Tập I | Tập II | Tập III | Tập IV |
THIỆN PHÚC
CHƯ THIỀN ĐỨC
ẤN ĐỘ THỜI SƠ KỲ VÀ TRUNG HOA ĐẾN THỜI LÂM TẾ NGHĨA HUYỀN
ZEN VIRTUES
EARLY PERIODS IN INDIA AND CHINA UNTIL LIN-CHI I-HSUAN
VIỆT-ANH | VIETNAMESE-ENGLISH
ẤN ĐỘ THỜI SƠ KỲ VÀ TRUNG HOA ĐẾN THỜI LÂM TẾ NGHĨA HUYỀN
ZEN VIRTUES
EARLY PERIODS IN INDIA AND CHINA UNTIL LIN-CHI I-HSUAN
VIỆT-ANH | VIETNAMESE-ENGLISH
TẬP MỘT | VOLUME ONE
Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại
MỤC LỤC THEO MẪU TỰ
TABLE OF CONTENT ON ALPHABETICAL ORDERS
TẬP MỘT | VOLUME ONE
A
A Nan—Ananda Ch.2 (B)(II) 77
An Quốc Huyền Đỉnh—An-kuo Hsuan-ting Ch.6 (D)(II) 175
Ấn Tông—Yin-tsung Ch.9 (A-1)(XVI) 288
Ẩn Phong—Yin-feng Ch.9 (C-2)(V) 396
B
Bà Tu Bàn Đầu—Vasubandhu Ch.2 (B)(XXI) 95
Bà Tu Mật—Vasumitra Ch.2 (B)(VII) 84
Bà Xá Tư Đa—Vasiasita Ch.2 (B)(XXV) 98
Bách Trượng Niết Bàn—Pai-chang Nieh-pan Ch.9 (D-3)(VIII) 484
Bàn Sơn Bảo Tịch—P'an-shan Pao-chi Ch.9 (C-2)(II) 372
Bảo Thông—Pao-t'ung Ch.9 (C-1)(IV) 348
Bảo Triệt—Pao-ch'ê Ch.9 (C-2)(XVI) 412
Bảo Vân—Pao-yun Ch.9 (C-2)(XIII) 409
Bát Nhã Đa La—Prajnatara Ch.2 (B)(XXVII) 99
Bất Như Mật Đa—Punyamitra Ch.2 (B)(XXVI) 99
Bồ Đề Đạt Ma—Bodhidharma Ch.3 103
Bùi Hưu—Pei-hsiu Ch.9 (E-2a)(III) 628
C
Ca Na Đề Bà—Aryadeva Ch.2 (B)(XV) 91
Ca Tỳ Ma La—Kapimala Ch.2 (B)(XIII) 88
Cảnh Sầm—Ching-tsên Ch.9 (D-6)(I) 494
Cao Sa Di—Sramanra Kao Ch.9 (D-1)(III) 447
Câu Chi—Chu-chih Ch.9 (E-2c)(I) 658
Chấn Lãng—Chen-lang Ch.9 (C-1)(VI) 350
Chí Đạo—Chih-tao Ch.9 (A-1)(XV) 285
Chí Thành—Chih-ch'eng Ch.9 (A-1)(VII) 268
Chí Triệt—Chih-ch'e Ch.9 (A-1)(XIII) 280
Cưu Ma La Đa—Kumarata Ch.2 (B)(XIX) 93
D
Di Già Ca—Mikkaka Ch.2 (B)(VI) 84
Di Tắc Phật Quật—Wei-tse Fo-k'u Ch.6 (C)(10) 172
Duy Khoan—Wei-k'uan Ch.9 (C-2)(XVIII) 421
Duy Nghiễm—Wei-yen Ch.9 (C-1)(I) 329
Đ
Đại An—Ta-an Ch.9 (D-3)(V) 477
Đại Đồng—Ta-tung Ch.9 (E-1d)(I) 596
Đại Nghĩa—Ta-I Ch.9 (C-2)(XV) 412
Đại Tùy—Ta-sui Ch.9 (D-3)(XI) 488
4
Đàm Chiếu—T'an-chao Ch.9 (D-6)(III) 502
Đàm Thạnh—T'an-shêng Ch.9 (D-1)(I) 439
Đạo Nghĩa—Tao-I Ch.9 (D-4)(I) 492
Đạo Ngộ—Tao-wu Ch.9 (C-1)(III) 345
Đạo Nhất—Tao-I Ch.9 (B-2)(I) 304
Đạo Thông—Tao-t'ung Ch.9 (C-2)(X) 404
Đạo Tín—Tao-hsin Ch.4 (B)(IV) 128
Đạo Tuyên—Tao-hsuan 189
Đề Đa Ca—Dhitaka Ch.2 (B)(V) 84
Đức Thành—Te-ch'êng Ch.9 (D-1)(II) 444
Đường Túc Tông—T'ang Shu Tsung Ch.9 (B-3)(II) 322
H
Hạc Lặc Na—Haklena Ch.2 (B)(XXIII) 97
Hạc Lâm Huyền Tố—Hao-lin Hsuan-su Ch.6 (C)(7) 168
Hàng Châu Thiên Long—Hang-chou T'ien-lung Ch.9 (D-8)(I) 551
Hành Tư—Hsing-Ssu Ch.9 (A-1)(I) 249
Hiếp Tôn Giả—Parshva Ch.2 (B)(X) 86
Hiểu Liễu—Shiao-liao Ch.9 (A-1)(IX) 272
Hoa Lâm Giác—Hua-lin Chueh Ch.9 (D-3)(X) 486
Hoài Hải—Huai-hai Ch.9 (C-2)(I) 358
Hoài Nhượng—Huai-jang Ch.9 (A-1)(II) 251
Hoài Uẩn—Huai-yun Ch.9 (C-2)(XIV) 411
Hoàn Trung—Huan-chung Ch.9 (D-3)(III) 475
Hoằng Nhẫn—Hung-jên Ch.4 (B)(V) 131
Hồng Ân—Hung-ên Ch.9 (C-2)(XII) 408
Hồng Nhân—Hung-jen Ch.9 (E-2b)(VI) 657
Huệ Ẩn—Hui-yin Ch.7 (D)(I) 189
Huệ Đoan—Hui-tuan Ch.6 (D)(X) 178
Huệ Hải—Hui-hai Ch.9 (C-2)(IV) 391
Huệ Khả—Hui-k'o Ch.4 (B)(II) 115
Huệ Lãng—Hui-lang Ch.9 (C-1)(V) 350
Huệ Năng—Hui-neng Ch.8 (A) 193
Huệ Phương—Hui-fang Ch.6 (C)(4) 167
Huệ Tạng—Hui-tsang Ch.9 (C-2)(VI) 399
Huệ Tịch—Hui-chi Ch.9 (E-2b)(I) 629
Huệ Trung—Hui-chung Ch.9 (A-1)(IV) 257
Huệ Trung Ngưu Đầu—Hui-chung Niu-t'ou Ch.6 (C)(8) 170
Huyền Giác—Hsuan-chueh Ch.9 (A-1)(III) 255
Huyền Giác Trưng—Hsuan-chueh Cheng Ch.9 (B-3)(III) 323
Huyền Sách—Hsuan-t'se Ch.9 (A-1)(XVII) 289
Hương Nghiêm—Hsiang-yen Ch.9 (E-2b)(II) 642
Hy Vận—Hsi-yun Ch.9 (D-3)(II)
I
Ích Châu Vô Tướng—I-chou Wu-hsiang Ch.5 (D-1)(III) 144
K
Khánh Chư—Ch'ing-chu Ch.9 (E-1b)(I) 583
Khuê Phong Tông Mật—Kuei-feng Tsung-mi Ch.9 (C-3)(I) 435
Kim Ngưu—Chin-niu Ch.9 (C-2)(XXIV) 428
Kinh Triệu—Jing-zhao Ch.9 (E-2b)(IV) 654
Kính Sơn Pháp Khâm—Ching-shan Fa-chin Ch.6 (C)(9) 170
L
La Hầu La Da—Arya Rahulata Ch.2 (B)(XVI) 91
Lão An—Lao-an Ch.5 (C)(II) 149
Lâm Tế—Lin-chi Ch.9 (E-2a)(I) 600
Liễu Nhiên—Liao-jan Ch.9 (E-2d)(I) 660
Linh Chiếu—Ling-chiao Ch.9 (C-1)(XI) 357
Linh Huấn Phù Dung—Ling-hsun Fu-jung Ch.9 (D-10)(II) 555
Linh Hựu—Ling-yu Ch.9 (D-3)(I) 459
Linh Kiệu—Ling-chiao Ch.9 (C-2)(XXVI) 432
Linh Mặc—Ling-mo Ch.9 (C-1)(VII) 350
Linh Thao—Ling-t'ao Ch.9 (A-1)(XVIII) 289
Linh Thọ Như Mẫn—Ling-shou Ju-min Ch.9 (E-2g)(I) 674
Linh Vân—Ling-yun Ch.9 (E-2b)(III) 651
Long An Như Hải—Lung-an Ju-hai Ch.6 (D)(IV) 176
Long Nha Viên Sướng—Lung-ya Yuan-chang Ch.6 (D)(V) 177
Long Thọ—Nagarjuna Ch.2 (B)(XIV) 89
Long Uẩn—Lung-yun Ch.9 (C-1)(X) 352
Lục Công Tuyên—Lu-Kung-Hsuan Ch.9 (D-6)(VI) 544
Lương Giới—Liang-chieh Ch.9 (E-1a)(I) 565
Lương Toại—Liang-Sui Ch.9 (D-5)(I) 493
Lượng Sa Môn—Sramanera Liang Ch.9 (C-2)(XXIX) 434
Lưu Thiết Ma—Liu T'ieh Mo Ch.9 (E-2b)(V) 655
Lý Bột—Li-Bo Ch.9 (D-10)(I) 554
Lý Cao—Li-Kao Ch.9 (D-1) (VI) 452
M
Ma Ha Ca Diếp—Mahakasyapa Ch.2 (B)(I) 77
Ma Ha Diễn—Mo-ho Yen Ch.5 (A)(III) 137
Ma Nô La—Manura Ch.2 (B)(XXII) 96
Mã Minh—Asvaghosa Ch.2 (B)(XII) 87
Minh Triết—Ming-che Ch.9 (D-1)(IV) 448
Mục Châu—Mu-chou Ch.9 (E-2a)(II) 623
Mục Quang Xạ—Mu-kuang-She Ch.9 (D-12)(I) 557
N
