CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Chương
Một
Vì sao phải quan tâm đến thiền?
Thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giờ và công sức. Nó cũng đòi hỏi một sự chịu
đựng bền bỉ và kỷ luật. Tóm lại, thiền tập đòi hỏi ở ta những phẩm chất mà
thông thường ta vẫn cho là không có gì thú vị và nếu có thể thì luôn muốn tránh
né. Ta có thể nói rằng thiền tập đòi hỏi ở ta một dũng lực. Ngồi thoải mái trên
chiếc ghế bành để xem ti vi có phải là dễ dàng và thú vị hơn không? Thế thì tại
sao ta lại cần phải ngồi thiền? Tại sao ta lại phải bỏ phí bao nhiêu là thời
giờ và công sức của mình, trong khi ta có thể ngồi đó hưởng thụ được bao nhiêu
là những sự vui thú khác? Tại sao thế?
Giản dị lắm! Vì chúng ta là con người. Và vì sự thật rằng chúng ta là con
người, nên ta đã tự nhiên thừa hưởng cái tính chất bất toại nguyện của cuộc
sống, và nó sẽ không bao giờ tự mất đi. Bạn có thể đè nén cảm giác bất mãn ấy
trong giây lát, bạn có thể chối bỏ nó trong một vài giờ, nhưng rồi chắc chắn nó
sẽ trở lại, và thường khi là vào những lúc bất ngờ nhất. Sẽ có một giây phút
nào đó, đột nhiên bạn giật mình tỉnh dậy, nhìn lại những gì mình đang có và
thấy rõ được tình trạng của chính mình.
Trong giây phút ấy, đột nhiên ta nhận thấy mình đã bỏ ra trọn cuộc đời, mà thật
sự chỉ là mới cố gắng để sống. Ta lúc nào cũng gắng giữ một bề ngoài tốt đẹp.
Ta cố gắng để giải quyết mọi vấn đề và giữ cho mình lúc nào cũng có vẻ tươi
vui. Nhưng vào những lúc thất vọng, những khi ta cảm thấy mệt mỏi và chán nản,
ta lại chỉ muốn giữ kín cho riêng mình. Trong ta là một nỗi cô đơn, buồn chán,
và ta biết rất rõ điều ấy. Nhưng chúng ta giấu rất kín và rất tài.
Thật ra, sâu kín trong tâm hồn, ta tin rằng phải có một cái gì đó tốt đẹp hơn,
một lối sống hạnh phúc hơn, một cái nhìn cao rộng hơn, một con đường mà ta có
thể tiếp xúc được với sự sống này trọn vẹn hơn. Và thỉnh thoảng ta cũng có cơ
hội nếm được cái hương vị ấy: khi ta tìm được một công việc tốt, khi ta biết
yêu, khi ta thắng cuộc... Trong những giây phút ấy tất cả bỗng nhiên thay đổi.
Cuộc sống này dường như tươi sáng hơn, có ý nghĩa hơn, khiến những muộn phiền
và buồn tẻ hằng ngày đều tan biến mất. Trong giây phút ấy dường như tất cả đều
thay đổi và ta tự nhủ: “Bây giờ là được rồi đó, mình sẽ là một người hoàn toàn
có hạnh phúc.” Nhưng rồi những giây phút ấy chỉ thoáng qua, như một làn sương
mờ trong buổi sáng sớm. Ta chỉ còn lại chút ký ức nhỏ nhoi và một ý thức mơ hồ
rằng cuộc đời này dường như có một sự bất an nào đó.
Chúng ta có cảm giác rằng cuộc đời này phải có một cái gì đó sâu sắc hơn, ý
nghĩa hơn, nhưng sao mình vẫn không thấy được. Ta cảm thấy như mình bị chia
cắt. Ta cảm thấy như mình bị cô lập. Ta không tiếp xúc được với sự sống đang
thật sự có mặt quanh mình. Nhưng rồi những thao thức đó, những ý nghĩ đó cũng
phai mờ đi, và ta lại trở về với thực trạng cũ. Cảm xúc trong cuộc đời cũng
giống như một chuyến xe dạo chơi qua vùng đồi núi, ta mất nhiều thời gian ở
phía dưới con dốc mong chờ, ao ước những giây phút được lên trên đỉnh cao.
