Bilingual: 166. From the Embassy: than phiền vì kỳ thị tôn giáo / grievance at religious discrimination

10/06/20233:36 SA(Xem: 1770)
Bilingual: 166. From the Embassy: than phiền vì kỳ thị tôn giáo / grievance at religious discrimination

 

blankBilingual:
166. FROM THE EMBASSY:
THAN PHIỀN VÌ KỲ THỊ TÔN GIÁO /
GRIEVANCE AT RELIGIOUS DISCRIMINATION

Author: Trueheart

Translated by Nguyên Giác


us-embassy-saigon-vietnam_200-2

 

166. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

Saigon, June 11, 1963, 7 p.m.

1155.

A. following are factors in current Buddhist situation as we currently see it:

Buddhists

1.

Buddhist demonstrations and opposition to GVN began as reaction to specific GVN limitations on religious expression (i.e., flying of Buddhist flags outside pagoda premises). Whether Buddhist reaction was spontaneous or premeditated is not clear; however, those actions in fact articulated long-standing Buddhist sense of grievance at religious discrimination. By now Buddhist actions have taken on political significance, partly because of GVN’s slowness to react politically to Buddhist demands, speed with which it has exercised repressive measures, transparent attempts of GVN to draw up “spontaneous” expression of Buddhist support, and opportunity issue provided to other dissatisfied elements to express opposition to GVN. While Buddhists still seeking largely religious ends, fact is that Buddhist leaders question GVN’s intentions and sincerity to such degree that some of them beginning question whether GVN as presently constituted will ever bring them satisfaction.

2.

Buddhist actions have not all been above reproach. Although to Embassy’s knowledge, they are still seeking satisfaction only on their five demands, sufficient momentum may have developed behind their protest movement so that five demands will themselves be given liberal interpretation or be overtaken by larger and more extensive demands. Some Buddhists are reportedly talking about bringing about overthrow of GVN. In addition Buddhists have not respected propaganda truce but have been distributing tracts, encouraging further demonstrations, and sought to enlist foreign press in their cause.

3.

There is no evidence that any specific political group is behind Buddhist unrest. On contrary, there is evidence that Buddhists have resisted temptation enlist aid political opposition groups and that in fact have repelled effort by such groups to jump on bandwagon overtly. Similarly, there is no evidence that VC are exerting any direct influence on Buddhists at this juncture; there is, however, some evidence that VC are waiting expectantly in wings for propitious moment to exploit situation politically and/or militarily.

4.

Opposition to GVN’s position has tended to unify Buddhist groups; moreover, there is evidence that Buddhists are trying at least inform, if not organize, rural population in bid for their support. Their reasonably successful resistance to GVN without serious punishment so far has given them confidence. Thus, it is quite possible that Buddhists will press GVN beyond five demands. What is not so certain, however, is whether Buddhist groups sufficiently organized and cohesive to back any agreement reached by Buddhist leaders negotiating with GVN.

.

.

GVN

1.

In early stages “Buddhist revolt” GVN undoubtedly misjudged strength Buddhist emotions and determination and thought Buddhists would bow quickly to forceful measures.

2.

Constructive steps taken by GVN have come too slowly to have maximum impact on Buddhists, and such steps have been taken only under pressure of events or at strong US urging. GVN has at times given impression of being divided within itself on how to cope with Buddhists.

3.

GVN from beginning has regarded Buddhist “revolt” as political problem and politically motivated since potential threat it poses to regime is political. In this regard, GVN finds itself in quandary, which to some extent explains its slow and uncertain actions to placate Buddhists, its tendency to use forceful measures to restore status quo, and [Page 380]even Mme. Nhu’s unhelpful statement. GVN realizes that giving satisfaction to Buddhists could (a) lead to further Buddhist demands and (b) temptations on part of other groups to follow Buddhist example.

B. At this moment, we believe there is still some chance that GVN will come to satisfactory terms with Buddhists. This will depend on whether dialogue between two parties can be maintained and whether it succeeds in dispelling suspicion and distrust on both sides. Even assuming that agreement can now be reached—and that Buddhist leaders can rally rank and file support for it—Buddhist revolt and GVN’s record of response to it will leave mark in terms further gap in communication between GVN and people, as well as in terms GVN fear that similar trouble will pop up elsewhere.