Nghĩa Đoan—I-tuan Ch.9 (D-6)(II) 501
Nghiêm Dương Sơn Triệu—Yang-yen Shan-zhao Ch.9 (E-2f)(I) 670
Ngô Hưng Pháp Hải—Wu-hsing Fa-hai Ch.6 (D)(I) 173
Ngũ Đài Vô Minh—Wu-t'ai Wu-ming Ch.9 (B-4)(II) 324
Ngưu Đầu Tịnh Chúng—Niu-t'ou Ching-chung Ch.6 (D)(XI) 178
Như Hội—Ju-hui Ch.9 (C-2)(XIX) 423
O
Ô Cựu—Wu-chiu Ch.9 (C-2)(XXI) 425
P
Phá Táo Đọa—P'o Tsao To Ch.9 (A-2)(I) 290
Pháp Chiếu—Fa-chao Ch.5 (D-2)(III) 147
Pháp Dung—Fa-jung Ch.6 (A) 155
Pháp Đạt—Fa-ta Ch.9 (A-1)(XI) 274
Pháp Hải—Fa-hai Ch.9 (A-1)(VI) 266
Pháp Hội—Fa-hui Ch.9 (C-2)(IX) 403
Pháp Kính Ngô Trung—Fa-ching Wu-chung Ch.6 (D)(VI) 177
Pháp Lệ—Fa-li Ch.6 (D)(VII) 177
Pháp Như—Fa-ju Ch.5 (C)(I) 142
Pháp Thường—Fa-ch'ang Ch.9 (C-2)(XI) 404
Pháp Trì—Fa-ch'ih Ch.6 (C)(5) 167
Phật Đà Mật Đa—Buddhamitra Ch.2 (B)(IX) 85
Phật Đà Nan Đề—Buddhanandi Ch.2 (B)(VIII) 85
Phổ Độ Tăng—Fo-tu Teng Ch.5 (A)(I) 137
Phổ Hóa—P'u-hua Ch.9 (D-9)(I) 552
Phổ Minh—P'u-ming Ch.5 (A)(II) 137
Phổ Nguyện—P'u-yuan Ch.9 (C-2)(III) 377
Phổ Tịch—P'u-chi 188
Phú Na Dạ Xa—Punyayasha Ch.2 (B)(XI) 86
Phương Biện—Fang-pien Ch.5 (C)(III) 142
Q
Quả Lãng Tuyên Thập—Kua-lang Hsuan-shih Ch.5 (D-2)(I) 145
Quan Nam Đạo Thường—Kuan-nan Tao-ch'ang Ch.9 (D-3)(IX) 486
Quật Đa Tam Tạng—Upagupta Tripitaka Ch.9 (A-1)(VIII) 271
S
Siêu Ngạn—Ch'ao-an Ch.6 (D)(VIII) 178
Sùng Huệ Chương Tín—Ch'ung-hui Chang-hsin Ch.6 (D)(III) 175
Sùng Tín—Ch'ung-hsin Ch.9 (D-7)(I) 548
Sư Tử Tỳ Kheo—Aryasimha Ch.2 (B)(XXIV) 98
T
Tam Bình Nghĩa Trung—San-Ping I-Chung Ch.9 (D-11)(I) 556
Tánh Không—Hsing-k'ung Ch.9 (D-2)(II) 459
Tăng Già Da Xá—Samgayashas Ch.2 (B)(XVIII) 92
Tăng Già Nan Đề—Samganandi Ch.2 (B)(XVII) 92
Tăng Xán—Seng-T'san Ch.4 (B)(III) 118
Tây Vực—Upagupta Tripitaka Ch.5 (A)(IV) 138
Tề An—Ch'i-an Ch.9 (C-2)(XVII) 418
Thạch Cựu—Shih-chiu Ch.9 (C-2)(XXVII) 432
Thạch Đầu—Shih-t'ou Ch.9 (B-1)(I) 294
Thạch Thất—Shih-shi Ch.9 (C-1)(VIII) 350
Thái Bạch Quán Tông—T'ai-po Kuan-tsung Ch.6 (D)(IX) 178
Thanh Bình Linh Tuân—T'sing-ping Ling-tsun Ch.9 (E-1d)(II) 599
Thần Hội—Shen-hui Ch.9 (A-1)(V) 262
Thần Sơn Mật—Shên-shan-mi Ch.9 (E-3)(I) 675
Thần Tán—Shen-Tsan Ch.9 (D-3)(VI) 480
Thần Tú—Shen-hsiu Ch.7 (A) 183
Thiên Nhiên—T'ien-jan Ch.9 (C-1)(II) 338
Thiện Đạo—Shan-tao Ch.9 (C-1)(IX) 351
Thiện Hội—Shan-hui Ch.9 (E-1c)(I) 591
Thiện Huệ—Shan-hui Ch.5 (B)(I) 139
Thiết Chủy Giác—Tieh-Tsui-Chueh Ch.9 (E-2f)(II) 673
Thông Thiền Sư—Zen master T'ung Ch.9 (D-3)(VII) 481
Thủy Lão Hồng Châu—SHui-lao Hung-chou Ch.9 (C-2)(XXVIII) 433
Thụy Châu Đạo Viên—Sui-chou Tao-yuan 324
Thừa Viễn—Ch'eng-yuan Ch.5 (D-2)(II) 146
Thương Na Hòa Tu—Shanavasa Ch.2 (B)(III) 82
Thường Quan—Ch'ang-kuan Ch.9 (D-3)(IV) 476
Tòng Thẩm—Ts'ung-shên Ch.9 (D-6)(IV) 503
Trần Tháo—Ch'en-Ts'ao Ch.9 (D-12)(II) 559
Trí Đôn—Chih-tun Ch.5 (A)(V) 138
Trí Hoàng—Chih-huang Ch.9 (A-1)(X) 272
Trí Nham—Chih-yen Ch.6 (C)(3) 167
Trí Oai—Chih-wei Ch.6 (C)(6) 167
Trí Tạng—Chih-tsang Ch.9 (C-2)(VII) 401
Trí Thông—Chih-t'ung Ch.9 (A-1)(XII) 278
Trí Thường Qui Tông—Chih-ch'ang Kuei-tsung Ch.9 (C-2)(XX) 423
Trí Thường Tín Châu—Chih-ch'ang Hsin-chou Ch.9 (A-1)(XIV) 283
Trọng Hưng Tiệm Nguyên—Chung-hsing Chien-yuan Ch.9 (E-1b)(II) 588
Tuyên Giám—Hsuan-chien Ch.9 (E-2e)(I) 662
Tư Châu Trí Sằn—Tzu-chou Chih-hsien Ch.5 (D-1)(I) 143
Tư Châu Xử Tịch—Tzu-chou Ch'u-chi Ch.5 (D-1)(II) 144
Tử Hồ Lý Tông—Tzu-hu Li-tsung Ch.9 (D-6)(V) 543
U
Ưu Ba Cúc Đa—Upagupta Ch.2 (B)(IV) 83
Ứng Chân—Ying-chên Ch.9 (B-3)(I) 320
V
Vân Cư Năng—Yun-chu Neng Ch.9 (C-2)(XXIII) 430
Viên Trí—Yuan-chih Ch.9 (D-1)(V) 448
Vô Học—Wu-hsueh Ch.9 (D-2)(I) 453
Vô Nghiệp—Wu-yeh Ch.9 (C-2)(VIII) 402
Vô Nhiễm—Wu-jan Ch.9 (D-5)(II) 494
Vô Trụ—Wu-chu Ch.5 (D-3)(II) 150
X
Xà Dạ Đa—Jayata Ch.2 (B)(XX) 95
MỤC LỤC THEO DÒNG TRUYỀN THỪA
TABLE OF CONTENT ON LINEAGES OF TRANSMISSION
TẬP MỘT
VOLUME ONE
Lời Giới Thiệu—Introduction 13
Lời Đầu Sách—Preface 17
CHƯƠNG MỘT—CHAPTER ONE
ĐẠI CƯƠNG VỀ THIỀN TÔNG—AN OUTLINE OF ZEN SCHOOLS (p.23)
(A) Thiền Tông—The Zen Sect 25
(B) Thiền Tông Ấn Độ—Indian Zen Sect 36
(C) Thiền Tông Trung Hoa—Chinese Zen School 41
(C-1) Thiền Tông Lâm Tế— Lin-Chi Zen School 44
(C-2) Thiền Tông Tào Động—The Ts'ao Tung School 50
(C-3) Vân Môn Tông—Yun-Men Zen School 53
(C-4) Quy Ngưỡng Tông—Kuei-Yang School 53
(C-5) Pháp Nhãn Tông—Fa-Yan School 53
(C-6) Hoàng Bá Thiền Phái—Obaku Zen Sect 54
(C-7) Hoàng Long Phái—Huang-Lung Sect 54
(D) Thiền Tông Việt Nam—Vietnamese Zen School 54
(E) Thiền Tông Nhật Bản—Japanese Zen School 63
(F) Thiền Minh Sát Trong Phật Giáo Nguyên Thủy—Insight Meditation in Theravada Buddhism 66
(G) Thiền và Sự Giải Thoát Ngay Trong Kiếp Nầy—Zen and the Liberation In This Very Life 67
CHƯƠNG HAI—CHAPTER TWO
HAI MƯƠI TÁM TỔ ẤN ĐỘ—TWENTY-EIGHT INDIAN PATRIARCHS (p.73)
CHƯƠNG BA—CHAPTER THREE
TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA
PATRIARCH BODHIDHARMA (p.101)
CHƯƠNG BỐN—CHAPTER FOUR
LỤC TỔ TRUNG HOA—SIX CHINESE PATRIARCHS (p.113)
CHƯƠNG NĂM—CHAPTER FIVE
CHƯ THIỀN ĐỨC THỜI SƠ THỜI CỦA THIỀN TÔNG TRUNG HOA
ZEN VIRTUES DURING EARLY PERIODS OF ZEN SCHOOL IN CHINA (p.135)
(A) Chư Thiền Đức Thời Sơ Kỳ—Zen Virtues During Early Periods 137
