CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Chương
Mười Bốn
Niệm và định
Thiền quán cũng tương tự như một hành động giữ thăng bằng của tâm. Bạn cố gắng
phát triển hai phẩm chất riêng biệt của tâm - niệm và định. Lý tưởng nhất là
hai yếu tố này làm việc chung với nhau. Chúng hỗ tương cho nhau. Vì vậy, điều
quan trọng là chúng ta cần phải phát triển hai yếu tố này song song với nhau và
giữ cho chúng được quân bình. Nếu một cái này trội hơn và lấn áp cái kia, tâm
ta sẽ mất đi sự thăng bằng và việc thiền tập không thể thực hiện.
Định và niệm là hai chức năng hoàn toàn khác biệt. Mỗi cái giữ một vai trò
riêng biệt trong thiền tập, và sự liên hệ giữa chúng với nhau cũng rất là rõ
ràng và tế nhị. Định còn được gọi là trạng thái nhất tâm. Nó gồm có sự ép buộc
chú tâm vào một điểm cố định. Xin lưu ý đến chữ ép buộc. Định là một hoạt động
có tính cách cưỡng ép và bắt buộc. Nó có thể được phát triển bởi sự ép buộc đơn
thuần bằng sức mạnh kiên trì của ý chí. Và khi đã được phát triển rồi, nó vẫn
duy trì một phần nào tính chất ép buộc đó.
Ngược lại, chính niệm là một chức năng rất khéo léo, nó đưa đến một sự nhạy cảm
tinh tế. Định và niệm là hai người bạn đồng sự cùng đi trên con đường thiền
tập. Niệm là một người bạn rất tế nhị. Nó chú ý và ghi nhận hết mọi sự việc. Và
định mang lại sức mạnh. Nó giúp cho sự chú ý ấy được giữ yên trên một đề mục
duy nhất. Niệm chọn đối tượng thiền quán, và ghi nhận khi nào sự chú ý của mình
bị xao lãng. Định là kẻ thật sự làm công việc giữ cho sự chú ý được ở yên trên
đối tượng ấy. Nếu một trong hai yếu tố này bị yếu, công phu thiền tập của ta sẽ
lập tức bị sụp đổ ngay.
Ta có thể định nghĩa: định là một khả năng tập trung tâm ý trên một đối tượng
duy nhất và không gián đoạn, một trạng thái nhất tâm. Cũng cần nên nhấn mạnh,
chính định là một trạng thái nhất tâm hiền thiện. Có nghĩa là nó không bị ảnh
hưởng bởi tham, sân và si. Cũng có những trạng thái nhất tâm bất thiện, nhưng
chúng không đưa ta đến giải thoát. Bạn có thể đạt được nhất tâm trong một trạng
thái mê đắm dục lạc. Nhưng nó không đưa bạn đi đến đâu cả. Chú tâm không gián
đoạn vào một đối tượng thù ghét sẽ không giúp ích gì cho ta. Thật ra, những
trạng thái định bất thiện ấy rất là ngắn ngủi, nhất là khi ta dùng chúng để làm
hại kẻ khác. Chính định tự nó không bao giờ bị ảnh hưởng bởi những thứ xấu xa
ấy.
Định là một trạng thái khi tâm được gom tụ lại, và nhờ đó có được cường độ và
sức mạnh. Chúng ta có thể ví nó với một chiếc kính lúp. Những tia nắng chiếu
rọi xuống bề mặt của một tờ giấy không làm được gì khác hơn là sưởi ấm nó.
Nhưng cũng cùng bấy nhiêu đó tia nắng đó, nếu ta dùng một cái kính lúp để hội
tụ chúng lại, chiếu rọi vào một điểm duy nhất, tờ giấy sẽ bốc cháy. Định lực
chính là chiếc kính lúp. Nó chế tác ra một sức mạnh đốt nóng cao độ, cần thiết,
giúp ta soi chiếu vào những ngõ ngách sâu kín trong tâm. Chính niệm chọn đối
tượng cho chiếc kính lúp soi lên, và rồi nó nhìn qua thấu kính ấy để xem những
gì đang có mặt.
Ta nên xem định lực như là một công cụ, một phương tiện. Và cũng như mọi công
cụ khác, nó có thể được dùng cho mục đích tốt hoặc xấu. Một con dao bén có thể
được dùng để chạm trổ những đường nét mỹ thuật, và cũng được dùng để gây thương
tích cho kẻ khác. Tất cả đều tùy vào người sử dụng. Định lực cũng vậy. Sử dụng
đúng, nó có thể giúp đưa ta đến bến bờ giải thoát. Nhưng nó cũng có thể được
dùng để phục vụ cho bản ngã. Nó có thể được sử dụng trong một khuôn khổ của sự
thành đạt và tranh đua. Bạn có thể dùng định lực để thống trị kẻ khác. Bạn có
thể dùng nó cho một mục tiêu ích kỷ.
Thật ra, vấn đề là định lực tự nó không thể giúp cho ta nhìn thấy chính mình
được. Nó không thể làm sáng tỏ được những vấn đề căn bản của ngã chấp và tự
tính của khổ đau. Ta có thể dùng nó để đào sâu vào những trạng thái tâm lý sâu
kín. Nhưng dù vậy, ta vẫn không hiểu được năng lực của ngã chấp. Chỉ có chính
niệm mới có thể làm được việc đó. Nếu như chính niệm không có mặt để nhìn vào
thấu kính ấy, để thấy được những gì đã được định lực phơi bày, thì tất cả chỉ
là công dã tràng. Chỉ có chính niệm mới hiểu. Chỉ có chính niệm mới làm phát
sinh tuệ giác. Định lực vẫn còn bị nhiều giới hạn khác.