It is in context possibility that two parties can come to terms that GVN will be most receptive to suggestions under parts A and B of Deptel 1196. Regarding part A, suggestions (1) and (2) have already been raised informally with Thuan, who indicated that GVN exploring what action feasible on Decree 10 and that no official GVN commemoration planned for Pope John. We would be reluctant pass on suggestion (3) which certain to irritate GVN but unlikely have any important benefits, if accepted, since we doubt seriously that public understands Personalism or its background sufficiently for soft-pedalling it to have any impact. Re (4), I will suggest to General Harkins that he explore ways and means to raise this with GVN.

Suggestions under part B are of course for longer term. Their implementation now unlikely aid current situation materially, since any impact would take time. We concerned at suggestion (3) under part B, since it implies “packing the Assembly” with US blessing; also, given nature Assembly, Buddhists likely consider Assembly monks as kept men. Further, we question whether good idea deliberately mix religion and politics. We will explore how handle this one, but inclined believe we should go no further than suggesting that GVN consider feasibility of monks presenting candidacies for Assembly.

Above estimate was prepared prior self-cremation incident and today’s talk with Thuan. If dialogue between GVN and Buddhists breaks down or becomes harsher GVN likely be unwilling take actions Buddhist could interpret as weakness. For example, in connection with suggestion regarding monks in National Assembly, believe we cannot rule out possibility that if Buddhist unrest continues, Diem will postpone Assembly elections altogether or carry them out in “safe” areas of country.

Appreciate Department’s effort in preparing background study on Buddhism in Vietnam. Would like examine it before deciding to ask for Heavner WG’s services.

Trueheart

 

Source:

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v03/d166

 

.... o ....

 

166. CÔNG ĐIỆN TỪ ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ TẠI VN
GỬI BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ

 

Sài Gòn, 11 tháng 6, 1963, 7 giờ tối.

 

1155.

 

A. Sau đây là những yếu tố trong tình hình Phật giáo hiện nay như chúng ta thấy hiện nay:

        

Phía Phật Tử     

1.

Các cuộc biểu tình của Phật giáođối kháng Chính phủ bắt đầu như một phản ứng đối với những hạn chế cụ thể của Chính phủ Việt Nam về biểu hiện tôn giáo (tức là treo cờ Phật giáo bên ngoài khuôn viên chùa). Không rõ liệu phản ứng của Phật giáo là tự phát hay được tính toán trước; tuy nhiên, những hành động đó trên thực tế đã nói lên cảm giác bất bình lâu đời của Phật giáo đối với sự phân biệt tôn giáo. Cho đến nay, các hành động của Phật giáo đã mang ý nghĩa chính trị, một phần là do Chính phủ Việt Nam phản ứng chậm chạp về mặt chính trị đối với các yêu cầu của Phật giáo, tốc độ thực hiện các biện pháp đàn áp, các nỗ lực minh bạch của Chính phủ Việt Nam nhằm đưa ra biểu hiện ủng hộ Phật giáo một cách “tự phát”, và vấn đề cơ hội được cung cấp đến các phần tử bất mãn khác để bày tỏ sự phản đối chính phủ. Trong khi các Phật tử phần lớn vẫn tìm kiếm các mục đích tôn giáo, thì thực tế là các nhà lãnh đạo Phật giáo đặt câu hỏi về ý định và sự chân thành của Chính phủ Việt Nam đến mức một số người trong số họ bắt đầu đặt câu hỏi liệu Chính phủ như hiện nay được thành lập có bao giờ mang lại cho họ sự hài lòng hay không.

2.

Các hành động của Phật giáo không phải là tất cả những điều đáng chê trách. Mặc dù theo hiểu biết của Đại sứ quán, họ vẫn chỉ tìm kiếm sự hài lòng đối với năm yêu cầu của mình, động lực đủ mạnh có thể đã phát triển đằng sau phong trào phản kháng của họ để bản thân năm yêu cầu sẽ được giải thích tự do hoặc bị vượt qua bởi những yêu cầu lớn hơn và rộng rãi hơn. Một số Phật tử được cho là đang nói về việc lật đổ Chính phủ Việt Nam. Ngoài ra, các Phật tử đã không tôn trọng thỏa thuận ngưng tấn công về tuyên truyền, nhưng đã phân phát các truyền đơn, khuyến khích các cuộc biểu tình tiếp theo, và tìm cách lôi kéo báo chí nước ngoài cho chính nghĩa của họ. 