(B) Chư Thiền Đức Cùng Thời Với Nhị Tổ Huệ Khả—Zen Virtues Contemporary With The Second
Patriarch Hui-k'o 139
(C) Chư Thiền Đức Trung Hoa Khác Đời Thứ Sáu Sau Bồ Đề Đạt Ma: Cùng Thời Với Lục Tổ Huệ
Năng—Other Chinese Zen Virtues of the Sixth Generation After Bodhidharma: Contemporary
with the Sixth Patriarch Hui-neng 142
(D) Dòng Thiền Tứ Xuyên—The Szechwan Zen Line 143
(D-1) Dòng Thiền Trí Sằn—The Chih-hsien's Zen Line 143
(D-2) Dòng Thiền Tuyên Thập—The Hsuan-shih's Zen Line 145
(D-3) Dòng Thiền Lão An—The Lao-an's Zen Line 149
CHƯƠNG SÁU—CHAPTER SIX
THIỀN SƯ PHÁP DUNG VÀ NGƯU ĐẦU TÔNG
ZEN MASTER FA-JUNG AND OX-HEAD SCHOOL (p.153)
(A) Thiền Sư Pháp Dung—Zen Master Fa-jung 155
(B) Ngưu Đầu Tông—Ox-head School 156
(C) Chư Thiền Đức Ngưu Đầu Tông—Zen Virtues in the Ox-head School 166
(D) Chư Thiền Đức Những Thế Hệ Sau Của Ngưu Đầu Tông—Zen Virtues of Later Generations in
the Ox-head School 173
CHƯƠNG BẢY—CHAPTER SEVEN
ĐẠI SƯ THẦN TÚ VÀ THIỀN PHÁI BẮC TÔNG
GREAT MASTER SHEN-HSIU AND THE NORTHERN ZEN SCHOOL (p.181)
(A) Đại Sư Thần Tú—Great Master Shen-Hsiu 183
(B) Thiền Phái Bắc Tông—Northern Zen School 186
(C) Chư Thiền Đức Trong Thiền Phái Bắc Tông—Zen Virtues of the Northern Zen School 188
(D) Chư Thiền Đức Khác Trong Thiền Phái Bắc Tông—Other Zen Virtues of the Northern Zen School 189
CHƯƠNG TÁM—CHAPTER EIGHT
LỤC TỔ HUỆ NĂNG VÀ DÒNG THIỀN NAM TÔNG
THE SIX PATRIARCH HUI-NENG AND THE SOUTHERN ZEN SCHOOL (p.191)
(A) LỤC TỔ HUỆ NĂNG—THE SIX PATRIARCH HUI-NENG 193
(B) SỰ HƯNG KHỞI CỦA DÒNG THIỀN NAM TÔNG—THE RISE OF THE SOUTHERN ZEN
SCHOOL 236
(C) THIỀN GIA NÊN TU THEO THẦN TÚ HAY HUỆ NĂNG?—WHO SHOULD ZEN
PRACTITIONERS FOLLOW SHEN-HSIU OR HUI-NENG? 239
CHƯƠNG CHÍN-PHẦN MỘT—CHAPTER NINE-PART ONE
CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA—CHINESE ZEN VIRTUES
CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA TỪ ĐỜI THỨ BẢY
ĐẾN ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES AFTER BODHIDHARMA
FROM THE SEVENTH TO THE ELEVENTH GENERATIONS (p.245)
(A) CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA ĐỜI THỨ BẢY SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES OF THE SEVENTH GENERATION AFTER BODHIDHARMA (p.247)
(A-1) Nối Pháp Lục Tổ Huệ Năng—The Sixth Patriarch Hui-neng's Dharma Heirs 249
(A-2) Nối Pháp Thiền Sư Lão An—Zen Master Lao-an's Dharma Heirs 290
(B) CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA ĐỜI THỨ TÁM SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES OF THE EIGHTH GENERATION AFTER BODHIDHARMA (p.293)
(B-1) Phái Thiền Hành Tư—Hsing-ssu's Branch 294
(B-2) Phái Thiền Hoài Nhượng—Huai-jang's Branch 304
(B-3) Phái Thiền Huệ Trung—Hui-chung's Branch 320
(B-4) Nối Pháp Thiền Sư Hà Trạch—Zen Master He-tse's Dharma Heirs 324
(C) CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA ĐỜI THỨ CHÍN SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES OF THE NINTH GENERATION AFTER BODHIDHARMA (p.327)
(C-1) Phái Hành Tư: Nối Pháp Thiền Sư Thạch Đầu—Hsing-Ssu's Branch: —Zen Master Shiht'ou's
Dharma Heirs 329
(C-2) Phái Mã Tổ—Ma-tsu's Branch 358
(C-3) Nối Pháp Hà Trạch Tông—Dharma Heirs of the He-tse tsung 435
(D) CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA ĐỜI THỨ MƯỜI SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES OF THE TENTH GENERATION AFTER BODHIDHARMA (p.437)
(D-1) Nối Pháp Thiền Sư Duy Nghiễm—Zen Master Wei-yen's Dharma Heirs 439
(D-2) Nối Pháp Thiền Sư Thiên Nhiên—Zen Master T'ien-jan's Dharma Heirs 453
(D-3) Nối Pháp Thiền Sư Hoài Hải—Zen Master Huai-hai's Dharma Heirs 459
(D-4) Nối Pháp Thiền Sư Trí Tạng—Zen Master Chi-tsang's Dharma Heirs 492
(D-5) Nối Pháp Thiền Sư Bảo Triệt—Zen Master Pao-che's Dharma Heirs 493
(D-6) Nối Pháp Thiền Sư Phổ Nguyện—Zen Master Pu-yuan's Dharma Heirs 494
(D-7) Nối Pháp Thiền Sư Thiên Hoàng Đạo Ngộ—Zen Master Tao-wu's Dharma Heirs 548
(D-8) Nối Pháp Thiền Sư Pháp Thường—Zen Master Fa-ch'ang's Dharma Heirs 551
(D-9) Nối Pháp Thiền Sư Bàn Sơn Bảo Tích—Zen Master P'an-shan-Pao-chi's Dharma Heirs 552
(D-10) Nối Pháp Thiền Sư Trí Thường Quy Tông—Zen Master Chih-ch'ang Kuei-tsung's Dharma
Heirs 554
(D-11) Nối Pháp Thiền Sư Bảo Thông—Zen Master Pao-T'ung's Dharma Heirs 556
(D-12) Không Rõ Dòng Truyền Thừa—Line of Transmission is unclear 557
(E) CHƯ THIỀN ĐỨC TRUNG HOA ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU BỒ ĐỀ ĐẠT MA
CHINESE ZEN VIRTUES OF THE ELEVENTH GENERATION AFTER BODHIDHARMA (p.563)
(E-1) Phái Hành Tư—Hsing-ssu Branch 565
(E-1a) Nối Pháp Thiền Sư Đàm Thạnh—Zen Master T’an-shêng's Dharma Heirs 565
(E-1b) Nối Pháp Thiền Sư Viên Trí Đạo Ngộ—Zen Master Yuan-chih Tao-wu's Dharma Heirs 583
(E-1c) Nối Pháp Thiền Sư Đức Thành—Zen Master Te-sheng's Dharma Heirs 591
(E-1d) Nối Pháp Thiền Sư Vô Học—Zen Master Wu-hsueh's Dharma Heirs 595
(E-2) Phái Hoài Nhượng—Huai-jang Branch 600
(E-2a) Nối Pháp Thiền Sư Hy Vận—Zen Master Hsi-yun's Dharma Heirs 600
(E-2b) Quy Ngưỡng Tông Đời Thứ Hai: Nối Pháp Thiền Sư Linh Hựu—The Second Generation of the
Kuei-yang Tsung: Zen Master Ling-yu's Dharma Heirs 629