Như vậy thì ta có vấn đề gì đây? Tại sao mình lại là như thế này? Thật ra thì
ta không có một vấn đề gì hết. Ta chỉ là một con người, thế thôi! Ta mang một
chứng bệnh chung của cả nhân loại. Trong mỗi người chúng ta có một con quái thú
với nhiều cánh tay dài, chúng là sự căng thẳng tinh thần, thiếu tình thương chân
thật đối với kẻ khác, ngay cả những người gần gũi với mình nhất, những cảm xúc
đóng kín và sự khô cằn tình cảm. Con quái thú ấy có nhiều, rất nhiều cánh tay,
và chúng ta không ai có thể thoát được nó. Ta có thể chối bỏ nó. Ta có thể cố
gắng đè nén nó. Chúng ta còn xây cả một nền văn hóa để tự bảo vệ mình, để núp
phía sau đó và giả vờ như mọi việc đều bình thường. Chúng ta tự tìm sự xao lãng
trong những mục đích, qua các dự án, và những lo toan về địa vị của mình trong
xã hội. Nhưng con quái thú ấy vẫn có mặt. Trong mỗi ý nghĩ, mỗi suy tưởng của
ta, lúc nào cũng có một giọng nói nhỏ xen vào: “Như vậy cũng chưa đủ. Cần phải
có thêm nữa. Cần phải làm cho tốt hơn nữa. Phải gắng được thêm nữa.” Nó là một
con quái thú, một con quái thú có mặt ở khắp mọi nơi, biểu hiện qua những hình
dạng rất tinh tế.
Bạn đi đến một buổi tiệc, lắng nghe những tiếng cười dòn tan biểu lộ một sự vui
thú bên trên, và một nỗi sợ hãi nằm phía dưới. Cảm thấy một sự căng thẳng, đè
nén. Không có một ai là thật sự thoải mái. Tất cả mọi người đều giả tạo. Bạn đi
đến xem một trận đá banh, nhìn những khán giả trên các hàng ghế, nhìn những cơn
nóng giận bộc phát, nhìn những tức tối, bực dọc xuất phát từ mọi người, nhưng
được trá hình dưới danh nghĩa của sự hâm mộ, hăng hái, tinh thần ủng hộ đội nhà.
Những la ó, lăng mạ, tự tôn núp dưới danh xưng của sự trung thành với đội mình,
say rượu, đánh nhau - tất cả chỉ là những cách để người ta giải tỏa sự căng
thẳng của mình. Họ là những người bên trong có rất nhiều bất an. Xem tin tức
trên ti vi, lắng nghe những lời ca của các bài nhạc đang thịnh hành, bạn sẽ
thấy tất cả đều đang lặp đi lặp lại cùng những đề tài: ghen tỵ, khổ đau, bất
mãn và căng thẳng.
Sự sống dường như là một cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ, một nỗ lực chống lại
những nghịch cảnh. Và giải pháp của chúng ta là gì? Chúng ta tự than vãn: “Nếu
như... phải chi...” Nếu như tôi có nhiều tiền hơn, tôi sẽ có hạnh phúc... Phải
chi tôi tìm được một người thật sự yêu mình... Phải chi tôi sụt đi chừng mười
kí... Phải chi tôi có một cái ti vi màu, một bồn tắm nước nóng, một mái tóc
cong... và danh sách ấy sẽ không bao giờ chấm dứt. Nhưng những cái đó phát xuất
từ đâu? Và quan trọng hơn nữa, chúng ta có thể làm gì được với chúng? Chúng
phát xuất từ những đòi hỏi trong chính tâm thức của chúng ta. Đó là những thói
quen tâm lý đã ăn sâu từ lâu đời, rất tinh tế khó nhận biết và chi phối khắp
cả, cũng giống như một gút mắc được dần dà cột thắt bởi nhiều mối thật chặt, và
bây giờ cũng vậy, muốn mở ra thì ta cũng phải biết từ từ tháo gỡ từng mối một.
Chúng ta cần thắp lên ngọn đèn của ý thức, vớt lên từ chiều sâu tâm thức từng
mảnh vụn nhỏ, và mang ra đặt dưới ánh sáng của chính niệm. Chúng ta có thể làm
cho vô thức trở thành ý thức, thật từ tốn, mỗi lần một chút.