3.

Không có bằng chứng cho thấy bất kỳ nhóm chính trị cụ thể nào đứng đằng sau tình trạng bất ổn của Phật giáo. Ngược lại, có bằng chứng cho thấy Phật tử đã chống lại sự cám dỗ tranh thủ viện trợ của các nhóm đối lập chính trị và trên thực tế đã đẩy lùi nỗ lực nhảy vào phong trào công khai của các nhóm như vậy. Tương tự như vậy, không có bằng chứng nào cho thấy VC đang gây bất kỳ ảnh hưởng trực tiếp nào đối với Phật tử vào thời điểm này; tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy VC đang chờ đợi thờithuận lợi để khai thác tình hình về mặt chính trị và/hoặc quân sự.

4.

Sự phản đối lập trường của Chính phủ Việt Namxu hướng thống nhất các nhóm Phật giáo; hơn nữa, có bằng chứng cho thấy các Phật tử đang cố gắng ít nhấtthông báo, nếu không phải là tổ chức, dân cư nông thôn để kêu gọi sự ủng hộ của họ. Sự kháng cự thành công hợp lý của họ đối với Chính phủ Việt Nam mà không bị trừng phạt nghiêm trọng cho đến nay đã mang lại cho họ sự tự tin. Vì vậy, rất có thể Phật tử sẽ thúc ép Chính phủ Việt Nam vượt quá năm yêu cầu. Tuy nhiên, điều không chắc chắn là liệu các nhóm Phật giáo có đủ tổ chức và gắn kết để ủng hộ bất kỳ thỏa thuận nào mà các nhà lãnh đạo Phật giáo đàm phán với Chính phủ Việt Nam hay không.

.

.

Phía Chính Phủ         

1.

Trong giai đoạn đầu “Phật giáo nổi dậy” chắc chắn Chính phủ Việt Nam đã đánh giá sai sức mạnh, tình cảm và quyết tâm của Phật tử và nghĩ rằng Phật tử sẽ nhanh chóng cúi đầu trước các biện pháp mạnh mẽ.

2.

Các bước đi mang tính xây dựng do Chính phủ Việt Nam thực hiện diễn ra quá chậm để có tác động tối đa đến Phật tử, và những bước đi như vậy chỉ được thực hiện dưới áp lực của các sự kiện hoặc dưới sự thúc giục mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Chính phủ Việt Nam đôi khi có ấn tượng là bị chia rẽ trong nội bộ về cách đối phó với các Phật tử.

3.

Chính phủ Việt Nam ngay từ đầu đã coi “nổi dậy” của Phật giáovấn đề chính trị và có động cơ chính trị vì mối đe dọa tiềm ẩn mà nó gây ra cho chế độ là chính trị. Về vấn đề này, Chính phủ Việt Nam thấy mình rơi vào tình thế khó khăn, điều này phần nào giải thích cho những hành động chậm chạp và không chắc chắn của họ nhằm xoa dịu Phật tử, xu hướng sử dụng các biện pháp mạnh mẽ để khôi phục hiện trạng, và thậm chí ngay cả bản Tuyên bố vô ích của bà Nhu. Chính phủ Việt Nam nhận ra rằng việc mang lại sự hài lòng cho Phật tử có thể (a) dẫn đến các yêu cầu của Phật tử hơn nữa và (b) cám dỗ một số nhóm khác noi theo gương Phật giáo.

.