(E-2c) Nối Pháp Thiền Sư Thiên Long—Zen Master T'ien-lung's Dharma Heirs 657
(E-2d) Nối Pháp Thiền Sư Đại Ngu—Zen Master Ta-yu's Dharma Heirs 660
(E-2e) Nối Pháp Thiền Sư Sùng Tín—Zen Master Ch'ung-hsin's Dharma Heirs 662
(E-2f) Nối Pháp Thiền Sư Triệu Châu—Zen Master Chao-chou's Dharma Heirs 670
(E-2g) Nối Pháp Đại An Phúc Châu Thiền Sư—Zen Master Fu-chou T’a-an's Dharma Heirs 674
(E-3) Không Rõ Dòng Truyền Thừa—Line of Transmission is unclear 675
Sách Tham Khảo—References 677
Lời Giới Thiệu
Đạo hữu Trần Ngọc pháp danh Thiện Phúc không chỉ là một học giả nghiên cứu khá sâu sắc về Phật pháp, mà còn là một Phật tử thuần thành luôn gắng công tu tập để đạt đến con đường giác ngộ và giải thoát. Thiện Phúc Trần Ngọc còn là tác giả của một loạt những bộ sách Phật giáo rất có giá trị như các bộ Đạo Phật Trong Đời Sống 10 Tập, Đạo Phật An Lạc Và Tỉnh Thức 1 Tập, Tâm Sự Với Cha Mẹ Và Tuổi Trẻ, Tự Điển Phật Học Việt-Anh Anh-Việt 6 Tập, Tự Điển Phật Học Anh-Việt 10 Tập, Thiên Trúc Tiểu Du Ký, Thiền Sư, Phật Pháp Căn Bản Việt-Anh 8 Tập, Thiền Trong Đời Sống Việt-Anh 1 Tập, Những Đóa Hoa Vô Ưu Việt-Anh 3 Tập, Tự Điển Thiền Và Thuật Ngữ Phật Giáo Việt-Anh Anh-Việt 12 Tập.
Hôm nay đạo hữu Thiện-Phúc lại đem bộ sách “Chư Thiền Đức” nhờ tôi viết lời giới thiệu. Tác phẩm “Chư Thiền Đức” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy bộ sách viết về cuộc đời và hành trạng của nhiều chư Thiền Đức tính từ thời Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Tất cả 4 tập đều bao gồm những tấm gương sống tu thật sống động rất đáng cho tất cả hàng hậu bối của chúng ta noi theo. Tôi nghĩ rằng vị nào có duyên lành để mắt đọc tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy chắc chắn sẽ dễ dàng gặt hái được niềm an lạc trên bước đường tu tập của chính mình.
Qua bộ sách “Chư Thiền Đức,” chúng ta thấy rõ các bậc cổ đức của chúng ta áp dụng Thiền vào công việc của cuộc sống hằng ngày của các ngài, và kết quả phải đạt được bây giờ và ở đây. Thiền không phải tách rời với công việc hằng ngày, mà nó là một phần của đời sống. Chúng ta vẫn tham gia các hoạt động thường nhật, nhưng giữ cho mình thoát được cảnh hối hả rộn rịp của thành phố và những phiền toái bực bội của thế gian, việc này nói dễ khó làm, nhưng nếu cố gắng thiền tập chúng ta có thể làm được. Bất cứ sự thiền tập nào cũng đều giúp chúng ta rất nhiều trong việc đối phó với các diễn biến trong cuộc sống một cách trầm tĩnh. Và chính sự trầm tĩnh này sẽ giúp chúng ta vượt qua những khổ đau và phiền não trong đời. Theo các ngài, hành thiền là một lối sống. Đó là lối sống trọn vẹn chứ không phải là sinh hoạt rời rạc. Các ngài luôn nhấn mạnh rằng mục đích của pháp hành thiền trong việc phát triển toàn thể con người chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng đạt được sự toàn hảo ấy ở đây và ngay trong kiếp này, chứ không phải đợi đến một thời hoàng kim nào đó trong tương lai. Trong quá khứ, nhiều người tin rằng pháp hành thiền chỉ riêng dành cho chư Tăng Ni mà thôi, sự việc đã thay đổi, ngày nay hầu như mọi người đều thích thú lưu tâm đến thiền tập. Nếu hiểu rằng thiền là một kỷ thuật lắng đọng tâm từ và quán xét nội tâm, hay một phương pháp trau dồi tâm trí như vậy thì mọi người nên hành thiền, bất kể là nam hay nữ, già hay trẻ, Tăng hay tục.
Đối với chư Thiền Đức, sự hành thiền (quán tưởng) là cách chắc chắn nhất để kiểm soát và tịnh tâm. Qua cuộc đời và hành trạng của các ngài, các ngài muốn nhắn nhủ hàng hậu bối chúng ta nên kiểm soát thân tâm mọi lúc, chứ không chỉ lúc ngồi thiền. Lúc nào thân tâm chúng ta cũng phải thanh tịnh và tỉnh thức. Thiền là chấm dứt vọng niệm; tuy nhiên, nếu chúng ta không có khả năng chấm dứt vọng niệm thì chúng ta nên cố gắng tập trung tâm của mình vào một tư tưởng hay một đối tượng quán tưởng mà thôi. Điều này có nghĩa là chúng ta nên biết mình đang nghĩ gì hay đang làm gì trong những giây phút hiện tại này. Nếu làm được những điều nầy trong mọi sinh hoạt hàng ngày, thế là mình chắc chắn đã có thiền trong đời sống vậy!
Thật vậy, một khi hành giả tu Thiền có khả năng quan sát và biết rõ chính mình, ấy là mình đang thực tập thiền quán. Khi chúng ta biết con đường mình đi, biết mình ăn cái gì và ăn như thế nào, biết mình nói cái gì và nói như thế nào... ấy là mình đang thực tập thiền quán vậy. Khi tâm chúng ta chứa đựng những hận thù hay ganh ghét, dối trá, vân vân, chúng ta liền biết tâm mình đang dung chứa những vi trùng nguy hiểm, đó là chúng ta đang thực tập thiền vậy. Thiền không là cái gì khác với sinh hoạt hằng ngày của chính mình. Qua bộ sách “Chư Thiền Đức” chúng ta thấy chân thiền phải là một loại thiền mà chúng ta có thể hành trì bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của mình. Và như vậy thiền không có bắt đầu và cũng không có chấm dứt. Nên nhớ rằng tâm hành thiền là tâm thường xuyên tự biết chính mình, nghĩa là tâm tỉnh thức, sáng suốt và vô ngại. Thiền không phải là một cái gì cách biệt với những sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, mà nó chính là tinh hoa của những sinh hoạt ấy.
