DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 24
CÔNG ĐỨC DO TU HÀNH VÀ PHƯỚC ĐỨC DO BỐ THÍ
(Nghe audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa quý thính giả,
Hôm nay chúng tôi xin kính gửi tới quý vị một câu chuyện về "công đức do tu hành" và "phước đức do bố thí", câu chuyện có liên quan đến ngài Bồ Đề Đạt Ma, Sơ Tổ Thiền Tông Đông Độ.
Có lẽ một số Phật tử -- và ngay cả quý vị không phải là Phật tử -- cũng đã có dịp nghe nói về ngài, hoặc ít ra cũng đã từng trông thấy ngài trong hình ảnh một vị sư người Ấn Độ với bộ râu quai nón, đôi mắt xếch lên nhìn sâu thăm thẳm và vai vác một cây thiền trượng, đầu thiền trượng treo lủng lẳng một chiếc dép.
Khác với các hình tượng Phật và chư Bồ Tát, thường chỉ bầy hoặc treo trong chùa, tượng và hình ảnh ngài Bồ Đề Đạt Ma thì ngoài pho tượng treo nơi nhà Tổ trong chùa, còn xuất hiện rất phổ thông trong đời sống thế gian, có khi là ở những tranh treo trang trí trên tường, hoặc là trên những tấm lịch lụa, những bức mành sáo, quạt lụa, vân vân. . . Tại vì hình ảnh ngài đã đi sâu vào tâm khảm dân chúng, nhất là giới văn học Phật giáo, như là một biểu tượng của tự do khai phóng, với câu tuyên ngôn sấm sét khi ngài mới đặt chân lên đất Trung Hoa:
Không
lập văn tự
Truyền
ngoài giáo lý,
Chỉ
thẳng tâm ngưòi
Thấy
Tánh thành Phật.
Tại sao ngài lại ra một tuyên ngôn có vẻ mãnh liệt như thế?
Bởi vì khoảng thời gian đó là lúc mà kinh điển nhà Phật đã được truyền bá rộng rãi ở Trung Hoa. Các nhà trí thức say sưa nghiên cứu phần lý thuyết, đàm luận về những sự huyền diệu, thâm sâu, uyên áo, chẻ sợi tóc ra làm tư, coi Phật giáo như một môn triết học, phí bỏ mất phần cốt tủy của đạo Phật, là phần tu chứng với mục tiêu giải thoát được kiếp người ra khỏi những phiền não ràng buộc, giác ngộ lại Bản Thể, chấm dứt mọi đau khổ triền miên trong dòng sinh tử.
Nhận sứ mạng của sư phụ ủy thác, ngài Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa để đem ánh sáng giác ngộ chiếu vào miền đất thấm nhuần tư tưởng Lão Trang, lại được giáo lý nhà Phật khai tâm, đã có khả năng tiến vào con đường tự giải thoát của đạo Phật. Đồng thời cũng để xiển dương mặt tu chứng, giải tỏa bớt sự quá thiên về kinh điển mà không thực hành.
Vùng đất đầu tiên mà ngài Đạt Ma đặt chân lên là nước Lương. Vị vua đương thời là Lương Võ Đế, một nhà Phật học uyên thâm, thường khoác áo cà sa ra ngoài ngự bào để giảng kinh thuyết pháp. Nhà vua cũng là một đại thí chủ đương thời. Con trai lớn của Lương Võ Đế là thái tử Chiêu Minh cũng là một học giả Phật giáo, thường cùng với pháp sư Lâu Ước, đại sĩ Đạo Phó và Lương Võ Đế bàn luận về "thánh đế đệ nhất" (là chân lý tuyệt đối) và "tục đế" (là chân lý quy ước). Thái tử Chiêu Minh cũng nghiên cứu kinh Kim Cang rất sâu sắc, có thiết lập một đài bằng đá để ghi dấu công cuộc phân chia kinh Kim Cang ra làm 32 chương của ông. Sau này có một người Việt Nam là nhà thơ Nguyễn Du nhân đi sứ sang Tầu có đến thăm đài và làm một bài "Vịnh đài đá phân kinh của Luơng Chiêu Minh thái tử", có ý chê thái tử không hiểu phần cốt tủy thâm áo của kinh nên mới làm công việc huyênh hoang hình tướng này.
Được tin có ngài Bồ Đề Đạt Ma tới nước mình, Lương Võ Đế sai sứ đi đón, rước vào kinh. Trong buổi tiếp kiến, nhà vua hỏi:
- Từ khi lên ngôi, trẫm đã xây chùa, chép kinh, độ tăng nhiều vô số kể, vậy có công đức gì không?
Ngài
Đạt Ma đáp:
-
Đều không có công đức.
Vua
hỏi lại :
-
Tại sao không có công đức?
Ngài
đáp:
-
Xây chùa, chép kinh, độ tăng là tạo nhân hữu lậu, chỉ
được hưởng thiện quả nơi cõi Trời, cõi người, quả
theo nhân như bóng theo hình, là phước đức, không phải công
đức. Công đức là do tu hành, trí rỗng rang, tâm sáng suốt,
từ nơi bản tánh, không do nơi công nghiệp thế gian.
Vua
hỏi lại:
-
Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa? (ý Võ Đế muốn hỏi
về chân lý tuyệt đối)
Tổ
đáp:
-
Quách nhiên vô thánh (ý ngài Đạt Ma muốn trả lời là người
giác ngộ thì tâm trí rỗng rang, sáng suốt, vượt lên trên
khái niệm về thánh, phàm)
Vua
gặng thêm:
-
Ai đang đối diện với trẫm?
Tổ
đáp:
-
Không biết !
Lương Võ Đế sai người tiễn khách. Tổ Bồ Đề Đạt Ma băng qua sông Giang Bắc, thẳng đường qua nước Ngụy, lên núi Tung Sơn ngồi quay mặt vào vách đá chùa Thiếu Lâm chín năm, người đương thời gọi ngài là Bích quán Bà La Môn, nghĩa là ông Bà La Môn nhìn vách.
Tương truyền, sau khi ngài Bồ Đề Đạt Ma ra đi, Lương Võ Đế gặp hòa thượng Chí Công, bèn kể lại câu chuyện. Hòa thượng Chí Công hỏi:
- Bây giờ bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?
Võ
Đế đáp:
-
Không biết.
Hòa
thượng nói:
-
Đó là đại sĩ Quan Âm tới truyền tâm ấn Phật.
Võ Đế hối tiếc, sai sứ đi thỉnh, nhưng ngài Bồ Đề Đạt Ma không quay trở lại. Sau này hồi tưởng chuyện cũ, Lương Võ Đế tự soạn văn bia như sau:
Hỡi
ôi!
Thấy
như chẳng thấy
Gặp
như chẳng gặp
Đối
mặt như chẳng đối mặt
Xưa
đâu nay đâu
Oán
bấy hận bấy . . .
Tại sao mà đến nỗi vua Lương Võ Đế mang hận như vậy?
Đó là vì nhà vua không phân biệt được giữa phước đức hữu lậu do làm việc thiện sẽ được hưởng phước báo trong vòng nhân quả tương đối và công đức vô lậu do tu hành có công năng vượt qua được dòng sông sinh tử. Vì sự hiểu lầm này mà nhà vua coi trọng vấn đề bố thí làm phước, tưởng như thế là đã đủ trên con đường tu hành.
Ngài Bồ Đề Đạt Ma là một thiền sư đắc đạo, ngài dạy cái cốt tủy, thuộc về Phật thừa. Ngài dạy người tu để giác ngộ thành Phật. Cho nên Lương Võ Đế không hiểu được ngài.
Nhưng nhà Phật cũng có những pháp môn thuộc về Nhân thừa, Thiên thừa, để dẫn dắt Phật tử từng bước vững chắc tiến lên, ngõ hầu tạo được cuộc sống an vui trong gia đình và ngoài xã hội, cho đến khi nào đủ duyên thì tiến lên tu theo Bồ Tát thừa và Phật thừa.
Nhà Phật quan niệm rằng mọi sự vật hiện hữu trong đời sống tương đối đều do nhân duyên mà thành, cho nên cũng tùy duyên giáo hóa chúng sinh, tùy duyên nhưng bất biến. Bất biến là mục tiêu tối hậu, là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Nói về đời sống thế gian thì con người ta ai ai cũng mong muốn giầu sang phú quý, mạnh khoẻ sống lâu và may mắn; mà hầu như ít ai để ý đến các loại nhân mà họ đã và đang gieo trồng: quả giàu sang phú quý là do nhân bố thí, quả mạnh khoẻ sống lâu và may mắn là do nhân không sát sanh, nhân phóng sinh và nhân giúp đỡ người khác.
Thưa quý thính giả,
Đức Phật là bậc Đại Giác. Ngài biết rằng rằng tất cả chúng sinh đều có Gíác Tánh, đều có khả năng giác ngộ, chỉ vì bị tam độc tham, sân, si lôi kéo mà cứ mãi loanh quanh trong vòng luân hồi. Ngài muốn tất cả chúng sinh đều được giải thoát như Ngài, nên đã chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát, và bố thí là một trong những bước chủ yếu, để chúng sinh tập hạnh xả bỏ, bớt đắm nhiễm vào của cải, bớt tham lam chắt bóp tiền tài.
