì bản tánh của tâm vốn tịch diệt, không có phiền não nào chạm đến được. Sự tịch diệt vốn có của bản tánh của tâm cũng chính là sự thanh tịnh vốn có của bản tánh của tâm. Không có phiền não khổ đau nghĩa là không còn sanh tử khổ đau, và nói một cách rốt ráo, sự thật rốt ráo là “chưa từng có sanh tử khổ đau”.

Tất cả mọi tông phái đạo Phật, tất cả mọi pháp tu đều có mục đích đạt đến Diệt đế, tức là sự tịch diệt, sự thanh tịnh vốn sẵn của bản tánh sâu xa của tâm. Dù cho mọi pháp môn, mọi đường lối thực hành bề ngoài có vẻ khác nhau, dùng những ngôn ngữ chuyên môn khác nhau, nhưng tất cả đều quy về Diệt đế, tức là sự vắng bặt tất cả những phiền não khổ đau của tâm, sự thanh tịnh vốn không có phiền não của tâm.

Sự thật thứ tư là con đường bao gồm những phương pháp, những đường lối (Đạo đế) để đạt đến Diệt đế, sự bình an vĩnh viễn của tâm.

 

3/ Con đường từ ngàn xưa và mãi mãi về sau cho đến ngày nào nhân loại hết phiền não, hết khổ đau.

Con đường Phật giáo không nằm riêng ở một vùng nào, một phương nào mà trùm khắp ba cõi, nơi nào có chúng sanh bất toàn và phiền não khổ đau. Con đường này khởi phát từ sự giác ngộ của Đức Phật và được bảo trì gìn giữ, trên căn bản “bất biến tùy duyên”  bằng những vị thánh tiếp nốimở rộng ra với thế giới. Con đường này không chỉ đi cùng lịch sử mà còn dẫn dắt lịch sử. Con đường ấy dẫn dắt loài người đến sự thành tựu tối hậu, sự hoàn thiện tối hậu, vinh quang tối hậu của con người.

Mỗi người Phật tử chúng ta, dù chỉ là những người bình thường đều có thể đóng góp vào sự sống của con đường bằng sự thực hành nhỏ bé của mình. Chẳng hạn, mỗi khi tụng kinh xong, ngồi thiền xong, chúng ta đều đọc:

Nguyện đem công đức này

Đến khắp cùng tất cả

Đệ tửchúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.

Như thế tức là chúng ta đóng góp chút ít vào sự sống và sự phát triển của con đường giải thoátgiác ngộ. Chúng ta cần ý thức rõ ràng rằng chỉ một ý nghĩ tốt lành, một hành vi tốt lành, một hơi thở tốt lànhchúng ta đã đóng góp một phần rất nhỏ vào sự bảo trì và phát triển của con đường mà theo kinh điển là “tốt lành ở giai đoạn đầu, tốt lành ở giai đoạn giữa, và tốt lànhgiai đoạn cuối cùng”. 

 







Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
10/05/2018(Xem: 12287)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :