DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 28
KHÔNG LÀM CÁC ĐIỀU ÁC, LÀM CÁC VIỆC LÀNH
(Nghe audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa quý thính giả,
Trong chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi kính gửi tới quý vị một giai thoại Thiền có liên quan đến thi hào Bạch Cư Dị, một nhà thơ danh tiếng và một vị sư Phật giáo có biệt danh là Ô Sào về một bài kệ tiêu biểu, nói lên những điều cốt tủy của nhà Phật.
Thời nhà Đường bên Trung Quốc là một thời đại cực thịnh về văn chương thơ phú. Trong số tác giả có những đại thi hào mà quý vị có lẽ cũng đã thưởng thức các tác phẩm của họ như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, vân vân.
Bạch Cư Dị, tự là Lạc Thiên, đậu tiến sĩ năm mới 27 tuổi, tính tình phóng khoáng, cương trực, nên những khi bàn bạc việc nước trong triều, ông thường làm phật lòng vua và các quan, đã thế, mỗi khi thấy có việc oan khuất là xen vào giúp đỡ, đem lòng ngay thẳng để can gián vua mỗi khi thấy vua sai lầm. Ông thường nói thẳng những điều ông thấy cần phải nói, cho nên vì thế mà có nhiều kẻ thù hãm hại, xàm tấu, khiến cho đường công danh cứ bị thăng trầm, có lần bị đầy ra tận Giang Châu làm chức quan tư mã. Thời gian này đã khiến ông tức cảnh sinh thơ. Trong một đêm trăng nằm trên thuyền nơi bến Tầm Dương, vẳng nghe tiếng đàn tỳ bà vọng lại, hỏi ra mới biết khúc đàn buồn mênh mông vọng ra từ chiếc thuyền đậu gần bên, được gẩy lên từ ngón tay điêu luyện của một kỹ nữ nổi danh xuân sắc một thời, nay về già đành trôi qua ngày tháng bên người chồng lái buôn ham tiền bạc hơn nghệ thuật, quanh năm bôn ba xa xôi, để nàng buồn bã nơi bến sông nhớ về quá khứ. Nhà thơ chạnh nghĩ tới hoàn cảnh mình bị giáng chức đầy ra nơi quê mùa hẻo lánh, tối ngày chỉ nghe tiếng chim kêu vượn hú, còn đâu những cảnh "khi xem hoa nở khi chờ trăng lên" khi xưa, cùng bằng hữu đàn ca thơ phú nơi Đế kinh ngày nào! Chạnh nghĩ tới nỗi niềm hiu quạnh nơi người, nơi mình, nhà thơ cảm tác bài Tỳ Bà Hành mà mỗi dòng, mỗi câu đều gợi lên nỗi buồn mang mang day dứt, len lén đi sâu vào lòng người, rất được giới văn nghệ Việt Nam thưởng thức.
Trong
một buổi dạo chơi, Bạch Cư Dị, lúc đó đang làm chức
quan Thứ Sử, đi ngang qua một cây đại thụ, thấy vắt vẻo
trên cành cao là một vị tăng ngồi trong cái vòm giống như
cái tổ chim. Vị tăng này có biệt danh là Ô Sào thiền sư
, ô sào nghĩa là cái tổ quạ.
Thấy
lạ, Bạch Cư Dị ngẩng lên hỏi:
- Sao Sư ngồi chỗ chênh vênh nguy hiểm thế?
Ô Sào thiền sư nói vọng xuống:
- Chỗ đại quan ngồi còn nguy hiểm hơn.
Quan Thứ Sử nhìn lại chiếc kiệu của mình đang ngồi, ngạc nhiên:
- Chỗ tôi đang ngồi có gì đáng ngại đâu?
- Thưa, chỗ của đại quan là ở dưới vua mà trên các quan và trăm họ, vua thương thì quần thần ghét, được lòng dân thì mất lòng vua. Tính mạng của đại quan cùng thân quyến đều lệ thuộc vào lòng yêu ghét của vua, sự tật đố tỵ hiềm của bạn bè. Một chiếc ghế được kê trên đầu lưỡi của thiên hạ thì làm sao bì được với sự cứng chắc của cội cây này, phải không ạ?
Nhà thơ nghe vị thiền sư nói thì lẩm nhẩm gật đầu rồi lại cất tiếng hỏi:
- Sư
nói cũng có lý, vậy Sư có thể dùng một câu ngắn gọn mà
tóm tắt được tinh hoa của Phật pháp chăng?
Thiền
sư Ô Sào thủng thẳng:
"Chư ác mạc tácNghĩa là:
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo."
