Bilingual: 160. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

07/06/20233:41 SA(Xem: 1006)
Bilingual: 160. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

blankBilingual:
160. TELEGRAM FROM THE EMBASSY IN VIETNAM
TO THE DEPARTMENT OF STATE /
CÔNG ĐIỆN TỪ ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ TẠI VIỆT NAM
GỬI BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ

 Author: Trueheart

Translated by Nguyên Giác


us-embassy-saigon-vietnam_200-2

 

160. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

Saigon, June 9, 1963, 1 a.m.

For Hilsman from Trueheart. President received me at 5 PM this afternoon (June 8) within minutes after my request. He was throughout two hour interview entirely relaxed and friendly, and he permitted frequent interruptions in a way that is rare for him. Unfortunately, I have no reason to believe that anything I said to him moved him. Opened by giving him French text of Women’s Solidarity Movement (WSM) resolution. He read it line by line as if he had never seen it before. (Nothing he said subsequently indicated prior knowledge.) I went on to explain that I had been profoundly disappointed to see this resolution. I had understood that GVN commission under Vice President had achieved large measure of agreement with Buddhist leaders on their demands (late in conversation he himself summarized terms of agreement very much as Thuan had given them to me), and that among other things it had been understood that there would be a truce (detente) on propaganda from both sides pending final settlement. WSM resolution seemed to me a violation of this. I wanted therefore to ask if he would disavow it, would dissociate GVN from it. I feared that otherwise we might see renewal of agitation and demonstrations bringing on government repressive measures and in effect loss of all that had been achieved in past week. I pointed out also that if this came to pass my government would very likely consider that GVN was at fault and would have to dissociate itself from GVN actions—as it had already done in denying that USAF planes had been used in lifting troops to Hue (Diem confirmed that he had read Department’s statement).

Diem said at once that he could not disavow WSM resolution. In light of his later remarks, I fear that the general sentiments of resolution are close to his own. However, he limited himself to saying that it was necessary to warn people against extremists who were misusing affair to further their own interests. (He rarely referred to VC in frequent repetitions of this theme.)

I then turned to report I had from Helble that Buddhists still in pagoda at Hue were not being allowed to receive food or medical attention from outside. Diem said he was sure this could not be true and he promptly telephoned Minister of Interior and asked for report. It had not been received by time I left. (Helble subsequently reported that some food was brought into pagoda late this morning but no doctors had entered permitted or not.)

I also said I had heard reports that GVN planes had dropped leaflets over Hue yesterday which had agitated populace. I was not sure of facts but wondered if he knew of it. Diem said he did not and was sure report was incorrect. Helble subsequently informed me that leaflets were in fact dropped and that one of them consisted of strong attack on bonze Tri Quang—generally considered leader of Hue demonstrations-followed by passage demanding [arrest?] of bonze Khiet—octogenarian nominal leader—who is really in charge. This sounds rather more inflammatory than WSM resolution and I shall follow up.

Remainder of conversation consisted largely of Diem’s exposition of GVN position. Main points of this are outlined below. In general, it was a hard line and, although he said he was ready to continue talks with Buddhists, neither his attitude nor his words suggested that he saw this as solution. at least until Buddhists “found themselves isolated”.

Diem considers that Buddhists have themselves violated propaganda truce. Many bonzes, he said, are continuing to distribute tracts and to pass out tendentious information to foreign press. He brushed aside my argument that there has not been time for word to filter down on Buddhists’ side and charged that Bonze Thich Minh (principal negotiator from Hue) was passing out line that government has capitulated.

At one point in long conversation, Diem charged in terms [sic] that Buddhists had been negotiating in bad faith.

Diem also believes that troubles in Hue stem primarily from ineptitude of local GVN officials. But fault is not their actions on May 8 but rather that prior to that date they had given too much encouragement to “certain” Buddhist elements. Thereafter their delinquencies consisted in not carrying out effective security measures and in not filing prompt reports on what had happened. It was not until May 24, for example, that chief medical official completed report showing that May 8 deaths resulted from concussion rather than fragmentation grenades.