Bản chất mọi kinh nghiệm của chúng ta là sự thay đổi. Sự thay đổi ấy không bao
giờ ngừng nghỉ. Trong mỗi giây, mỗi phút, sự sống trôi chảy và biến đổi liên
tục, không bao giờ đứng yên. Chính sự chuyển biến không ngừng ấy là bản chất
của vũ trụ tri giác này. Một tư tưởng khởi lên và chưa đến nửa giây, nó đã biến
mất. Rồi một tư tưởng khác khởi lên, rồi cũng biến mất... Một âm thanh chạm vào
tai ta, rồi thinh lặng. Mở mắt ra, cả thế giới tuôn tràn vào trong; nhắm mắt
lại và tất cả mất hết. Có những người đã đến và đi trong đời ta. Bạn bè rời xa,
người thân mất đi. Thời vận của ta lên rồi lại xuống. Đôi khi ta thắng, nhưng
thường hơn là thua. Tất cả là một sự biến chuyển bất tận: đổi thay, đổi thay và
đổi thay. Không bao giờ có hai giây phút giống hệt nhau!
Nhưng thật ra thì không có gì là vấn đề với việc ấy hết. Tự tính của vũ trụ này
là vậy. Nhưng có điều là văn hóa nhân loại đã dạy cho chúng ta có một phản ứng
khá kỳ cục đối với sự thay đổi này. Chúng ta phân loại những kinh nghiệm đã
qua. Khi có bất cứ một nhận thức, một sự đổi thay nào xảy ra, chúng ta tự động
bỏ nó vào một trong ba hộc tủ khác nhau: tốt, xấu hoặc trung hòa. Và tùy theo
việc ta xếp nó vào hộc tủ nào mà ta sẽ có những phản ứng tương ứng với nó. Nếu
đó là một nhận thức được ta cho là tốt, ta sẽ cố gắng níu kéo cho thời gian
dừng lại. Ta nắm bắt, ôm cứng lấy nó, không cho nó thoát đi. Và khi ta biết
rằng mình không thể giữ được nó mãi, ta sẽ tìm đủ mọi cách để mang lại kinh
nghiệm nào đã khơi dậy nhận thức ấy. Chúng ta hãy gọi thái độ tâm lý này là
“nắm giữ”.
Và hộc tủ kế bên được dán nhãn hiệu là “xấu”. Khi ta nhận diện điều gì đó là
xấu, ta sẽ xô đẩy nó đi. Chúng ta cố gắng chối bỏ nó, xa lánh nó, xua đuổi nó
bằng đủ mọi cách. Thật ra là chúng ta đang chống cự lại kinh nghiệm của chính
mình. Chúng ta đang chối bỏ một phần của chính ta. Chúng ta hãy gọi thái độ tâm
lý này là “xua đuổi”.
Và giữa hai thái độ ấy là một hộc tủ thứ ba: “trung hòa.” Trong hộc tủ này,
chúng ta bỏ vào những kinh nghiệm nào mà ta nhận thấy không tốt cũng chẳng xấu.
Những gì ta cảm thấy là nhạt nhẽo, nhàm chán, hoặc vô vị. Chúng ta xếp những
kinh nghiệm ấy vào hộc tủ này để ta có thể quên đi, và mang sự chú ý của mình
trở về với những gì là lý thú hơn. Nói một cách khác, ta trở lại chạy theo vòng
quay bất tận của những sự thương và ghét. Và vì vậy, những kinh nghiệm “trung
hòa” này bị chúng ta bỏ qua, không hề lưu ý đến. Ta hãy gọi thái độ này là “bỏ
lơ.”
Và kết quả trực tiếp của những thái độ điên rồ này là ta như một người chạy
trên chiếc máy tập chạy, cứ chạy mãi mà chẳng đi đến đâu cả! Mỗi khi có điều gì
ưa thích thì ta tìm cách nắm giữ, gặp điều gì khó chịu thì ta xua đuổi, và bỏ
lơ đi gần 90 phần trăm những kinh nghiệm còn lại của đời mình. Và rồi chúng ta
lại tự hỏi: vì sao cuộc đời này lại quá vô vị đến thế? Nói tóm lại, thái độ
phản ứng máy móc đó của chúng ta sẽ không thể nào mang lại cho mình sự hạnh
phúc.