Tôi rất đồng ý với đạo hữu Thiện Phúc là mục đích của người tu Phật là “Giác Ngộ và Giải Thoát” và mục đích của Thiền cũng là như vậy, cũng là giác ngộ để đi đến chỗ vô ưu, không buồn phiền, không lo âu. Và mỗi chương trong bộ sách “Chư Thiền Đức” của đạo hữu Thiện Phúc đều bao gồm cuộc đời và hành trạng của các bậc cổ đức giúp cho chúng ta một bước tiến đi gần tới giác ngộ và giải thoát. Tôi nghĩ rằng vị nào có duyên lành để mắt đọc tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy chắc chắn sẽ từng bước gặt hái được sự giác ngộ và giải thoát mọi khổ đau phiền não để đi đến niềm an lạc nhất đời. Mặc dầu kinh nghiệm Thiền thật là đặc biệt và độc đáo cho từng cá nhân. Tuy nhiên, theo ý tôi, sự hiểu biết về cuộc đời và hành trạng của Chư Thiền Đức thời xưa có thể được xem như là những hướng dẫn quí báu đưa chúng ta đến với chân lý. Và tôi vẫn hy vọng rằng những cuộc đối thoại quí báu trong những chương sách này cũng giúp ích chẳng những cho những ai mong hiểu Thiền bằng tri thức mà còn cho những người đang tham dự vào những buổi thiền tập nữa. Hơn nữa, qua cuộc đời và hành trạng của chư Thiền Đức thời xưa, hành giả tu Thiền sẽ có thể thấy được rằng trên bề mặt của kinh nghiệm chân chính, khái niệm chỉ là những phiến tuyết đang rơi trên lò lửa. Vì vậy mà hành giả chúng ta không nên chỉ một bề học lấy chương cú mà nên theo những gì thích hợp cho chúng ta như những bước để đạt đến kinh nghiệm cho chính mình.
Sau khi tham khảo xong tác phẩm, tôi thành thật cảm ơn đạo hữu Thiện Phúc đã bỏ ra rất nhiều thì giờ trong đời sống bề bộn ở Hoa Kỳ để soạn thảo và viết quyển “Chư Thiền Đức” để cống hiến cho các đọc giả hữu duyên với Phật Pháp sẽ được niềm hạnh phúc và an lạc vô biên. Đây là một công đức pháp thí khó nghĩ bàn. Tôi cũng muốn nhân đây chân thành ca ngơi tinh thần vị tha của đạo hữu Thiện Phúc, đã vì sự an lạc và hạnh phúc vô biên của chúng sanh mà bỏ ra nhiều thì giờ để viết thành tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy.
Hôm nay nhân mùa Phật Thành Đạo Phật lịch 2561 tây lịch 2017, tôi rất hoan hỷ giới thiệu tác phẩm “Chư Thiền Đức” do đạo hữu Thiện Phúc sáng tác, đến tất cả độc giả bốn phương, như một món ăn tinh thần rất quý giá và thật cần thiết cho mọi gia đình. Hy vọng tập sách về cuộc đời và hành trạng của chư Thiền Đức này trở thành Kim Chỉ Nam, có thể giúp cho các độc giả nhận được một niềm hoan hỷ, an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tiếp nhận được cốt lỏi giáo lý của đức Thế-tôn một cách dễ dàng, nhờ hiểu rõ mà thực hành được chính xác, từ đó quý vị sẽ cải thiện được đời sống tinh thần, từ thấp đến cao, từ cao đến cao hơn và sau cùng tâm hồn được mở rộng, thành tựu được đạo nghiệp một cách dễ dàng. Xin cầu chúc quý đọc giả sẽ tìm được niềm vui trong sinh hoạt với bộ “Chư Thiền Đức” do đạo hữu Thiện Phúc trước tác.
Cẩn Bút
Sa-môn Thích Chơn Thành
Introduction
Mr. Ngoc Tran, his Buddha Name Thien Phuc, is not only a Buddhist scholar, but he is also a devout practitioner who always tries his best to cultivate to achieve enlightenment and emancipation. He has an extensive knowledge of Buddhism. Thien Phuc Tran Ngoc is also the author of a series of valuable Buddhist books written in Vietnamese and English titled “Buddhism in Life” (ten volumes), “Buddhism, a religion of Peace-Joy-and Mindfulness”, “Intimate Sharings with Parents and Children”, Vietnamese-English Buddhist Dictionary (06 volumes), English-Vietnamese Buddhist Dictionary (10 volumes), A Little Journey To India, Famous Zen Masters in Vietnamese and English, Basic Buddhist Doctrines (08 volumes), Zen in Life (01 volume), the Sorrowless Flowers (03 volumes), and the Dictionary of Zen and Buddhist Terms (12 volumes).
Today, Mr. Thien Phuc Ngoc Tran brought me a draft of his work called “Zen Virtues” and asked me to write an introduction for this work. The work is written in Vietnamese and English and is very easy to understand. After reading the draft of “Zen Virtues”, I found these books were written about lives and acts of many Zen Virtues counting from Sakyamuni Buddha. All these four volumes include many good examples of living and cultivating which are worth for all of us of, the posterity, to follow. I think whoever has the opportunity to read the “Zen Virtues” will surely and easily achieve the most peaceful states of mind in the path of cultivation.
Through “Zen Virtues” we clearly see that our ancient virtues applied meditation to their daily affairs of life, and its results obtained here and now. It is not separated from the work-a-day life. It is a part and parcel of our life. We still participate in all daily activities, but remain free from the rush of city life, from nagging preoccupation with the world, this is easy to say but not easy to do; however, if we consistently practice meditation, we can do it. Any meditation we do is of immense help in enabling us to face all this with calm. And the calmness itself will in turn help us overcome all sufferings and afflictions. According to the ancient virtues, meditation is a way of living. It is a total way of living and not a partial activity. They always emphazied that the aim of Zen in developing man as a whole. Let’s strive for perfection here and in this very life, not in some golden age yet to come. Many believe that meditation is only for monks and nuns in the past, things have changed and now there is a growing interest in meditation in almost everyone. If by meditation is meant a technique of establishment of our compassionate mind and reflection of our inner mind, all should cultivate meditation irrespective of gender, age, clergy or lay.
To Zen Virtues, the practice of Zen is the surest way to mind-control and purification. Through Zen Virtues' lives and acts, ancient virtues wanted to recommend us, the future generations of practitioners, to control our body and mind at all times, not only when we sit in meditation. Our body and mind must be pure and mindful at all times. Meditation means the ending of thought; however, if we are unable to end our thought, we should try to concentrate our mind just in one thought or one object of contemplation. That means we should know what we’re thinking or what we’re doing at the present time. If we can do these in our daily activities, we surely have zen in life!
When Zen practitioners are able to watch and know ourselves, we are practicing meditation. When we know the way we walk, what and how we eat, what and how we say, that means we’re practicing meditation. When we have gossip, hate, jealousy, and deceitfulness, etc., in our mind, we know that we’re haboring these dangerous viruses, we’re practicing meditation. Thus, meditation is not something different from our daily life activities. Through “Zen Virtues”, we see that a real meditation is a kind of meditation in which we can meditate at any time in our daily life activities. And thus, meditation has no beginning nor end. We should always remember that a mind of constant awareness is a mind that is awake, intelligent and free. Meditation is not a separate thing from our daily life activities, it is the essence of our daily life activities.
I totally agree with Thien Phuc that the purpose of Buddhist practitioners is “Enlightenment and Emancipation” and the purpose of Zen is also the same, also reaching the state of mind that is without sorrow or without worry. And each chapter in Thien Phuc’s “Zen Virtues” include ancient virtues' lives and acts which help us a step approaching near to the enlightenment and emancipation. I think whoever has the opportunity to read the “Zen Virtues” will achieve the most peaceful states of mind. Although the Zen experience is especial and unique to each individual. However, in my opinion, the understanding of lives and acts of ancient Zen Virtues is considered as guides that lead us unto truths. And I still hope that precious dialogues in these chapters may be helpeful not only to those who wish to understand Zen intellectually but also to those who are participating in meditation sessions. Moreover, through lives and acts of ancient Zen Virtues, Zen practitioners will be able to see that in the face of real experience, concepts are like flakes of snow fallen on a burning fire. So, as practitioners, we should not barely study the texts but to follow whatever appropriate for us as steps to reach experience for ourselves.