I asked Diem if he was saying that, if disturbances resumed, stronger measures should be used. He replied “the necessary measures”. Public order had of course to be maintained. He went on to say things which suggested to me that he believes that improved situation in last few days is result of more effective security measures. He may of course be right but, in any event, he is clearly giving higher priority to security measures than to negotiations for immediate future.

In course of discussion I used every argument I could muster to persuade him that only satisfactory solution, at least from US point of view, was peaceful one, through negotiations. I also said quite flatly that, in my opinion, author of resolution (well known to both of us to be Madame Nhu) was seeking to undermine agreement already reached. Finally, I expressed resentment at reference in resolution to “those inclined to take Vietnam for a satellite of a foreign power”. This phraseology, I said, we had learned to translate as “USA”. All this he received with equanimity.

At end of meeting I repeated arguments used at beginning and asked him to reconsider question of disavowing resolution. He did not reply-and this is only possibly bright spot I have to report.

For the moment, I would recommend that Department make no statement and that we watch events for a day or so. It may be that Diem will react belatedly to my arguments today—he sometimes does. Or it may be that WSM resolution will not have effect on negotiations that I anticipate. In any event, there seems to be no advantage in precipitate action. I will of course be doing what I can with Thuan to try to keep negotiations on the track.

Trueheart

 

Source:

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v03/d160

 

.... o ....

 

160. CÔNG ĐIỆN TỪ ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ TẠI VIỆT NAM GỬI BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ

 

Sài Gòn, ngày 9 tháng 6 năm 1963, 1 giờ sáng

 

Gửi Hilsman, từ Trueheart. Tổng Thống [Diệm] đã tiếp tôi lúc 5 giờ chiều nay (8 tháng 6) trong vòng vài phút sau khi tôi yêu cầu. Diệm đã trải qua suốt hai giờ phỏng vấn hoàn toàn thoải máithân thiện, và Diệm thường xuyên cho phép bị gián đoạn theo một cách hiếm thấy đối với ông ta. Thật không may, tôi không có lý do gì để tin rằng bất cứ điều gì tôi nói với Diệm đều khiến Diệm cảm động. Mở đầu bằng cách đưa cho Diệm văn bản tiếng Pháp về nghị quyết của Phong trào Liên đới Phụ nữ (WSM). Diệm đọc nó từng dòng một như thể Diệm chưa từng thấy nó trước đây. (Không có gì Diệm nói sau đó chỉ ra đã biết trước đó.) Tôi tiếp tục giải thích rằng tôi vô cùng thất vọng khi thấy giải pháp này. Tôi đã hiểu rằng ủy ban Chính phủ Việt Nam dưới quyền Phó Tổng thống [Thơ] đã đạt được sự đồng thuận lớn với các nhà lãnh đạo Phật giáo về các yêu cầu của họ (về cuối cuộc trò chuyện, chính ông Diệm đã tóm tắt các điều khoản của thỏa thuận rất giống như Thuần đã đưa chúng cho tôi), và ngoài những điều khác, nó đã được hiểu rằng sẽ có một thỏa thuận ngưng chỉ trích nhau về tuyên truyền từ cả hai bên trong khi chờ giải quyết cuối cùng. Nghị quyết của Phong trào Liên đới Phụ nữ WSM đối với tôi dường như vi phạm điều này. Do đó, tôi muốn hỏi liệu Diệm có từ chối nó không, có tách Chính phủ Việt Nam ra khỏi nó không. Tôi sợ rằng nếu không, chúng ta có thể chứng kiến sự lập lại kích động và biểu tình dẫn đến các biện pháp đàn áp của chính phủ và thực tế là mất đi tất cả những gì đã đạt được trong tuần qua. Tôi cũng chỉ ra rằng nếu điều này xảy ra, chính phủ Hoa Kỳ rất có thể sẽ cho rằng Chính phủ Việt Nam có lỗi và sẽ phải tự tách mình ra khỏi các hành động của Chính phủ Việt Nam—như họ đã làm khi phủ nhận việc máy bay của Không quân Hoa Kỳ đã được sử dụng để chuyển quân đến Huế (Ông Diệm xác nhận đã đọc bản tường trình của Bộ [Ngoại Giao Mỹ]).