Cho dù bạn có nỗ lực theo đuổi những thú vui và thành đạt đến đâu, rồi cũng có
lúc bạn sẽ gặp thất bại. Cho dù bạn có chạy trốn nhanh và khôn khéo đến đâu, sẽ
có lúc khổ đau bắt kịp bạn. Và giữa những giai đoạn đó, cuộc sống này nhàm chán
đến độ bạn có thể thét lên được. Tâm ta chứa đầy những phê bình và thành kiến.
Chúng ta tự xây lên cho mình những bức tường kiên cố để bảo vệ, và rồi vô tình
tự giam mình vào ngôi nhà tù làm bằng những ưa thích và ghét bỏ của chính ta.
Và ta khổ!
Khổ là một danh từ rất to tát trong đạo Phật. Đây là một ý niệm quan trọng mà
chúng ta cần phải hiểu thật rõ. Chữ dùng trong tiếng Pali là dukkha, và nó
không chỉ có nghĩa là sự đau đớn, dày vò của thân xác mà thôi. Nó còn mang một
ý nghĩa thâm sâu, tinh tế hơn về một cảm giác bất toại nguyện của mỗi ý tưởng,
mà chúng là kết quả trực tiếp của những phản ứng máy móc của ta.
Bản chất của sự sống là khổ, dukkha, đức Phật dạy thế. Mới nghe qua thì có vẻ
như rất bi quan và chán đời. Mà dường như cũng không hoàn toàn đúng với sự thật
nữa. Dầu sao thì cuộc sống này cũng đâu có thiếu gì những giây phút mà mình cảm
thấy vui thú, phải thế không bạn? Nhưng không, sự thật không phải vậy. Nó chỉ
có vẻ là như vậy mà thôi.
Bây giờ bạn hãy thử chọn ra một giây phút nào đó mà bạn nghĩ là mình thật sự
cảm thấy hài lòng nhất, rồi nhìn kỹ lại đi. Bên dưới niềm vui ấy, bạn sẽ thấy
có một sự căng thẳng, muộn phiền, biết rằng cho dù giây phút này có trọn vẹn
đến đâu, rồi nó cũng sẽ chấm dứt. Cho dù bạn có thu đạt được nhiều đến đâu
chăng nữa, chắc chắn rồi bạn cũng sẽ đánh mất đi, hoặc bỏ hết ngày tháng còn
lại để bảo vệ những gì mình có và tính toán làm sao để được nhiều hơn nữa.
Nhưng cuối cùng cuộc đời bạn sẽ còn lại gì? Cái chết! Cuối cùng rồi ta cũng
phải buông bỏ hết tất cả. Tất cả chỉ là tạm bợ mà thôi!
Nghe có vẻ bi đát quá bạn nhỉ? Nhưng may mắn thay, sự thật không phải vậy. Nó
chỉ bi đát nếu ta nhìn bằng con mắt của cuộc đời, một cái nhìn chỉ có sự nắm
giữ hoặc xua đuổi. Nhưng chúng ta còn có một cách nhìn khác nữa. Với cách nhìn
này, chúng ta không cần phải bắt thời gian dừng lại, không cần phải nắm bắt một
kinh nghiệm nào trôi qua, và cũng không cần phải ngăn chặn hoặc bỏ lơ trước bất
cứ một kinh nghiệm nào khác. Nó là một mức độ kinh nghiệm nằm trên những ý niệm
về tốt và xấu, vượt lên trên sự vui sướng và đớn đau. Cách nhìn ấy về cuộc đời
là một cách nhìn rất nhiệm mầu, và ta có thể học tập được. Lẽ dĩ nhiên không
phải là dễ, nhưng ta có thể làm được.
Hạnh phúc và an vui là những
vấn đề trọng đại của
con người. Đó là những gì
chúng ta đang thật sự
tìm kiếm. Nhưng thật ra rất khó mà thấy được điều đó, vì
cái
ước mơ căn bản ấy thường bị
che lấp bởi tầng tầng lớp lớp những mong muốn
trên bề mặt.