After reading these volumes, I sincerely thank Mr. Thien Phuc Ngoc Tran, who sacrifice so much time in his busy life in the United States in order to be able to complete this work and contribute to our unlimited happiness and peace for all of us. This work is the unthinkable merit of giving of the Buddhadharma. I also want to take this opportunity to send my appreciation to Mr. Thien Phuc Ngoc Tran for his altruism. For the sake of all beings’ unlimited happiness and peace, he spend so much time to complete this work.
By the commemoration festival of the Buddha’s Enlightenment in the year of 2561 (2017), I am glad to introduce this great work to all readers. This is precious spiritual nourishment for everybody. After reading these three volumes, I am glad to send my personal congratulations to Ngoc Tran for these books and his laborious, detailed and extensive work in highlighting details and summarizing the beliefs, teachings and practices of Lord Sakyamuni Buddha. I am very please to praise the author’s merits for his accomplishment of this rare religious and cultural work. These books are a genuine contribution to the propagation of the Dharma. I would like to take this opportunity to highly recommend it to all Monks, Nuns, Buddhist practitioners, as well as to any readers of Buddhist texts. With the hope that each and everyone of you will possess these books and to utilize lives and acts of “Zen Virtues” as a guide to aid in your deeper study of Buddha-Dharma so that we can all have peaceful and happy lives at the present moment. As we understand the core meanings of the Buddhadharma and as we understand the exact meanings of the Dharma, we can put them into practice to improve our body and mind and, eventually to attain the Way.
Respectfully
Most Ven. Thich Chon Thanh
Lời Đầu Sách
Có người có thể đặt ra những câu hỏi như là "Thiền là cái gì và những vị Thiền sư là những ai?" và "Những cái khác biệt giữa một vị Tăng Phật giáo và một vị Thiền sư là những thứ gì?" vân vân và vân vân. Phật tử thuần thành không nên nghĩ về "Zen" như một thuật ngữ, mà nên nghĩ về nó như là một tiến trình kỷ luật tâm linh. Nếu chúng ta có thể nghĩ về "Zen" được như vậy thì những câu hỏi vừa kể trên sẽ không còn lý do để tồn tại nữa. Thật vậy, Phật giáo đề ra cho các tín đồ của mình ba tiến trình kỷ luật trong cuộc sống và cuộc tu hằng ngày. Đó là giới, định và huệ. Trong ba thứ đó, thiền định là chiếc cầu nối liền giữa giới và trí huệ giúp cho hành giả thấy rõ được thực tính của vạn hữu. Bởi vì Thiền là một phương pháp kỷ luật tâm linh chứ không phải là một triết học, Thiền đối trị một cách trực tiếp với cuộc sống hằng ngày; và đây chính là chỗ mà Thiền phát triển những đường nét đặc thù của nó. Thiền có thể được mô tả như là một hình thức huyền học, nhưng cái cách mà Thiền đối trị với kinh nghiệm thì hoàn toàn độc đáo. Thật vậy, gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình. Ngài đã ngồi kiết già suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề và cuối cùng đạt được thiền định cao nhất mà thời bấy giờ người ta gọi là giác ngộ và giải thoát. Ngài đã tuần tự chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... Như vậy Thiền bắt nguồn ngay từ thời Đức Phật và Thiền Phật Giáo thành hình từ cốt lõi của giáo lý nhà Phật.
Thiền tại Trung Hoa và những xứ Đông Á khác được thành hình sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa và ngày nay Thiền trở thành phổ cập chẳng những trong tu tập Phật giáo, mà những xứ theo Cơ Đốc giáo và Hồi giáo người ta cũng cố gắng tu tập thiền quán trong những sinh hoạt hằng ngày của họ nhằm cải thiện cuộc sống của mình. Tuy nhiên, thiền Phật giáo không dừng lại ở chỗ chỉ nhằm cải thiện đời sống, mà còn giúp con người đạt tới giác ngộ qua việc thấy được thực tánh của chân như mà người ta tin rằng không thể nào truyền đạt được qua tư tưởng, mà chỉ tìm được sự chứng ngộ thật dù đó là một cái đánh hay một tiếng cười. Ngày nay Thiền được phổ biến khắp thế giới Tây Phương và được nhiều người biết đến đến nỗi hầu như người nào cũng biết về Thiền. Thiền đưa tâm ra khỏi tâm cho đến khi một tia tuệ giác trực tiếp xuất hiện chỉ trong một khoảnh khắc nào đó. Thiền quán không phải là một pháp môn mới có hôm nay hoặc hôm qua. Từ thời xa xưa, đã có nhiều người hành thiền bằng nhiều phương cách khác nhau. Chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có sự phát triển tâm trí hay gội rửa những bợn nhơ tinh thần nào mà không nhờ đến thiền quán. Thiền quán chính là phương cách mà Thái tử Tất Đạt Đa, đức Phật, đã đạt được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thiền không dành riêng cho người Ấn Độ, cho xứ Ấn Độ hay chỉ cho thời đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại, trong tất cả mọi thời đại, và mọi nơi trên thế giới. Thiền tập không thể có giới hạn về chủng tộc, tôn giáo, không gian hay thời gian.
Cuộc sống và hành trạng của bất cứ vị Thiền sư nào cũng luôn hướng đến một trạng thái tâm thanh sạch, nơi mà mọi dục vọng và thôi thúc đều được điều phục để tâm trở nên tập trung và thể nhập vào trạng thái minh mẫn và tỉnh thức. Mọi phương pháp hành thiền của các vị Thiền sư đều gắn liền với những sinh hoạt hằng ngày của đời sống, chứ các ngài không ngồi đó tĩnh lặng để được hội nhập với bất cứ đấng tối thượng nào, cũng không nhằm đạt được chứng nghiệm huyền bí, cũng không là thôi miên. Thiền nhằm giúp tâm đạt được trạng thái vắng lặng và minh sát tuệ để tiến đến mục tiêu duy nhất là đạt được sự giải thoát không lay chuyển, đây là sự an toàn tối thượng, vượt ra ngoài mọi trói buộc, bằng cách tận diệt hoàn toàn những bợn nhơ tinh thần. Như vậy điều quan trọng trên hết là hành thiền theo Phật giáo không phải là tự nguyện lưu đày ra khỏi đời sống cũng không phải là thực hành cho kiếp sau.
Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy rằng thiền tập phải được áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, và kết quả của công phu nầy phải được hưởng tại đây, ngay trong kiếp nầy. Hành thiền không phải là tự mình tách rời hay xa lìa công việc mà thường ngày mình vẫn làm, mà thiền là một phần của đời sống, là cái dính liền với cuộc sống nầy. Đối với các vị Thiền sư, các ngài sống thiền bất cứ khi nào các ngài sống hoàn toàn với hiện tại mà không chút sợ hãi, hy vọng hay những lo ra tầm thường. Các ngài chỉ ra cho chúng ta thấy rằng với sự tỉnh thức chúng ta có thể tìm thấy thiền trong những sinh hoạt hằng ngày. Thiền không thể tìm được bằng cách khám phá chân lý tuyệt đối bị che dấu từ ngoại cảnh, mà chỉ tìm được bằng cách chấp nhận một thái độ đến với cuộc sống giới hạnh. Người ta tìm cầu giác ngộ bằng cách nỗ lực, tuy nhiên, đa số chúng ta quên rằng để đạt đến giác ngộ chúng ta phải buông bỏ. Điều này cực kỳ khó khăn cho tất cả chúng ta vì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường cố gắng thành đạt sự việc.
Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy người tu Thiền không lệ thuộc vào ngôn ngữ văn tự. Đó chính là giáo ngoại biệt truyền, chỉ thẳng vào tâm để thấy được tự tánh bên trong của tất cả chúng ta để thành Phật. Trong khi những tông phái khác nhấn mạnh đến niềm tin nơi tha lực để đạt đến giác ngộ, Thiền lại dạy Phật tánh bên trong chúng ta chỉ có thể đạt được bằng tự lực mà thôi. Thiền dạy cho chúng ta biết cách làm sao để sống với hiện tại quí báu và quên đi ngày hôm qua và ngày mai, vì hôm qua đã qua rồi và ngày mai thì chưa tới. Trong Thiền, chúng ta nên hằng giác ngộ chứ không có cái gì đặc biệt cả.
Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy với người tu Thiền mọi việc đều bình thường như thường lệ, nhưng làm việc trong tỉnh thức. Bắt đầu một ngày của bạn, đánh răng, rửa mặt, đi tiêu tiểu, tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống, làm việc... Khi nào mệt thì nằm xuống nghỉ, khi nào đói thì tìm cái gì đó mà ăn, khi không muốn nói chuyện thì không nói chuyện, khi muốn nói thì nói. Hãy để những hoàn cảnh tự đến rồi tự đi, chứ đừng cố thay đổi, vì bạn chẳng thể nào thay đổi được hoàn cảnh đâu! Thiền dạy chúng ta đoạn trừ mọi vọng tưởng phân biệt và khiến cho chúng ta hiểu rằng chân lý của vũ trụ là căn bản thật tánh của chính chúng ta. Mọi người chúng ta nên thiền định thâm sâu về vấn đề nầy, vì nó là cái mà chúng ta gọi là ‘Ngã’. Khi hiểu nó là gì, chúng ta sẽ tự động quay về hòa cùng thiên nhiên vũ trụ trong cảnh giới nhất thể, và chúng ta sẽ thấy thiên nhiên chính là chúng ta và chúng ta cũng chính là thiên nhiên, và cảnh giới thiên nhiên ấy chính là cảnh Phật, người đang thuyết pháp cho chúng ta ở mọi nơi mọi lúc. Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể nghe được thiên nhiên đang nói gì với chúng ta, để ai cũng có thể tìm về cảnh giới an lạc mà chúng ta đã một lần xa rời.
Thật tình mà nói, Thiền không có phương pháp nào đặc biệt để cho người ta học cả. Những ai muốn tu tập Thiền nên đến với một vị thầy Thiền, nhưng vị thầy này lại cũng không có sẵn khuôn mẫu giáo dục nào, bởi vì điều này là không thể nào có được trong bản chất của vạn hữu. Thiền sư chỉ giảng dạy phương cách riêng của mình hoặc là bằng cử chỉ hoặc bằng lời nói để không chấp thuận bất cứ quan điểm nào của các môn đồ có thể trình ra cho ông ta cho đến khi nào ông hoàn toàn thỏa mãn và đồng ý với họ. Trong những tập sách sau đây các bạn sẽ thấy cách mà các vị Thiền sư hướng dẫn các môn đồ của mình được ghi lại trong các ngữ lục của họ về tu tập tâm linh thì hoàn toàn độc đáo. Có lúc các vị Thiền sư đánh các đồ đệ bằng gậy, có lúc thì tát tai họ, hay đá họ lăn nhào xuống đất; lúc khác thì họ lại đưa ra những lời lẽ nghe có vẻ phi lý, hay cười nhạo, hoặc khinh miệt, châm biếm, đôi lúc thậm chí có vẻ lăng mạ, những điều này chắc chắn sẽ làm sửng sốt những ai không quen với phong cách của những vị Thiền sư này. Điều này không phải là do tánh khí nông nổi của một số Thiền sư đặc biệt nào đó; mà đúng hơn nó là sự biểu lộ tính chất đặc biệt của kinh nghiệm về Thiền, mà với tất cả phương tiện và điệu bộ có trong tay, các vị Thiền sư này nỗ lực giao tiếp với các đồ đệ đang tầm cầu chân lý của mình. Thiệt không dễ gì cho các đồ đệ có thể hiểu được kiểu giao tiếp này. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không phải là chuyện các đồ đệ hiểu được những gì từ bên ngoài, mà là thức tỉnh những gì nằm bên trong họ. Những vị Thiền sư không còn cách nào khác hơn là chỉ ra cách để cho các đồ đệ của mình được sự tỉnh thức từ bên trong. Kết quả của tất cả những điều này là không có nhiều người sẵn sàng nắm bắt được giáo lý Thiền. Nhưng nếu chúng ta thực sự muốn tu tập theo con đường mà Đức Phật đã tu tập gần 26 thế kỷ về trước thì con đường duy nhất mà chúng ta phải dẫm lên là con đường chúng ta phải lắng nghe cho được những tiếng thì thầm của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni cũng như chư Thiền đức về sau này rằng từ bỏ cuộc sống thế tục có nghĩa là từ bỏ những hành động vô tâm và cẩu thả có thể đưa đến trục trặc trong cuộc sống. Từ bỏ cuộc sống thế tục là từ bỏ sự loạn động và sự căng thẳng làm tổn hại đến hệ thần kinh của chúng ta và có thể dẫn tới trăm ngàn thứ bệnh hoạn cho thân tâm chúng ta. Từ bỏ cuộc sống thế tục không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống của chính mình, mà nó có nghĩa là chúng ta làm một cuộc hành trình hướng về nội tâm trong cuộc sống thế tục này. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thấy được chính mình như là mình, và từ đó mới có thể biết cách làm sao vượt qua những khuyết điểm và giới hạn để được mạnh mẽ hơn trong cuộc sống. Rất nhiều người trong chúng ta đã và đang đi tìm phương cách. Chúng ta nghĩ rằng mọi vấn đề đều có thể được giải quyết từ bên ngoài, chúng ta đã lầm... Hầu hết mọi vấn đề đều phát nguồn từ bên trong mà ra và chỉ có thể giải quyết được khi chúng ta cố gắng đi trở vào bên trong để thấy chính mình. Đối với người Phật tử tu thiền, nếu hành thiền có nghĩa là kỷ luật tinh thần hoặc là phương pháp trau dồi tâm trí, thì khỏi phải nói, tất cả mọi người không phân biệt giới tánh, chủng tộc, hay bất luận sự phân chia nào, đều nên hành thiền. Xã hội hiện đại đang lâm nguy trước thảm họa tự trầm mình trong những tình trạng vọng động và quyến rũ, chỉ có thể kềm chế được nếu chúng ta chịu khó rèn luyện tâm tánh của chính mình.
Thật vậy, dù có tài ba thế mấy, không ai có thể thực sự diễn tả được cốt lõi của Thiền. Quyển sách này chỉ nhằm phơi bày ra cuộc sống và hành trạng của chư Thiền đức thời xưa; và rất có thể những câu chuyện Thiền này sẽ giúp cho độc giả thấy được những phương thức đơn giản và dễ thực hành nhất cho bất cứ ai muốn tu tập, nhất là những người tại gia. Hy vọng nó sẽ phơi bày cho chúng ta cốt lõi của giáo lý nhà Phật về Thiền. Chúng ta nên bắt đầu cuộc hành trình bằng phương cách đơn giản, tìm một vị thầy và niềm tin, rồi kiên nhẫn phủ phục dưới trí tuệ của vị thầy ấy để tu tập. Rồi từ đó chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm sống Thiền cho riêng mình trong đời sống hằng ngày. Dù thích hay không thích, những phút giây hiện tại này là tất cả những gì mà chúng ta phải làm việc. Tuy nhiên, đa phần chúng ta thường hay quên chúng ta đang ở đâu. Hy vọng chúng ta có thể áp dụng thiền quán vào những sinh hoạt hằng ngày để có thể sống được những giây phút hiện tại của chính mình để không mất đi sự tiếp xúc với chính mình, từ đó chúng ta có thể chấp nhận chân lý của giây phút “này” trong cuộc sống của chính chúng ta, từ đó chúng ta có thể học hỏi để tiếp tục đi tới trong cuộc sống thật của chính chúng ta.
Đây là tập sách đầu tiên trong bộ sách bốn tập mà trong đó tác giả góp nhặt những câu chuyện về Thiền cũng như cuộc đời và hành trạng của các vị Thiền sư ở Ấn Độ buổi sơ kỳ và ở Trung Hoa cho đến thời Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Đây không phải là tác phẩm bác học về Thiền, mà chỉ là một sự sưu tập những câu chuyện về Thiền, có thể chính xác về mặt lịch sử và niên đại mà cũng có thể không chính xác. Tuy nhiên, tác giả này tin một cách mạnh mẽ rằng từng câu chuyện Thiền trong tập sách này đều có tiềm năng giúp cho hành giả tu Thiền đạt được sự "tỉnh thức," nếu không muốn dùng thuật ngữ "giác ngộ," giống với kinh nghiệm mà Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni và chư Tổ cũng như chư Thiền đức thời xưa đã từng có bởi vì do chính cuộc sống và hành trạng ấy mà Sĩ Đạt Ta thành Phật và chư Tổ chư Thiền đức đã thành những bậc "Giác Ngộ." Sau hết, với tinh thần chia xẻ, hy vọng rằng những câu chuyện này có thể giúp gợi lên cảm hứng cho những ai muốn bước trên con đường tu tập Thiền.