Không làm các điều ácBạch Cư Dị trả lời:
Vâng làm các việc lành
Thanh tịnh hoá tâm ý
Đó là lời Phật dạy.
- Những lời ấy thì đứa con nít lên ba cũng nói được.
Thiền sư mỉm cười:
- Tuy con nít lên ba nói được nhưng ông lão tám mươi chưa chắc làm được đâu ạ.
Sau này Bạch Cư Dị thường tới lui đàm đạo với các tu sĩ Phật giáo, tự xưng là Hương Sơn cư sĩ, từng thổ lộ tâm sự với bằng hữu là :"Tâm tôi nhàn nhã nơi nhà Phật, chân tôi ngao du chốn Lão Trang".
Ông cũng làm bài thơ nói về chí hướng của mình như sau:
Ta bảy mươi mốt tuổiLời nhắc nhở của Hương Sơn cư sĩ tức Bạch Cư Dị rằng phải siêng năng niệm A Di Đà chính là lời khuyến tấn chư Phật tử thực hành lời dạy thứ ba của đức Phật là "Tự tịnh kỳ ý" vậy.
Chẳng ham việc ngâm nga
Coi kinh mỏi con mắt
Làm phước sợ bôn ba
Lấy chi độ tai mắt
Cứ niệm A Di Đà
Đi niệm A Di Đà
Ngồi niệm A Di Đà
Dẫu việc chi gấp rút
Chẳng lìa câu Di Đà
Khuyên chúng trong pháp giới
Đồng niệm A Di Đà
Muốn thoát luân hồi khổ
Phải niệm A Di Đà.
Thưa quý thính giả,
Như thế, giáo lý của nhà Phật có thể tóm gọn trong ba mục tiêu tu hành như sau:
Thứ
nhất là chấm dứt tạo tác các việc xấu ác
Thứ
hai là siêng năng tận tụy làm các việc lành thiện
Thứ
ba là hành trì các pháp môn tu để cho tâm thức được đạt
tới cảnh giới thanh tịnh tịch tĩnh.
Chấm dứt làm các việc xấu ác và siêng làm các việc tốt lành là mục tiêu của hầu hết các tôn giáo và luôn cả các nền giáo dục, các chính phủ của các quốc gia trên trên giới, chuyện đó thì ai cũng đồng ý rồi. Duy có sự phân biệt thế nào là xấu ác và thế nào là tốt lành thì các tôn giáo và các quốc gia trên thế giới lại có một số ý kiến khác nhau, tùy theo các nền văn hóa khác nhau, có những điều mà ở thời buổi này, tôn giáo này, xã hội này cho là điều lành thì ở thời buổi khác, tôn giáo khác và xã hội khác lại cho là điều xấu ác. Thí dụ một phụ nữ sống tại một quốc gia nào đó bên Trung Đông chẳng may bị cưỡng hiếp, đối với các nước Tây Phương, người đàn ông gây nên thảm kịch sẽ bị kết án nặng nề. Nhưng theo quan điểm của người dân tại nước Trung Đông này thì nạn nhân lại có thể bị buộc tội là vì đã "không giữ gìn cẩn thận bản thân để đến nỗi chuyện xấu xảy ra"! Hoặc ở một số quốc gia Tây Phương thì dù người đàn bà ngoại tình đang bị đưa ra toà xin án lệnh ly dị vẫn không bị buộc tội, trái lại, ở xứ một số quốc gia Trung Đông thì người đàn bà ngoại tình sẽ bị tội tử hình. Trong khi đó thì về vấn đề đa thê, hiện nay trên thế giới vẫn còn một số quốc gia cho là hợp lý, thì trong khi đó tại một số quốc gia Tây Phương thì đa thê lại là hành vi phạm pháp. Cho nên định nghĩa tốt xấu trong thế gian cũng chỉ tương đối mà thôi.
Theo quan điểm của nhà Phật thì nội dung của Năm Giới cấm đã phân biệt rõ ràng ra thế nào là tốt lành và xấu ác. Giữ gìn không vi phạm, sống một cuộc đời chân thật, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không bị mê muội vì các chất men say và cần sa, ma túy, không điêu ngoa dối trá, nói lời thêu dệt, nói lời thô tục, chửi mắng người khác, v.v… là đã tránh được vấn đề làm điều xấu ác.