Diệm nói ngay rằng ông không thể bác bỏ nghị quyết phụ nữ WSM. Dựa trên những nhận xét sau này của Diệm, tôi e rằng quan điểm chung của bản nghị quyết của phong trào phụ nữ WSM gần giống với quan điểm của Diệm. Tuy nhiên, ông Diệm chỉ giới hạn ở việc nói rằng cần phải cảnh báo mọi người chống lại những phần tử cực đoan đang lợi dụng để trục lợi riêng. (Diệm hiếm khi nhắc đến VC khi thường xuyên lặp lại chủ đề này.)

Sau đó tôi chuyển sang báo cáo mà tôi nhận được từ Helble rằng các Phật tử còn ở trong chùa ở Huế không được phép nhận thực phẩm hoặc chăm sóc y tế từ bên ngoài. Ông Diệm nói rằng ông chắc chắn điều này không thể là sự thật và ông đã nhanh chóng điện thoại cho Bộ trưởng Nội vụ và yêu cầu báo cáo. Nó đã không được nhận bởi thời gian tôi rời đi. (Helble sau đó báo cáo rằng một số thực phẩm đã được mang vào chùa vào cuối buổi sáng nay nhưng không có bác sĩ nào được phép vào hay không).

Tôi cũng nói rằng tôi đã nghe báo cáo rằng máy bay của Chính phủ Việt Nam đã thả truyền đơn xuống Huế ngày hôm qua khiến dân chúng bị kích động. Tôi không chắc chắn về sự thật nhưng tự hỏi liệu Diệm có biết điều đó không. Ông Diệm nói rằng ông không biết và chắc chắn rằng bản báo cáo là không chính xác. Helble sau đó cho tôi biết rằng truyền đơn đã được thả trên thực tế và một trong số đó bao gồm cuộc tấn công mạnh mẽ vào nhà sư Trí Quang—thường được coi là lãnh đạo của các cuộc biểu tình ở Huế—tiếp theo là đoạn văn yêu cầu [bắt giữ?] nhà sư Tịnh Khiết—nhà lãnh đạo trên danh nghĩa đã 80 tuổi—người thực sự là phụ trách. Điều này [truyền đơn đòi bắt các nhà sư] nghe có vẻ kích động hơn so với bản nghị quyết của phụ nữ WSM và tôi sẽ theo dõi.

Phần còn lại của cuộc trò chuyện bao gồm phần lớn việc Diệm trình bày lập trường của Chính phủ Việt Nam. Những điểm chính của điều này được nêu dưới đây. Nói chung, đó là một đường lối cứng rắn và, mặc dù ông nói rằng ông sẵn sàng tiếp tục nói chuyện với các Phật tử, cả thái độ lẫn lời nói của ông đều không cho thấy rằng ông coi đây là giải pháp, ít nhấtcho đến khi Phật tử “thấy mình bị cô lập”.

Diệm cho rằng chính Phật tử đã vi phạm tuyên truyền ngưng công kích nhau. Ông nói, nhiều tu sĩ đang tiếp tục phân phát các truyền đơn và chuyển thông tin kích động cho báo chí nước ngoài. Ông gạt lập luận của tôi sang một bên rằng không có thời gian để gạn lọc lời từ phía Phật tửbuộc tội rằng nhà sư Thích Thiện Minh (trưởng đoàn đàm phán từ Huế) đã đưa ra đường lối mà chính phủ đã nhượng bộ.

