5. Không Chỗ Trụ Mà Hành Bố Thí

16/05/20154:15 CH(Xem: 12121)
5. Không Chỗ Trụ Mà Hành Bố Thí

THỰC HÀNH 
KINH KIM CƯƠNG BÁT NHà
Đương Đạo 
Nhà Xuất  Bản: Thiện Tri Thức 2015

KHÔNG CHỖ TRỤ MÀ HÀNH BỐ THÍ

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí, thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường.

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Hư không phương Đông có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn.

Tu Bồ Đề! Hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương phụ, phương trên phương dưới có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn.

Tu Bồ Đề! Bồ tát không trụ tướngbố thí phước đức cũng lại như vậy, không thể nghĩ lường.

Tu Bồ Đề! Bồ tát chỉ nên như lời dạy mà trụ.

Bố thí là cái đầu tiên trong sáu ba la mật. Bố thí đại diện cho mọi hạnh của Bồ tát. Để trả lời câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề, “Nên làm sao trụ?”, Đức Phật trả lời “Không trụ tướng mà bố thí”.

‘Nên trụ vào đâu, nên định vào đâu’, được trả lời là, ‘không trụ vào tướng, không định vào tướng, nghĩa là nên không trụ vào đâu cả, không định vào đâu cả, khi ấy tức là trụ vào tánh Không, định vào tánh Không, như hư không bao la chẳng thể nghĩ lường. Đó là giải thoát.

Không trụ nơi tướng, ngay lúc đó là đang trụ nơi tánh, ngay lúc đó là thấy tánh hay ngộ tánh, ngay lúc đó là sống tánh hay nhập tánh.

“Chẳng trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí”, đây là con đường của Bồ tát. “Chẳng trụ sắc thanh hương vị xúc pháp”, là con đường tu định cuối cùng dẫn đến diệt thọ tưởng định của bậc A La Hán. Còn “chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí” thì đây là con đường Bồ tát, không trụ nhưng vẫn hành Bồ tát hạnh, vẫn hoạt động trong thanh hương vị xúc pháp của sanh tử của chúng sanh. Con đường Bồ tát như vậy hợp nhất trí huệ thấu rõ tánh Không với phước đức độ chúng sanh, hợp nhất Trí và Bi.

Bố thítrụ tướng thì tâm ấy, hành động ấy bị cắt đứt trong các tướng thành từng phần sắc thanh hương vị xúc pháp và bị giới hạn bởi hai đầu chủ thể bố thí và đối tượng được bố thí. Còn bố thí mà không trụ tướng thì tâm ấy, hành động ấy không bị cắt đứt, chia chẻ, và không bị giới hạn bởi hai đầu chủ thể bố thí và đối tượng được bố thí. Tâm ấy, hành động ấy không bị cái gì hạn cuộc, bèn vô hạn như hư không. Tâm ấy, hành động ấy chính là thực tại tánh Không, không có tướng nào ngăn ngại. Đó là phước đức bao la như mười phương hư không, chẳng thể nghĩ lường.

Tánh Không đó được Kinh Đại Bát Nhã gọi là “Mẹ của chư Phật”. Nó cũng được gọi là Pháp thân, Phật tánh, Chân Như, Tự tánh, Niết Bàn, tánh Giác, tánh sáng, vô tận tạng, đại quang minh tạng… Nó là Nền tảng, Con đường tu hành, và Quả của tất cả tông phái Phật giáo.

Tánh Không là cái “không chỗ trụ”. Một khi ngộ nhập nó thì lúc đó có muốn trụ sắc thanh hương vị xúc pháp cũng chẳng thể được (bất khả đắc). Chẳng thể được vì nó không thể bị nhiễm ô, không thể trụ ở đâu cả, như hư không: hư không bao trùm, chứa đựng mợi sắc tướng, mọi sự vật, nhưng nó không trụ ở đâu cả, cũng không bị sự vật làm nhiễm ô, chướng ngại. Hư không muôn đời vẫn là hư không, chưa từng ô nhiễm, không vì có nhiều sự vật mà hẹp lại, không vì có ít sự vật mà rộng thêm. Tính cách không ô nhiễm này của tánh Không được ví với Kim Cương như trong nhan đề của Kinh.

Chẳng thể trụ còn một ý nghĩa nữa, là khi ngộ nhập tánh Không thì sắc thanh hương vị xúc pháp trở thành hoa đốm giữa hư không, lấy gì mà trụ?

Tánh Không này chính là bản tánh của tâm chúng ta. Chúng ta vẫn hằng sống với tâm không chỗ trụ, vốn tự giải thoát này như vậy đấy. Tâm không chỗ trụ như bầu trời, có những đám mây tư tưởng hay không, thì bầu trời vẫn là bầu trời, chưa từng nhiễm ô mà cũng chẳng hề ngăn ngại đám mây tư tưởng nào. Và mục tiêu của Kinh này là để chúng ta thấy nó, biết nó, và sống thường trực với nó, đó tức là giải thoátgiác ngộ.

Một điều nữa cần lưu ý. Ở trên có câu “chẳng trụ nơi tướng hoặc tưởng”. Ở đây có ba phạm trù: tướng, tưởng, và trụ. Thật tướng của tướng, tưởng, trụ là Vô tướng, Vô tưởng hay Vô niệm, và Vô trụ. Để tương ưng với thật tướng ấy, sự thực hành của tâm chúng ta cũng phải vô tướng, vô niệm, vô trụ thì tương ưng, đạt đến bản tánh của tâm.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Một hình chụp văn bản lan truyền qua mạng xã hội hôm 12 Tháng Tám được cho là thư thông báo rời bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (giáo hội quốc doanh) của Thượng Tọa Thích Minh Đạo, trụ trì tu viện Minh Đạo ở thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Từ chuyện xuất hiện của sư Minh Tuệ, nếu Phật giáo và một số cá nhân tu sỹ không có những sai lầm do chủ quan thiếu khiêm tốn trong quyền lực, phát ngôn ỷ thị và hành chánh thiếu cẩn trọng, vô tình đẩy sự kiện sư Minh Tuệ lên cao trào trong khi quần chúng dành sự ngưỡng mộ một tu sỹ khổ hạnh không thuộc Giáo hội Phật giáo, và lại thêm một hình ảnh như chiếc bóng thứ hai của sư Minh Tuệ là sư Minh Đạo tiếp nối lòng tôn kính của người dân có đủ mọi thành phần sau khi sư Minh Tuệ bị khiển trách rồi ẩn tu. Còn Chân Quang không thọ cụ túc chính thức một giới đàn nào, bằng cấp ba, bằng Tiến sỹ còn giả thì điệp đàn thọ giới chả là gì đối với người thiếu minh bạch. Hiện nay Chân Quang có hai bản lý lịch khác nhau và Điệp đàn thọ giới cũng không giống nhau đã bị cộng đồng mạng phanh phui.