B. Tại thời điểm này, chúng tôi tin rằng vẫn còn một số cơ hội để Chính phủ Việt Nam đạt được những điều khoản thỏa đáng với Phật tử. Điều này sẽ phụ thuộc vào việc liệu đối thoại giữa hai bên có thể được duy trì hay không và liệu nó có thành công trong việc xóa tan nghi ngờmất lòng tin ở cả hai bên hay không. Ngay cả khi giả sử rằng bây giờ có thể đạt được thỏa thuận—và các nhà lãnh đạo Phật giáo có thể tập hợp cấp bậc và ủng hộ nó—cuộc nổi dậy của Phật giáo và hồ sơ phản ứng của Chính phủ Việt Nam đối với nó sẽ để lại dấu ấn về khoảng cách xa hơn trong giao tiếp giữa Chính phủ và người dân, cũng như về mặt Chính phủ Việt Nam sợ rằng rắc rối tương tự sẽ xuất hiệnnơi khác.

Trong bối cảnh có khả năng hai bên có thể đi đến thỏa thuận rằng Chính phủ Việt Nam sẽ dễ tiếp thu nhất đối với các đề xuất theo phần A và B của bản văn Deptel 1196. Về phần A, các đề xuất (1) và (2) đã được nêu ra một cách không chính thức với [Bộ Trưởng Nguyễn Đình] Thuần, người chỉ ra rằng Chính phủ Việt Nam đang nghiên cứu những hành động khả thi đối với Nghị định 10 (Dụ số 10) và rằng không có lễ tưởng niệm chính thức nào của Chính phủ Việt Nam được lên kế hoạch cho Giáo hoàng John. Chúng tôi sẽ miễn cưỡng thông qua đề xuất (3) chắc chắn sẽ gây khó chịu cho Chính phủ Việt Nam nhưng không chắc có bất kỳ lợi ích quan trọng nào, nếu được chấp nhận, vì chúng tôi thực sự nghi ngờ rằng công chúng có hiểu Chủ nghĩa Nhân vị hoặc nền tảng của nó đủ để tạo ra bất kỳ tác động nào. Về (4), tôi sẽ đề nghị với Tướng Harkins (Tư lệnh MACV) rằng ông ấy nên tìm hiểu các cách thức và phương tiện để nêu vấn đề này với Chính phủ Việt Nam.

Tất nhiên, các đề xuất trong phần B là dài hạn hơn. Việc thực hiện chúng giờ đây khó có thể hỗ trợ về mặt vật chất cho tình hình hiện tại, vì bất kỳ tác động nào cũng cần có thời gian. Chúng tôi lo ngại về gợi ý (3) trong phần B, vì nó ngụ ý “đưa người vào Quốc hội” với sự chúc lành của Hoa Kỳ; Ngoài ra, do bản chất của Quốc hội VN, Phật tử có thể coi Phật tử trong Quốc hội là những người đàn ông bị giam giữ. Hơn nữa, chúng tôi đặt câu hỏi liệu ý tưởng hay có cố tình trộn lẫn tôn giáo và chính trị hay không. Chúng tôi sẽ khám phá cách giải quyết vấn đề này, nhưng chúng tôi tin rằng chúng tôi không nên đi xa hơn là đề nghị Chính phủ Việt Nam xem xét tính khả thi của việc mời các nhà sư ứng cử vào Quốc hội.

Ước tính trên được chuẩn bị trước vụ tự thiêucuộc nói chuyện hôm nay với Thuần. Nếu cuộc đối thoại giữa Chính phủ Việt NamPhật tử bị phá vỡ hoặc trở nên khắc nghiệt hơn, Chính phủ Việt Nam có thể sẽ không sẵn sàng thực hiện các hành động mà Phật giáo có thể coi là yếu kém. Ví dụ, liên quan đến đề xuất liên quan đến "bầu" các nhà sư vào trong Quốc hội, chúng ta tin rằng chúng ta không thể loại trừ khả năng nếu tình trạng bất ổn của Phật giáo tiếp tục, Diệm sẽ hoãn lại toàn bộ cuộc bầu cử Quốc hội hoặc thực hiện chúng ở những khu vực “an toàn” của đất nước.

Đánh giá cao nỗ lực của Bộ trong việc chuẩn bị nghiên cứu cơ bản về Phật giáoViệt Nam. Muốn kiểm tra nó trước khi quyết định yêu cầu các dịch vụ của Heavner WG.

Trueheart (Quyền Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)

 

.... o ....

 







Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
24/08/2015(Xem: 11127)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.