Trong bản kinh ngắn khi đức Phật dạy các hoàng tử Kalama, Ngài đã định nghĩa rõ ràng về những điều gì là điều lành (thiện) và những điều gì là điều không lành (bất thiện), như sau:
"Hành động gì có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, bị người trí chỉ trích, nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đem lại tâm khổ sở, tâm ưu phiền, hành động như vậy là hành động bất thiện, và chúng ta phải loại bỏ hành động ấy.Như thế, đối với đạo Phật, có thể nói, tiêu chuẩn để xác định lành thiện hay xấu ác căn cứ vào hai yếu tố là hạnh phúc và khổ đau. Hành động đem lại hạnh phúc cho chúng sinh là lành thiện và hành động gây khổ đau cho chúng sinh là xấu ác. Việc làm nào có lợi ích cho mình và cho người là lành thiện. Trái lại, nếu chỉ đem lại hạnh phúc cho cá nhân mình mà gây khổ đau cho chúng sinh khác là xấu ác.
Hành động gì không có hại cho mình, không có hại cho người, không có hại cho cả hai, được người trí tán thán, nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đem lại tâm an lạc, tâm hoan hỷ. Hành động như vậy là hành động thiện và chúng ta phải thực hành".
Là Phật tử, đi theo ngọn đuốc soi đường của đức Phật thì chúng ta phải triệt để thực hành lời dạy của Ngài, phải tránh gây khổ đau cho chúng sinh. Tôn trọng và bảo vệ sự sống của mọi loài hữu tình chúng sinh là việc lành thiện. Ngược lại, không tôn trọng và không bảo vệ sự sống của các loài hữu tình chúng sinh là việc xấu ác.
Chúng ta đã bàn về phần "tu là chuyển nghiệp", chuyển từ những hành động xấu ác tạo ra nghiệp xấu sang qua hành động lành thiện tạo ra nghiệp lành. Giai đoạn tu hành này có mục tiêu đào tạo nên những con người tốt lành để cùng sống chung với mọi người trong gia đình, xã hội, ngõ hầu cùng nhau xây dựng nếp sống lành mạnh trong một thế giới an vui, hòa bình, ổn định của đời sống tương đối tại thế gian.
Đạo Phật không ngưng lại ở đây. Điều cốt tủy mà đức Phật muốn trao truyền lại cho chúng ta nằm ở giai đoạn thứ ba, giai đoạn "Tự tịnh kỳ ý ", tự mình thanh lọc tâm ý cho nó hoàn toàn tịch tịnh, trong sáng, vượt lên trên cả Thiện và Ác, vượt ra khỏi vòng luân hồi quanh co trong sáu nẻo nơi tam giới.
Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy chúng ta phải vượt lên phạm trù đối đãi thiện ác như:
"Người sống ở đời nàyTại sao phải vượt lên trên cả Thiện và Ác?
Không nhiễm cả thiện ác
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi [là] Bà La Môn."
Ai vượt qua thiện ác
Chuyên sống đời Phạm Hạnh
Sống thẩm sát ở đời
Mới xứng danh Tỳ Kheo" .
Tại vì hành động thiện tạo ra thiện nghiệp, hành động ác tạo ra ác nghiệp, cả hai đều gây nhân tái sinh để hưởng phước báo tốt hoặc chịu quả báo xấu, cũng như sợi dây xích dù có bằng vàng thì cũng trói buộc chúng ta mà thôi. Còn có hành động là vọng tâm còn bay nhẩy, dòng suy nghĩ còn miên man không dừng, vòng luân hồi còn tùy theo nghiệp thiện ác mà trôi lăn miên viễn.
Chúng ta đã trôi lăn như thế từ vô lượng kiếp, chưa bao giờ có ai đánh thức, bảo cho biết là chúng ta có thể tỉnh lại.
Nhưng
từ sự Giác Ngộ của đức Phật, Ngài đã cho chúng ta biết
rằng chúng ta không phải chỉ là những con người nhỏ bé
với cả một cuộc đời bươi chải buồn nhiều hơn vui này
mà chúng ta có thể trở lại được Tự Tánh của ta, hiển
lộ được Trí Tuệ Bát Nhã, đạt được cảnh giới an lạc
thanh tịnh miên viễn, chấm dứt mọi khổ não, giác ngộ như
Phật.
Lịch
sử của đạo Phật đã nêu lên rằng có rất nhiều các vị
tu chứng, bừng tỉnh như đức Phật, hóa giải được cái
vọng tâm suy nghĩ liên miên bất tận như vượn như ngựa,
hoát nhiên hiển lộ được Tự Tánh, bản tâm chân thật,
chấm dứt mọi khổ não.