Chúng ta mong muốn nhiều
thực phẩm, sự
giàu sang,
sắc dục, thú
vui,
danh vọng... Nhiều khi ta còn nghĩ rằng
ý niệm về “hạnh phúc”
trừu tượng
quá. “Tôi là một
con người rất
thực tế. Cho tôi đủ tiền bạc, tôi sẽ mua được
hết những
hạnh phúc mà tôi cần.” Điều không may là chuyện ấy không thể nào có
được!
Bạn hãy thử nhìn cho sâu sắc về
mục đích của những mong muốn đó, bạn sẽ thấy
rằng chúng rất là nông cạn. Bạn muốn có
thực phẩm. Để làm gì? “Vì tôi đói.” Bạn
đói à,
vậy thì sao? “Thì nếu tôi ăn, tôi sẽ hết đói. Và khi hết đói thì tôi sẽ
cảm thấy dễ chịu.” À, thì ra là vậy! Bạn muốn được
cảm thấy “dễ chịu”: đây mới
chính là
lý do chân thật! Những gì
chúng ta mong muốn không nằm trong những
mục
đích trên bề mặt, vì đó chỉ là những
phương tiện dẫn ta đến
cứu cánh mà thôi.
Cái mà ta thật sự
tìm kiếm là cái
cảm giác nhẹ nhõm
theo sau, khi mong muốn của
mình đã được
thỏa mãn. Một
cảm giác nhẹ nhàng,
thư thả, không còn bị
căng thẳng
nữa.
Hạnh phúc và an vui - khi không còn những khát khao.
Thế thì
hạnh phúc này là gì? Đối với phần lớn
chúng ta thì
ý niệm về sự
hạnh
phúc hoàn toàn là có được tất cả những gì mình muốn và có khả năng
kiểm soát
được tất cả, được làm một vị
chủ tể có thể bắt cả
thế giới này phải nhảy múa
theo mỗi
sở thích của riêng mình. Nhưng
cũng thế, chuyện ấy cũng không thể nào
có được. Hãy thử nhìn lại
lịch sử của
thế giới, bạn sẽ thấy thật ra cũng có
những người có được
quyền uy rộng lớn như thế, nhưng họ không hề là những người
có
hạnh phúc.
Chắc chắn một điều là họ không có được sự an vui với chính mình.
Tại sao thế? Vì họ có khát vọng muốn làm bá chủ
thế giới này một cách
tuyệt
đối, và họ không thể nào làm được việc ấy! Họ muốn
kiểm soát tất cả
mọi người,
nhưng vẫn còn có những nguời không bị
kiểm soát. Họ không thể
kiểm soát được
những vì sao
trên trời. Mưa vẫn rơi, mây vẫn bay, lá vẫn rụng. Họ vẫn ngã bệnh.
Họ vẫn phải chết!
Ta không bao giờ có thể có được tất cả những gì mình muốn. Đó là chuyện không
thể được. Nhưng may thay, ta
vẫn có một sự
lựa chọn khác. Ta có thể học cách
làm chủ được tâm ý của mình,
bước ra ngoài vòng xoay bất tận của sự
ham muốn và
ghét bỏ. Ta có thể
thực tập trừ bỏ sự
ham muốn,
nhận diện những
tham vọng nhưng
không bị chúng
sai khiến. Nhưng điều ấy không có nghĩa là từ nay
chúng ta sẽ
nằm xuống giữa đường, và để mặc cho ai cũng có thể bước ngang qua
chà đạp. Điều
ấy chỉ có nghĩa là ta vẫn
tiếp tục sống
đời sống bình thường của mình, nhưng
với một cái nhìn
hoàn toàn mới mẻ.
Chúng ta vẫn làm những gì mà một người
bình
thường phải làm, nhưng ta có
tự do, không bị
thúc đẩy,
lôi cuốn bởi những
ham
muốn của mình. Ta có thể muốn một cái gì đó, nhưng không phải đeo đuổi theo nó.
Ta có thể
sợ hãi một điều gì, nhưng không
cần phải đứng đó mà run rẩy.
Thái độ
ấy không phải là dễ. Nó đòi hỏi rất nhiều năm tháng
thực tập. Nhưng ta biết
rằng
cố gắng kiểm soát hết
mọi việc trên đời này là một chuyện không thể nào có
được. Thế thì giữa hai cái, cái khó làm vẫn còn hơn là cái không thể làm được.
Nhưng mà, hãy khoan cái đã!