Tại một thời điểm trong cuộc trò chuyện dài, ông Diệm đã buộc tội [sic: nguyên văn] rằng các Phật tử đã thương lượng một cách thiếu thiện chí.

Diệm cũng tin rằng những rắc rối ở Huế bắt nguồn chủ yếu từ sự kém cỏi của các quan chức chính phủ địa phương. Nhưng lỗi không phải là hành động của họ vào ngày 8 tháng 5 mà là trước ngày đó họ đã khuyến khích quá nhiều cho “một số thành phần” Phật giáo. Sau đó, các hành vi phạm pháp của họ bao gồm việc không thực hiện các biện pháp an ninh hiệu quả và không nộp báo cáo kịp thời về những gì đã xảy ra. Chẳng hạn, phải đến ngày 24 tháng 5, quan chức y tế trưởng mới hoàn thành báo cáo cho thấy rằng các trường hợp tử vong ngày 8 tháng 5 là do va chạm (concussion) chứ không phải do miểng lựu đạn (fragmentation grenades).

Tôi hỏi ông Diệm có nói rằng nếu bạo loạn tiếp diễn thì nên dùng biện pháp mạnh hơn. Ông trả lời "các biện pháp cần thiết". Tất nhiên, trật tự công cộng phải được duy trì. Diệm tiếp tục nói những điều gợi ý cho tôi rằng Diệmy tin rằng tình hình được cải thiện trong vài ngày qua là kết quả của các biện pháp an ninh hiệu quả hơn. Tất nhiên, Diệm có thể đúng, nhưng trong mọi trường hợp, rõ ràng Diệm đang ưu tiên các biện pháp an ninh hơn là các cuộc đàm phán cho tương lai trước mắt.

Trong quá trình thảo luận, tôi đã sử dụng mọi lý lẽ có thể thu thập được để thuyết phục ông Diệm rằng giải pháp thỏa đáng duy nhất, ít nhất là theo quan điểm của Hoa Kỳ, là giải pháp hòa bình thông qua đàm phán. Tôi cũng đã nói khá thẳng thắn rằng, theo ý kiến của tôi, tác giả của bản nghị quyết của phụ nữ (cả hai chúng tôi đều biết là bà Nhu) đang tìm cách phá hoại thỏa thuận đã đạt được. Cuối cùng, tôi bày tỏ sự bất bình khi quy chiếu trong nghị quyết tới “những người có xu hướng coi Việt Nam là vệ tinh của một cường quốc nước ngoài”. Cụm từ này, tôi đã nói, chúng tôi đã học cách dịch là “Hoa Kỳ”. Tất cả điều này Diệm đã nhận được với sự bình tĩnh.

Vào cuối cuộc họp, tôi lặp lại các lập luận được sử dụng lúc đầuyêu cầu Diệm xem xét lại câu hỏi về giải pháp bác bỏ nghị quyết. Diệm không trả lời - và đây có thể là điểm nổi bật duy nhất mà tôi phải báo cáo.

Hiện tại, tôi khuyên Bộ [Ngoại Giao Hoa Kỳ] đừng đưa ra tuyên bố nào và chúng ta nên theo dõi các sự kiện trong khoảng một ngày. Có thể hôm nay ông Diệm sẽ phản ứng muộn màng trước những lập luận của tôi - đôi khi ông Diệm phản ứng như vậy. Hoặc có thể nghị quyết WSM sẽ không ảnh hưởng đến các cuộc đàm phán mà tôi dự đoán. Trong mọi trường hợp, dường như không có lợi gì trong hành động vội vã. Tất nhiên tôi sẽ làm những gì có thể với Thuần để cố gắng duy trì các cuộc đàm phán [giữa PG với chính phủ].

Trueheart (Quyền Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)

 

.... o ....

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
24/08/2015(Xem: 10432)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.