Trong cuốn Tạng Thư Sống Chết, thiền sư Sogyal Rinpoche viết về điều này như sau:
"Khi ta nói Phật, ta tự nhiên nghĩ đến thái tử xứ Ấn Gotama Siddhartha đạt giác ngộ vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, người đã giảng dạy con đường tâm linh mà hàng triệu người khắp Á châu noi theo, ngày nay gọi là Phật giáo. Tuy nhiên danh từ Buddha có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó có nghĩa là một con người, bất cứ người nào, đã hoàn toàn thức dậy từ giấc ngủ vô minh và mở mang tiềm năng trí tuệ bao la của mình. Một đức Phật là một người đã chấm dứt đau khổ và bất mãn, đã tìm ra một niềm bình an, hạnh phúc dài lâu bất tận.Nhưng đối với nhiều người trong thời đại hoài nghi này, thì trạng thái ấy có vẻ như một điều huyễn hoặc, mộng mị, hay một sự thành tựu hoàn toàn vượt ngoài tầm chúng ta. Điều quan trọng nên nhớ là, đức Phật đã từng là một con người như bạn và tôi. Ngài chưa từng tuyên bố là thần thánh gì cả, ngài chỉ biết ngài có Phật tánh, hạt giống của giác ngộ, và mọi người cũng đều có. Phật tánh là quyền sống của mọi chúng sinh, và tôi thường nói rằng Phật tánh nơi chúng ta cũng tốt như Phật tánh nơi bất cứ đức Phật nào. Đấy là tin lành mà đức Phật mang lại cho chúng ta từ khi ngài giác ngộ tại Bồ Đề tràng, nơi mà nhiều người sau đã tìm thấy nguồn cảm hứng thiêng liêng. Thông điệp của ngài đem lại cho ta một hy vọng tràn trề. Nhờ luyện tập, chúng ta cũng có thể đạt đến sự tỉnh thức. Nếu điều này không đúng, thì vô số người từ xưa cho đến ngày nay đã không giác ngộ.
Tương truyền khi Phật mới đạt giác ngộ, điều duy nhất ngài muốn làm là chỉ cho tất cả chúng ta Tự Tánh của tâm, san sẻ cho ta những gì ngài đã trực ngộ. Nhưng ngài cũng thấy, -- với nỗi đau buồn và lòng bi mẫn bao la-- rằng thật khó mà làm cho chúng ta hiểu được.
Vì mặc dù ta cũng có Tự Tánh của tâm như Phật, chúng ta không nhận ra nó được vì nó bị gói kín, bao trùm trong những cái tâm thông thường phàm tục của ta. Hãy tưởng tượng một cái bình trống. Khoảng không trong bình cũng giống hệt như khoảng không bên ngoài. Chỉ có những bức thành mong manh của cái bình đã ngăn cách không gian bên trong với bên ngoài. Tâm Phật trong ta bị vây kín trong những bức thành của tâm thông tục. Nhưng khi ta giác ngộ, thì cũng giống như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn. Khoảng không gian "bên trong" liền tan hòa ngay vào không gian "bên ngoài" . Cả hai trở thành một: Ngay lúc đó và tại chỗ đó, ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác; chúng vẫn luôn luôn là một."
Kính thưa quý thính gỉa,
Mùa Phật Đản đã qua và mùa Vu Lan báo hiếu sẽ đến. Khoảng thời gian giữa hai ngày lễ này là thời gian kiết hạ an cư của chúng tăng. Chúng ta là Phật tử tại gia cần nỗ lực hơn nữa trong việc làm thiện diệt ác, tuỳ theo khả năng của mỗi chúng ta, như bố thí những người nghèo khó, chia sẻ những bát cơm cho những người đói khổ, thăm viếng an ủi những người già cô đơn trong các viện dưỡng lão và phóng sinh các sinh vật trong lồng chậu, cùng là cúng dường trai tăng vào dịp chư Tăng hoàn mãn ba tháng an cư tu học để các tăng ni có phương tiện tu hành, để Phật Pháp trường tồn. Đó là chúng ta làm việc trong bổn phận của một cư sĩ tại gia, mang lại niềm an lạc cho chính chúng ta và cho chúng sinh khắp pháp giới. Ngoài ra, nếu có vị nào quyết tâm đi trên con đường "Tự tịnh kỳ ý" thì chúng tôi cũng xin được tùy hỷ công đức và cầu chúc quý vị sớm thành Phật đạo.
Ban Biên Tậpwww.thuvienhoasen.org
(Bài này đã được phát thanh ngày 18 tháng 6 tại Nam California và 19 tháng 6, 2005 tại Houston Texas)