Hạnh phúc và an vui, có phải đó là
mục tiêu nhắm
đến của nền
văn minh chúng ta chăng?
Chúng ta xây những tòa nhà chọc trời và
những xa lộ.
Chúng ta có những tháng nghỉ hè được trả lương, những chiếc ti vi
màu...
Chúng ta có nhà thương
miễn phí, những ngày nghỉ bệnh,
an ninh xã hội và
lợi dưỡng chung. Tất cả những cái đó nhằm
mục đích mang lại cho
chúng ta một
mức độ
hạnh phúc và an vui nào đó. Nhưng dù vậy, số bệnh
nhân tâm thần trong
xã
hội vẫn mỗi ngày một nhiều và con số người
phạm pháp mỗi ngày một tăng nhanh
hơn. Đường phố đầy dẫy những
cá nhân bạo động và thiếu
quân bình. Đưa tay ra
khỏi cửa nhà mình, bạn có thể bị ai đó lột mất đi chiếc đồng hồ mà không hay!
Có điều gì đó không được ổn cho lắm. Một người
hạnh phúc không bao giờ
trộm
cắp. Một người có
an lạc không bao giờ biết
bạo động. Ta muốn tin rằng,
xã hội
chúng ta đã tận dụng hết mọi lĩnh vực của
kiến thức con người để
đạt đến mục
tiêu an lạc và
hạnh phúc, nhưng
sự thật không phải thế.
Chúng ta chỉ mới bắt đầu
ý thức rằng, mình đã phát triển khía cạnh
vật chất của
sự sống
quá độ,
chúng ta sẵn sàng hưởng thụ nó trên sự sống
tâm linh và tình
cảm của mình. Và bây giờ
chúng ta đang phải trả giá cho
việc làm đó. Nói là một
chuyện, và thật sự làm một cái gì đó để
sửa đổi, lại là một chuyện khác. Nơi
bắt đầu phải là từ bên trong chính mỗi người của
chúng ta. Bạn hãy thử quay lại
nhìn vào trong chính mình cho sâu sắc, một cách
chân thật và khách quan. Bạn sẽ
thấy rõ, chính ta cũng có những giây phút mà “Tôi chính là kẻ phạm pháp” và
“Tôi chính là người điên rồ.” Và khi ta có thể
nhận diện được chúng một cách rõ
rệt,
vô tư, và không phê phán hoặc trách móc,
chúng ta mới có cơ hội để
bước ra
khỏi được.
Và
chúng ta sẽ không thể nào thay đổi được bất cứ một điều gì của mình hết, trừ
khi ta nhìn thấy được
con người thực của mình, ngay trong giờ phút này. Chừng
ấy sự
chuyển hóa sẽ xảy ra một cách rất
tự nhiên và
trôi chảy. Bạn không
cần
phải nỗ lực hoặc tuân phục theo một
uy quyền nào bắt buộc bạn hết. Tự động bạn
sẽ thay đổi.
Nhưng làm sao để ta
vẫn có thể giữ được cái
tuệ giác ban đầu ấy, đó mới là
vấn
đề khó! Bạn phải nhìn thấy được mình là ai, và như thế nào, một cách
chân thật,
không
thành kiến, và không chối bỏ. Bạn phải thấy được chỗ đứng và
ảnh hưởng
của mình trong
xã hội. Bạn phải thấy được bổn phận và
trách nhiệm của mình đối
với những người sống chung quanh, và hơn nữa
trách nhiệm đối với chính mình như
là một
cá nhân sống chung với kẻ khác. Và
cuối cùng, bạn phải thấy được rằng
hết tất cả những điều ấy thật ra chỉ là một mà thôi, một cái chung
toàn vẹn mà
trong đó tất cả đều có
liên hệ mật thiết với nhau. Tuy điều ấy nghe có vẻ rất
phức tạp, nhưng thật ra nó có thể xảy ra trong một chớp mắt.
Công năng của
thiền tập có một
sức mạnh vô song, nó có thể đem lại cho ta thứ
tuệ giác này,
và một
hạnh phúc rất tĩnh lặng.
Kinh Pháp cú (Dhammapada), một quyển kinh rất xưa của
đạo Phật có viết:
Ý
dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý
ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước
theo sau,
Như xe, chân vật kéo .