Bố thí là một trong ba toa thuốc điều trị ba căn bệnh khó trị của chúng sinh. Đó là Tham, Sân và Si: Bố thí để diệt trừ bệnh tham, Giới hạnh để diệt trừ bệnh sân và Thiền định diệt trừ bệnh si (vô minh). Ba toa thuốc này cũng chính là ba trụ pháp, tức ba pháp thực hành cởi bỏ sự ràng buộc của tham, sân và si, làm cho tâm thức trở nên tinh khiết.
Bố thí là hạnh đầu tiên mà đức Phật dạy cho tất cả những ai đến với Ngài. Vì lòng tham lam cần phải được điều phục bằng hạnh bố thí. Bố thí là san sẻ vật chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý v.v... tất cả những gì mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ hãi hay một lời an ủi với người đang đau khổ cũng là một sự bố thí, đôi khi có tác dụng rất lớn lao.
Bố thí là mở rộng lòng từ bi, không những đến với người mà còn đến với cả các sinh vật khác, nhằm xoa dịu những nỗi bất hạnh khổ đau mà chúng sinh đang gánh chịu. Trong một gia đình mà ai cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình thì gia đình ấy không có an lạc hạnh phúc. Bố thí trước hết là để diệt trừ lòng tham lam, dứt bỏ tính bỏn xẻn và loại trừ tâm ganh tị. Có tài sản, tiền bạc, có chức quyền, có danh đều nên bố thí, san sẻ. Bố thí, san sẻ niềm hãnh diện như thế nào? Khi được người trân trọng mà mình đối lại bằng khiêm cung thì đó chính là bố thí niềm hãnh diện của mình. Như vậy chẳng những tạo được an lạc hạnh phúc cho mình mà còn đem lại an vui hạnh phúc cho người. Vì vậy, không phải chỉ có tiền bạc, tài sản mới có thể bố thí, mà hễ có thân, có tấm lòng là có thể bố thí được cả. Nếu trong tâm mọì người đều luôn nghĩ đến bố thí thì sự đua tranh, ganh tị sẽ giảm bớt rất nhiều.
Sở dĩ chúng ta bị trói buộc và trôi lăn mãi trong cuộc đời, bị luân hồi trong các nẻo là do lòng tham lam và lòng ái dục. Thực hành bố thí là chúng ta đang từ từ tháo gỡ những sợi dây ràng buộc này.
Có những người chuyên môn bắt khỉ, họ thường dùng một trái dừa khoét rỗng bên trong, đục một lỗ nhỏ vừa đủ lọt bàn tay con khỉ khi nó duỗi các ngón tay ra. Họ cho vào đó một loại thức ăn có mùi vị mà loài khỉ ưa thích. Con khỉ ngửi được mùi sẽ tìm đến, đưa tay vào lấy thức ăn và nắm giữ chắc lại. Thế là nó bị mắc kẹt. Con khỉ chỉ có một lối thoát là buông xả bàn tay thì mới thoát thân được. Chúng ta cũng như thế, cũng cần buông xả lòng tham dục thì mới được tự do giải thoát và bố thí là một cách buông xả.
Người thực hành bố thí cũng mang nhiều tâm trạng khác nhau. Nhưng đáng quý nhất là những ngững người bố thí với tâm hồn cao thượng tuyệt đối. Những người này sẵn sàng hiến tặng những gì mà họ cho là quý giá nhất. Họ chia xẻ một cách tự nhiên và tức thời, không cân nhắc, đắn đo. Đây là một thứ trực giác phát sinh ra hành động tức thời trong sát na hiện tại. Sự bố thí đã trở thành một phản xạ tự nhiên. Tâm không tham luyến của họ vững mạnh đến mức họ có thể cho những gì mà họ trân quý nhất, bằng một thái độ thoải mái, nhẹ nhàng. Họ đã thâm nhập với quan niệm rằng tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường. Họ biết cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho, vật cho và người nhận, không tự cao, tự đại, không nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến sự cần phải làm.
Có mẩu chuyện về loại bố thí này mà chúng tôi đọc trong cuốn Hoa Sen Trên Tuyết của dịch giả Nguyên Phong kể về chuyến đi của bác sĩ Alan Havey và một người bạn tên Dennis đến Lamayuru, một thị trấn nhỏ vùng bắc xứ Ấn Độ giáp giới với Tây Tạng, mẩu chuyện kể như sau:
“Chúng tôi đi dọc theo con đường chính duy nhất của thành phố, con đường vắng tanh không một bóng người. Mọi nhà đều đóng cửa im ỉm, thỉnh thoảng có vài con chó hoang gầy ốm chạy rong. Chúng tôi nhìn thấy một bà lão hành khất, thân hình còm cõi chỉ còn da bọc xương đang lê lết trên vỉa hè, tôi bèn dúi cho bà 5 rupee nhưng bà vẫn dơ tay ra trước mặt như muốn xin thêm một cái gì. Dennis rút ổ bánh mì đựng trong chiếc túi đeo trên vai đưa ra, bà lạo mừng rỡ chụp lấy ăn ngay, thì ra bà lão quá đói. Trong lúc bà đang ăn ngấu nghiến thì một con chó hoang ở đâu chạy đến. Trước cặp mắt kinh ngạc của chúng tôi bà lão bẻ đôi ổ bánh mì chia cho con chó.
