Bilingual: 180. From the Embassy: Diem suffered severe loss of confidence in Vietnam / TT Diệm mất sự tin tưởng từ dân VN

18/06/20233:42 SA(Xem: 1416)
Bilingual: 180. From the Embassy: Diem suffered severe loss of confidence in Vietnam / TT Diệm mất sự tin tưởng từ dân VN

 

blankBilingual:

180. FROM THE EMBASSY:
DIEM SUFFERED SEVERE LOSS OF CONFIDENCE IN VIETNAM /
TỔNG THỐNG DIỆM MẤT SỰ TIN TƯỞNG TỪ DÂN VIỆT NAM

Author: Trueheart
Translated by Nguyên Giác

  

us-embassy-saigon-vietnam_200-2


180. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

Saigon, June 19, 1963, noon.

1209.

I called on Vice President Tho June 18 to congratulate him on success his mission in reaching agreement with Buddhists. He seemed genuinely to appreciate the gesture.

In course of conversation, Tho acknowledged that negotiations had been quite difficult. He denied, however, that Buddhist demands had gone so far as in effect to amount to demand that Buddhism become “established” church Vietnam. (British Ambassador had gotten this impression from his separate talk with Tho.) Vice President said that he thought Buddhists were satisfied with results and that if there were no misunderstandings (malentendus) in implementing agreement, there should be no further trouble. However, he made it clear that he thought there was considerable possibility of misunderstandings. For example, when I said I had been pleased to see that the communique provided for continuation of his commission to supervise implementation and asked how this would be accomplished, he said that complaints would be referred to commission and that Minister of Interior (member of commission) had all the means necessary to deal with them, provided he had the necessary support from above. Tho was obviously not sure that he would.

Vice President asked me whether I thought agreements were fair, and I said I thought they were. However, it seemed to me that they should be regarded by government as point of departure, rather than conclusion of a difficult episode. I thought that events since May 8 had left deep and widespread scars and that government had suffered severe loss of support in all important segments of population. Question now was whether government would conclude danger had passed and draw back and tighten up or whether it would move forward with actions to restore lost confidence. This I thought would require not only faithful carrying out of agreement but concessions to other grievances. Unfortunately, I said, such indications as had yet appeared suggested tightening up. Vice President nodded throughout this but limited himself to saying that I “understood the problem well”.

Earlier in the day, I talked to Thuan along much the same lines, only more bluntly. I told him that, in my opinion, President had not only suffered severe loss confidence in Vietnam but also in Washington. I also spelled out for him, as I had not done for Vice President, indications which led me to believe that there was at least strong pressure on the President to tighten up. I mentioned the anomalous meeting at headquarters of Women’s Solidarity Movement on the morning of announcement of agreement at which tape recordings of June 7 resolution had been read. I cited news reports in Times of Vietnam June 17 which sought to place “responsibility for hysteria which has been created in past week squarely on shoulders of those who for undisclosed reasons delayed final signing,” and another statement that, although communique states that those supporting Buddhists’ 5 demands will benefit from Presidential clemency, “there is no clear agreement to absolve completely those who provoked the affairs of the last two weeks.” I pointed out also that we had solid evidence that certain elements of security forces were devoting their major attention to activities and movements of Americans rather than VC or Buddhists. Finally I cited specific incident of apparent harassment of American (see separate CAS telegram). Thuan asked me what sort of further GVN concessions I had in mind. I replied that it would not be difficult to produce specific suggestions but I thought it would be better if GVN came up with ideas of its own. Specific suggestions from US would, I feared, be tainted in GVN mind. One area which immediately suggested itself, however, was that of justice, viz., bringing long-detained prisoners to trial, etc.

Thuan indicated agreement with my analysis of problem but did not otherwise react.

Unless Department has objection, I shall push along on these lines as I am able to find opportunities to do so.

Trueheart

 

Source:

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v03/d180

 

.... o ....

 

 

180. CÔNG ĐIỆN TỪ ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ TẠI VN
GỬI BỘ NGOẠI GIAO

 

Sài Gòn, trưa ngày 19 tháng 6 năm 1963.

 

1209.

Tôi đã gọi điện cho Phó Tổng Thống [Nguyễn Ngọc] Thơ vào ngày 18 tháng 6 để chúc mừng ông đã thành công trong sứ mệnh đạt được thỏa thuận với Phật tử. Thơ dường như thực sự đánh giá cao cử chỉ đó.

Trong cuộc trò chuyện, Thơ thừa nhận rằng đàm phán khá khó khăn. Tuy nhiên, Thơ phủ nhận rằng các yêu cầu của Phật giáo đã đi xa đến mức đòi hỏi Phật giáo phải trở thành giáo hội “đã được thành lập [lâu đời]” ở Việt Nam. (Đại sứ Anh quốc đã có ấn tượng này từ cuộc nói chuyện riêng với Thơ.) Phó Tổng thống nói rằng ông nghĩ Phật tử hài lòng với kết quả và nếu không có sự hiểu lầm trong việc thực hiện thỏa thuận, thì sẽ không có rắc rối nào nữa. Tuy nhiên, Thơ nói rõ rằng Thơ nghĩ rằng có khả năng đáng kể về sự hiểu lầm. Ví dụ, khi tôi nói rằng tôi rất vui khi thấy rằng thông cáo quy định về việc ủy ban của Thơ sẽ tiếp tục giám sát việc thực hiện và hỏi điều này sẽ được thực hiện như thế nào, Thơ nói rằng các khiếu nại sẽ được chuyển đến ủy ban và Bộ trưởng Bộ Nội vụ (thành viên của ủy ban) nơi có tất cả các phương tiện cần thiết để đối phó với chúng, miễn là Thơ có sự hỗ trợ cần thiết từ cấp cao hơn. Thơ rõ ràng là không chắc chắn rằng Thơ sẽ có.