Ý
dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với
ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An vui bước
theo sau,
Như bóng, không rời hình
(Kệ số 1 và 2, bản Việt dịch của
Hòa Thượng Thích
Minh Châu)
Một khi
tử thần đến,
Không có con
che chở,
Không cha, không
bà con,
Không
thân thích che chở.
Biết rõ
ý nghĩa này,
Bậc trí lo
trì giới,
Mau lẹ làm
thanh tịnh,
Con đường đến
Niết bàn.
(Kệ số 288, 289, bản Việt dịch của
Hòa Thượng Thích
Minh Châu)
Và
thiền tập là một
phương pháp giúp ta làm
thanh tịnh được tâm ý mình.
Thiền tập giúp ta thanh lọc được tiến trình
tư tưởng của ta, giúp ta gạn bỏ
được những chất kích động tâm ý như là
tham lam,
sân hận và
si mê, những thứ đã
từng
trói buộc ta bằng sợi dây
giam hãm của tình cảm.
Thiền tập sẽ mang tâm ta
đến một
trạng thái tĩnh lặng và
tỉnh thức, một
trạng thái của định và huệ.
Trong
xã hội ngày nay,
chúng ta đặt
niềm tin rất lớn vào
sự giáo dục.
Chúng ta
tin rằng
học thức có thể làm một người trở nên
văn minh hơn. Nhưng thật ra,
văn
minh và
học thức chỉ
đánh bóng phần bên ngoài của
con người mà thôi. Bạn chỉ
cần thử đem một người “học thức” và “đáng kính” ấy ra
đối diện với những
hoàn
cảnh như là
căng thẳng trong chiến tranh hoặc kinh tế
suy sụp, và xem người ấy
còn “đáng kính” nữa hay không!
Chúng ta tuân theo luật lệ vì không muốn chịu
hình phạt và sợ
hậu quả là một chuyện; còn
chúng ta tuân theo luật vì mình đã
được
thanh tịnh, không còn lòng tham để
trộm cắp, hoặc lòng
sân hận để giết
hại, thì đó là một chuyện
hoàn toàn khác. Thảy một hòn đá xuống dòng suối. Dòng
nước chảy sẽ làm mòn đi bề mặt bên ngoài của hòn đá, nhưng bên trong vẫn
y
nguyên. Nung hòn đá ấy trong một lò lửa
cho đến khi ta nóng chảy, cả hòn đá ấy sẽ
biến dạng từ trong ra ngoài.
Văn minh và
học thức chỉ có thể thay đổi
bề ngoài
của
con người mà thôi.
Thiền tập sẽ
chuyển hóa con người một cách
toàn diện từ
bên trong.
Thiền tập còn được
ví như là một vị thầy lớn. Nó là ngọn lửa tôi luyện
chúng
ta, tuy
chậm chạp nhưng rất
chắc chắn, bằng sự
hiểu biết. Khi sự
hiểu biết của
chúng ta càng rộng lớn bao nhiêu, thì lòng
tha thứ,
bao dung và
tâm từ của
chúng ta sẽ càng rộng mở bấy nhiêu.
Chúng ta sẽ
trở thành như là một bậc
cha mẹ
gương mẫu hay một vị thầy
toàn thiện. Ta sẵn sàng
tha thứ và bỏ qua tất cả. Ta
cảm thấy thương yêu tất cả
mọi người vì ta hiểu được họ, và
sở dĩ ta có thể
hiểu được họ là vì ta
hiểu rõ được chính mình.
Chúng ta quay lại nhìn sâu vào
chính mình, và ta đã thấy được những sự giả tạo, những
thiếu sót của một
con
người, cũng như những
giới hạn của
kiếp người, và từ đó ta biết
tha thứ và
thương yêu tất cả. Khi ta có
tâm từ đối với chính mình thì
tự nhiên ta sẽ có
tâm từ đối với kẻ khác. Một
thiền sinh giỏi sẽ có được sự
hiểu biết lớn đối với
sự sống, và từ đó họ sẽ đối xử với
cuộc đời này bằng một
tình thương sâu xa,
không hề phán xét.