Cảnh tượng một bà lão không có một thứ gì ngoài bộ quần áo rách tơi tả, đang lả đi vì đói lại thản nhiên chia sẻ nửa phần ăn của mình cho một con chó hoang đã làm chúng tôi xúc động. Bà lão hành động một cách tự nhiên, không ngại ngùng hay suy nghĩ hình như bà không hề phân biệt giữa mình và con chó…
Trong lúc tôi đang ngơ ngác về cảnh tượng này thì Dennis bất chợt run bắn người rồi thốt lên: “Đó mới thật là tình thương tuyệt đối”. Hắn quỳ xuống trút tất cả mọi thứ trong chiếc túi ra cho bà lão hành khất. Hành động bất ngờ của Dennis làm tôi ngạc nhiên nên trên đường về tôi đã hỏi “Tại sao bạn cho rằng đó là một thứ tình thương tuyệt đối?” Hắn trả lời ngay không do dự “Khi cho mà không suy nghĩ, không đòi hỏi gì trả lại, không hối tiếc hay phân biệt một cái gì đó mới thật là tuyệt đối. Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này rất lâu và không biết có người nào thực sự bố thí một cách tuyệt đối như vậy không? Tôi đã đi khắp nơi và chỉ thấy bất cứ cái gì cho ra cũng đều hy vọng một điều gì trả lại, đối lúc điều muốn đạt được lại nhiều hơn điều người ta cho ra là đàng khác… Sự ích kỷ được che đậy khéo léo và nguỵ tạo dưới nhiều danh nghĩa tốt đẹp nhưng tựu chung vẫn là một hình thức ích kỷ”.
Thưa quý thính gỉa,
Đó
là một loại bố thí tuyệt đối do một thứ tình thương
tuyệt đối thúc đẩy.
Có
lẽ chúng ta chưa đạt đến mức bố thí như thế, nhưng câu
chuyện chỉ cho chúng ta một hướng đi: vun trồng tâm bố
thí vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh. Nếu
chúng ta có khả năng tài vật thì giúp cho họ bớt đói lạnh,
bớt nhọc nhằn. Nếu chúng ta có khả năng Phật Pháp,
chúng ta có thể dùng những lời dạy của đức Phật để
an ủi họ, giúp cho tâm hồn họ bớt khổ, bớt lo âu, sợ
hãi trong cuộc sống hoặc khuyên họ y theo giới luật của
Phật tu hành không làm các điều ác, làm các việc lành và
tự thanh tịnh tâm ý.
Tưởng cũng nên nói thêm ở đây là có nhiều người thường nói rằng vì điều kiện sinh hoạt làm ăn khó khăn, hay vì hoàn cảnh gia đình, nên họ không có dư tiền của để thực hiện hạnh bố thí. Đối với những người Việt sống nơi hải ngoại, nhất là ở Mỹ, không một ai nghèo đến nỗi không đủ áo mặc, không đủ cơm ăn. Làm gì không có dư vài hột cơm cho kiến ăn, cho chim ăn hay dư một chén cơm đủ cho một trẻ em đang thiếu ăn nằm trên hè phố Calcuta hay nơi vùng Phi Châu nắng cháy. Thật ra chúng ta không phải đợi có tiền nhiều mới đi bố thí, cúng chùa, mới làm phước. Mà chúng ta biết thương người, nghĩ đến người, tùy theo khả năng phương tiện sẵn có của mình mà giúp đỡ người, giúp bất kỳ ai, sinh vật nào cần cứu giúp. Chẳng hạn nhường chỗ ngồi cho người già yếu khi xe thiếu chỗ ngồi, phụ xách giùm đồ cho người gìa cả băng đường ... Như vậy là chúng ta đang chuyển hoá tâm nhỏ hẹp thành tâm bố thí lợi tha, chuyển đổi hành động xấu ác thành lương thiện làm lợi ích cho người vật.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là các bố thí tài vật. Đức Phật có dạy rằng nếu người nào giữ lòng tịnh tín, quy y Tam Bảo và giữ tròn 5 giới căn bản, thì đó là bố thí, và là nguồn công đức vô lượng cho chúng sinh, vì người ấy mang lại sự an vui, thương yêu hài hòa đến cho mọi người, mọi loài sống chung quanh người ấy.
Ban
Biên Tập
www.thuvienhoasen.org
(Bài
này đã được phát thanh ngày 23 tháng 7 tại Nam California
và 24 tháng 7, 2005 tại Houston Texas)