Phó Tổng thống hỏi tôi liệu tôi có nghĩ các thỏa thuậncông bằng không, và tôi nói rằng tôi nghĩ chúng công bằng. Tuy nhiên, đối với tôi, dường như chúng nên được chính phủ coi là điểm xuất phát hơn là kết thúc của một giai đoạn khó khăn. Tôi nghĩ rằng các sự kiện kể từ ngày 8 tháng 5 đã để lại những vết sẹo sâu và lan rộng và rằng chính phủ đã bị mất sự ủng hộ nghiêm trọng trong tất cả các bộ phận dân cư quan trọng. Câu hỏi bây giờ là liệu chính phủ có kết luận rằng nguy hiểm đã qua và rút lui và thắt chặt hơn hay liệu chính phủ sẽ tiếp tục hành động để khôi phục niềm tin đã mất. Tôi nghĩ điều này không chỉ đòi hỏi phải trung thành thực hiện thỏa thuận mà còn phải nhượng bộ trước những bất bình khác. Thật không may, tôi đã nói, những dấu hiệu như vậy vẫn chưa xuất hiện mà đã có gợi ý sẽ siết chặt hơn. Phó Tổng Thống Thơ gật đầu suốt chuyện này nhưng chỉ giới hạn ở việc nói rằng tôi [Trueheart] đã “hiểu rõ vấn đề”.

Trước đó trong ngày, tôi đã nói chuyện với [Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình] Thuần theo cùng một cách, chỉ thẳng thắn hơn. Tôi nói với Thuần rằng, theo tôi, Tổng thống [Diệm] đã bị mất sự tin cậy, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở Washington. Tôi cũng giải thích cho Thuần, như tôi đã không giải thích cho Phó Tổng thống Thơ, những dấu hiệu khiến tôi tin rằng ít nhấtáp lực mạnh mẽ buộc Tổng thống Diệm phải siết chặt hơn. Tôi đã đề cập đến cuộc họp bất thường tại trụ sở của Phong trào Liên Đới Phụ nữ vào buổi sáng công bố thỏa thuận đọc băng ghi âm nghị quyết ngày 7 tháng 6. Tôi đã trích dẫn các bản tin trên tờ Times of Vietnam (báo của ông bà Nhu) ngày 17 tháng 6 tìm cách đặt “trách nhiệm về sự cuồng loạn đã được tạo ra trong tuần qua lên vai những người vì những lý do không được tiết lộ đã trì hoãn việc ký kết cuối cùng,” và một tuyên bố khác, mặc dù thông cáo nói rằng những người ủng hộ 5 yêu cầu của Phật tử sẽ được hưởng lợi từ sự khoan hồng của Tổng thống, “không có thỏa thuận rõ ràng nào để tha thứ hoàn toàn cho những người đã kích động sự việc trong hai tuần qua.” Tôi cũng chỉ ra rằng chúng tôi có bằng chứng chắc chắn rằng một số thành phần của lực lượng an ninh đang dành sự quan tâm chủ yếu của họ cho các hoạt động và chuyển động của người Mỹ hơn là nhắm vào VC hay Phật tử. Cuối cùng, tôi đã trích dẫn sự việc cụ thể về hành vi an ninh VN quấy rối cụ thể của người Mỹ (xem điện tín riêng của CAS) (CAS: Controlled American Source). Thuần hỏi tôi có ý nghĩ gì về nên nhượng bộ gì thêm từ Chính phủ Việt Nam không. Tôi trả lời rằng sẽ không khó để đưa ra các đề xuất cụ thể nhưng tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu Chính phủ Việt Nam đưa ra các ý tưởng của riêng mình. Tôi e rằng những đề xuất cụ thể từ Hoa Kỳ sẽ bị vấy bẩn trong tâm trí Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, một lĩnh vực được đề xuất ngay lập tứccông lý, tức là đưa những tù nhân bị giam giữ lâu năm ra xét xử, v.v.

Thuần bày tỏ sự đồng ý với cách phân tích vấn đề của tôi nhưng không có phản ứng gì khác.

Trừ khi Bộ [Ngoại Giao Hoa Kỳ] có sự phản đối, tôi sẽ tiếp tục những dòng này khi tôi có thể tìm thấy cơ hội để làm như vậy.

Trueheart (Quyền Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)

 

.... o ....

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
24/08/2015(Xem: 10507)
Trong tập san Sagesses bouddhistes (Trí tuệ Phật giáo) của Tổng hội Phật giáo Pháp, số mới nhất tháng tư năm 2024, với chủ đề Tìm kiếm một nền hòa bình cho mình, cho thế giới (Trouver la paix pour soi, pour le Monde), trong mục ‘Tin ngắn’ có nêu lên hai mẫu tin đáng cho chúng ta suy nghĩ. Mẫu tin thứ nhất như sau :
Hôm nay, 29-4 (21-3-Giáp Thìn), tại chùa Thiên Mụ (TP.Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế), môn đồ đệ tử Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã trang nghiêm tổ chức tưởng niệm 32 năm ngày ngài viên tịch. Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử đã đến tham dự, đảnh lễ tưởng niệm.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang ngày 26/4 khởi tố bị can và bắt tạm giam Facebooker Dương Hồng Hiếu, 46 tuổi, về cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” theo Khoản 2, Điều 331 của Bộ luật Hình sự vì chỉ trích một chức sắc cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.