Thiền tập cũng giống như làm ruộng vậy. Muốn có một thửa đất trống để ta trồng
trọt, trước hết ta phải biết đốn cây và bứng đi hết những gốc rễ. Rồi sau đó
chúng
ta mới cày đất, bón phân, gieo hạt, và gặt hái. Đối với thửa ruộng tâm
cũng
thế, trước hết
chúng ta phải dọn dẹp làm trống đi hết những
yếu tố nào làm trở
ngại - ta phải bứng nhổ tận gốc rễ để chúng không thể nào còn mọc
trở lại. Rồi
chúng ta bón phân cho mảnh đất tâm: bằng sự
tinh tiến và
nỗ lực. Và sau đó, ta
gieo xuống những
hạt giống tốt, và gặt hái những hoa trái của
niềm tin,
giới
luật,
chính niệm và
tuệ giác.
Niềm tin và
giới luật trong
đạo Phật mang một
ý nghĩa rất
đặc biệt.
Niềm tin
trong
đạo Phật không phải là sự
tin tưởng vào
kinh điển xuất phát từ một đấng
thiêng liêng, hay
đức tin vào những
giáo lý của một bậc
đạo sư nào đó.
Ý nghĩa
của
niềm tin ở đây gần giống với sự tự tin hơn.
Chúng ta tin đó là
sự thật vì
chính ta đã thấy, vì tự mình đã
kinh nghiệm được điều ấy. Và
cũng thế,
giới
luật không phải là những
nghi thức, những
quy luật được đặt ra bởi một
uy quyền
nào đó ở bên ngoài. Thật ra
giới luật là những khuôn thước hành động mà ta đã
ý
thức và tự
nguyện hành xử theo, vì ta biết rằng chúng
tốt đẹp và cao thượng hơn
lối hành xử
bình thường của mình
trong đời sống
hằng ngày.
Mục đích của
thiền tập là một sự
chuyển hóa tự thân. Cái “tôi”
đi vào bên này
của
kinh nghiệm thiền tập sẽ không phải là cái “tôi” đi ra phía bên kia.
Thiền
tập sẽ thay đổi
con người của ta qua một tiến trình
nhận thức sâu sắc về những
cảm giác của mình, nó bắt ta
ý thức rõ rệt về những
ý nghĩ,
lời nói và hành
động của ta. Lòng tự tôn sẽ tan biến và
thái độ chống đối của ta cũng sẽ khô
cạn đi. Tâm ta sẽ trở nên
an tĩnh. Và cuộc sống cũng được suôn sẻ hơn.
Thiền
tập có khả năng giúp ta
đối diện với những
thăng trầm của
cuộc đời một cách dễ
dàng hơn. Nó làm giảm đi những sự
căng thẳng,
lo lắng và
sợ hãi. Những
bất an
sẽ vơi đi và những
đam mê cũng sẽ nhẹ nhàng hơn.
Mọi việc rồi nằm yên vào
vị
trí của nó, và
cuộc đời của ta sẽ giống với một con thuyền nhẹ lướt trên một
dòng nước hơn là
gập ghềnh trôi qua những con thác. Và tất cả bắt đầu bằng một
sự
hiểu biết.
Thiền tập sẽ giúp cho
định lực và
tuệ giác của ta ngày được sâu sắc thêm. Và từ
đó, những
động cơ thúc đẩy nằm sâu kín trong
vô thức, những
phản ứng máy móc
của ta, sẽ
dần dần bị phơi bày ra.
Trực giác của ta sẽ trở nên bén nhạy hơn
xưa. Sự
suy nghĩ của ta sẽ
chính xác hơn, và
dần dần ta sẽ có thể trực tiếp
tiếp xúc được với sự vật chung quanh mình như
bản chất hiện hữu thật sự của
chúng - đúng như vậy - không phán xét, không bị những
vọng tưởng làm sai lệch.
Bấy nhiêu đó
lý do liệu đã đủ để
trả lời cho ta câu hỏi “vì sao phải
quan tâm
đến thiền” hay chưa? Thật ra thì chưa thấm thía gì hết! Dầu sao thì chúng cũng
chỉ là những
lý thuyết suông trên giấy mà thôi! Chỉ có một cách
duy nhất giúp
bạn có thể biết được thiền có
ích lợi gì cho mình hay không, đó là
thực hành,
và
thực hành cho đúng. Bạn hãy tự chính mình
kinh nghiệm lấy.