Cẩn đề
Thiện Phúc
PREFACE
Someone may ask such questions as "What is Zen and who are the Zen Masters?" and "What are the differences between a Buddhist monk and a Zen Masters?" and so on, and so on. Devout Buddhists should not think of "Zen" as a term, but as a process of mental discipline. If we can think of "Zen" this way, such questions will have no reasons to exist. In fact, Buddhism offers for its followers three forms of discipline in dealing with daily living and cultivation. They are morality, meditation, and wisdom. Among them, the meditation is the bridge that links morality and intuitive knowledge that helps practitioners see the true nature of things. As meditation or Zen is a discipline of mind and not a philosophy, it directly deals with daily life; and this is where Zen has developed its most characteristicfeatures. Zen may be described as a form of mysticism, but the way it handles its experience is absolutely unique. In fact, almost 26 centuries ago, after experiencing a variety of methods of cultivation without success, the Buddha decided to test the truth by self purification of his own mind. He sat cross-legged for 49 days and nights under the bodhi-tree and reached the highest meditative attainments which are now known as enlightenment and deliverance. He gradually entered the first, second, and third Jhanas. So Zen originated from the very day of the Buddha and Buddhist meditation forms the very heart and core of the Buddha’s teaching.
Zen in China and other Eastern Asian countries formed after Bodhidharma went to China and nowadays Zen becomes so popular that not only Buddhists practise it, but people from all countries including Christians and Muslims have been trying to practise Zen in their daily activities to improve their life. However, meditation in Buddhism does not stop at seeking to improve life, but it also help mankind attain enlightenment through the spontaneous understanding of the nature of reality, which it believes cannot be communicated through rational thought, but rather found in a simple brush stroke or a hearty laugh. Nowadays, Zen has spread to the Western World and has been becoming so widely known that almost everyone knows about Zen. Zen leads the mind away from the mind until the spark of direct insight appears in a simple brush stroke.Meditation is not a practice of today or yesterday. From time immemorial people have been practicing meditation in diverse ways. There never was, and never will be, any mental development or mental purity without meditation. Meditation was the means by which Siddhartha Gotama, the Buddha, gained supreme enlightenment. Meditation is not only for Indian, not for the country of India, or not only for the Buddha’s time, but for all mankind, for all times and all places in the world. The boundaries of race and religion, the frontiers of time and space, are irrelevant to the practice of meditation.
Lives and acts of any Zen master always aim at a state of mental purity where disturbing passions and impulses are subdued and calmed down so that the mind becomes concentrated and collected and enters into a state of clear consciousness and mindfulness. All methods of practicing of meditation of Zen masters stick to activities of their daily lives, not sitting in tranquility for gaining union with any supreme being, nor for bringing about mystical experiences, nor for any self-hypnosis. It is for gaining tranquility of mind (Samadhi) and insight (vipassana), for the sole purpose of attaining unshakable deliverance of the mind, that supreme security from bondage attainable through the total extirpation of all mental defilements. Therefore, the the most important thing in Buddhism is that, meditation is not a voluntary exile from life or something practiced for the hereafter.
Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that meditation should be applied to the daily affairs of life, and its results obtained here and now, in this very life. It is not separated from the daily activities. It is part and parcel of our life. For Zen masters, they are living a Zen life whenever they are wholly in the present without usual fears, hopes and distractions. They show us that with mindfulness we can find Zen in all activities of our daily life. Zen cannot be found by uncovering an absolute truth hidden to outsiders, but by adopting an attitude to life that is disciplined.
People seek enlightenment by striving; however, most of us forget that to become enlightened we must give up all striving. This is extremely difficult for all of us because in our daily life we always strive to achieve things.
Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that Zen practitioners depend on no words nor letters. It’s a special transmission outside the scriptures, direct pointing to the mind of man in order to see into one’s nature and to attain the Buddhahood. While other schools emphasized the need to believe in a power outside oneself to attain enlightenment, Zen teaches that Buddha-nature is within us all and can be awakened by our own efforts. Zen teaches us to know how to live with our precious presence and forget about yesterdays and tomorrows for yesterdays have gone and tomorrows do not arrive yet. In Zen, we should have everyday enlightenment with nothing special.
Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that with Zen practitioners everything is just ordinary; business as usual, but handling business with mindfulness. To start your day, brush your teeth, wash your face, relieve your bowels, take a shower, put on your clothes, eat your food and go to work, etc. Whenever you’re tired, go and lie down; whenever you feel hungry, go and find something to eat; whenever you do not feel like to talk, don’t talk; whenver you feel like to talk, then talk. Let circumstances come and go by themselves, do not try to change them for you can’t anyway. Zen teaches us to cut off all discriminating thoughts and to understand that the truth of the universe is ultimately our own true self. All of us should meditate very deeply on this, for this thing is what we call the ‘self’? When we understand what it is, we will have automatically returned to an intuitive oneness with nature and will see that nature is us and we are nature, and that nature is the Buddha, who is preaching to us at every moment. We all hope that all of us will be able to hear what nature is saying to us, so that we can return to the peaceful realm that we once separated.
Truly speaking, there is no specified method of studying of Zen. Those who wish to understand it should come to see a Zen master, but the latter has no stereotyped instruction to give, for this is impossible in the nature of things. A Zen master can simply express his own way either by gestures or in words his disapproval of whatever view his disciples may present to him, until he is fully satisfied and agreed with them. In the following volumes, you will see the masters' dealing with his disciples was quite unique in their records of spiritual exercises. Sometimes they struck them with a stick, sometimes slapped them in the face, or kicked them down to ground; other times they gave an incoherent ejaculation, they laughed at them, or made scornful, satirical, or sometimes even abusive remarks, which will surely shocked those who are not used to the ways of these Zen masters. This was not due to the irascible character of some particular masters; it rather came out of the peculiar nature of the Zen experience, which, with all the means verbal and gesticulatory at their command, these Zen masters endeavor to communicate to their truth-seeking disciples. It was no easy task for them to understand this sort of communication. The point was, however, not to understand what came to them from the outside, but to awaken what lies within themselves. These masters could not do anything further than indicate the way to it. In consequence of all this, there were not many who could readily grasp the teaching of Zen. But if we really would like to cultivate exactly the way that the Buddha cultivated almost 26 centuries ago, the only way that we must tread on is the way of listening to the whispers of Sakyamuni Buddha as well as later Zen virtues that tell us renouncing the worldly life does not mean to run away from life, but to face it with mindfulness. Renouncing the worldly life means renouncing mindless and careless actions which lead to problems. Renouncing the worldly life means renouncing its noisiness, its stress and strain which damage our nervous system and lead to hundreds of thousands of physical and mental illnesses. Renouncing the worldly life does not mean that we renounce our life. It means that we are making an inward journey in the worldly life. Only that we are able to see ourselves as we really are, and then we can learn to overcome the weaknesses and limitations to become stronger in life. A lot of us have been searching for solutions to our various problems in vain because of wrong approach and method. We think all problems can be solved externally, we’re wrong. Most problems are internal and can only be solved when we try to make an inward trip to see ourselves first. To Buddhist Zen practitioners, if by meditation is meant mental discipline or mind culture, it goes without saying that all should cultivate meditation irrespective of sex, color, creed or any other division. Modern society is in danger of being swamped by distractions and temptation which can only be controlled if we undertake the difficult taks of training our minds.
In fact, no matter how talented, no one can really describe the essential nature of Zen. This book is only designed to display lives and acts of Zen virtues of ancient times; and possibly these Zen stories will help giving readers the simpliest and practiceable methods for any Buddhists who want to cultivate, especially lay people. Hoping it will be able to show us the essentials and cores of the Buddha’s teaching on Zen. The original followers of Zen in China, Vietnam and Japan would embark upon their own spiritual journeys by simply choosing a teacher and with faith and trust they would patiently surrender to his wisdom. Then find for ourselves our own way of Zen in daily life. Like it or not, this very moment is all we really have to work with; however, most of us always forget what we are in. Hoping that we are able to apply meditation and contemplation in our daily activities so that we are able to to live our very moment so that we don’t lose touch with ourselves, so that we are able to accept the truth of this moment of our life, learn from it and move on in our real life.
This is the first of the four volumes in which this author gather together the Zen stories as well as lives and acts of Zen masters in India in early periods, and in China until master Lin-chi I-hsuan. This is not a work of Zen scholarship, but a collection of Zen stories which may be historically and chronologically accurate or may be not. However, this author strongly believe that each of the Zen stories in this book has the potential to help Zen practitioners attain "awakening" if we do not want to use the term "enlightenment," the same experience that Siddhartha Gautama, patriarchs, and other Zen virtues of ancient times had had because of which Siddhartha came to be called "Buddha" and Patriarchs and other Zen virtues became the "Enlightened Ones." Last but not least, with the spirit of sharing, hoping that these stories can help intriguing people to the practice of Zen.
- Từ khóa :
- Chư Thiền Đức
- ,
- Ấn Độ
- ,
- tập 1