Những trạng thái định thâm sâu chỉ có thể đạt được trong những môi trường đặc
biệt và thích hợp. Những người tu Phật đã bỏ ra rất nhiều công sức để xây dựng
các thiền đường và tu viện. Mục đích chính là tạo nên một khung cảnh, điều kiện
yên tĩnh để ta có thể phát huy được khả năng định này. Không có tiếng động ồn
ào, không bị gián đoạn. Và cũng quan trọng không kém là tạo cho hành giả một
môi trường tình cảm an ổn. Sự phát triển định lực sẽ bị ngăn chận bởi 5 điều
chướng ngại, như ta đã trình bày trong chương 12. Đó là: ham muốn dục lạc, ghét
bỏ, hôn trầm, kích động và nghi ngờ.
Tu viện là một môi trường mà những tình cảm náo động và phiền toái này sẽ được
giới hạn đến mức tối đa. Những người khác phái không sống chung với nhau. Nhờ
vậy, dục vọng ít có cơ hội khởi lên. Ta không được phép giữ một tài vật gì, nhờ
vậy sẽ tránh được những sự tranh chấp, chiếm hữu, giúp giảm đi cơ hội của sự
tham lam và thèm khát. Ta cũng cần nên nhắc đến một chướng ngại khác nữa của
định lực. Trong một trạng thái định thâm sâu, ta có thể bị thu hút vào đối
tượng thiền định của mình, và quên hết mọi vấn đề nhỏ nhặt khác. Ví dụ như là
thân ta, ta là ai, và tất cả những thứ khác quanh mình. Chính ở chỗ này mà tu
viện lại là một môi trường rất thích hợp. Ở đây, chúng ta có người khác lo cho
mình bằng cách chăm sóc những nhu cầu vật chất như là thức ăn, chỗ ngủ và an
ninh của ta. Không có những bảo đảm đó, ta sẽ do dự và không bao giờ dám đi vào
những mức định thâm sâu hơn.
Ngược lại, chính niệm không bao giờ có những vấn đề này. Chính niệm không bị
phụ thuộc, và cũng không đòi hỏi phải có một hoàn cảnh hoặc môi trường đặc biệt
nào hết. Chính niệm chỉ là một chức năng ghi nhận. Vì vậy, nó có thể tự do ghi
nhận bất cứ một cái gì khởi lên - tham dục, ghét bỏ, tiếng ồn ào. Chính niệm
không hề bị giới hạn bởi bất cứ một điều kiện nào. Nó có thể có mặt trong bất
cứ lúc nào và bất cứ hoàn cảnh nào. Và chính niệm cũng không cần phải có một
đối tượng cố định để tập trung. Nó quán sát sự thay đổi. Có nghĩa là nó có vô
số những đối tượng khác nhau để chú ý. Nó chỉ theo dõi những gì đi ngang qua
tâm ta, và không phân loại. Những sự xao lãng và gián đoạn cũng được ghi nhận
cùng với một sự chú tâm như bất cứ một đề mục thiền quán chủ yếu nào khác.
Trong trạng thái chính niệm, sự chú ý của ta biến chuyển theo bất cứ sự thay
đổi nào có mặt trong tâm. “Thay đổi, thay đổi, thay đổi... Bây giờ là cái này,
bây giờ là cái này, và bây giờ là cái này...”
Chúng ta không thể làm phát triển chính niệm bằng sự ép buộc. Nghiến răng, gồng
người dùng ý chí cũng sẽ không đem lại cho ta một ích lợi nào. Mà thật ra, nó
còn làm trở ngại cho sự tiến bộ của ta nữa. Chính niệm không thể nào được phát
huy bằng một sự tranh đấu. Nó chỉ tăng trưởng bằng sự hiểu biết, bằng sự buông
bỏ, bằng cách dừng yên lại trong giây phút hiện tại, và giữ cho mình được thoải
mái với bất cứ điều gì ta đang trải nghiệm. Nhưng điều đó không có nghĩa là
chính niệm tự động sẽ xảy ra. Ngược lại thế. Nó đòi hỏi một năng lượng. Nó đòi
hỏi một sự tinh tiến. Nhưng sự tinh tiến này không phải là dùng sức mạnh ép
buộc. Chính niệm được phát triển bằng một sự cố gắng dịu dàng. Ta nuôi dưỡng
chính niệm bằng cách thường xuyên nhẹ nhàng nhắc nhở mình, biết theo dõi và chú
ý đến những gì đang có mặt trong giây phút hiện tại. Kiên trì và từ tốn là bí
quyết. Chính niệm đươc nuôi dưỡng bằng sự thường xuyên mang ta trở về trong
trạng thái tỉnh thức, một cách dịu dàng, nhẹ nhàng và thật từ tốn.
Ta cũng không thể nào sử dụng chính niệm cho sự ích kỷ được. Chính niệm là một
ý thức không có một cái ngã. Trong một trạng thái chính niệm thuần túy không có
cái “tôi.” Vì vậy sẽ không có một cái “tôi” nào để mà “cho tôi” hoặc “của tôi”
được cả. Trái lại, chính niệm mang đến cho ta một cái nhìn rõ ràng và chân thật
về mình. Nó giúp ta có thể bước lùi lại một bước, ra khỏi những ham muốn và
ghét bỏ, để có thể thật sự nhìn lại chính mình và nói “À, thì ra tôi thật sự là
như vậy!”
Trong trạng thái chính niệm, ta sẽ thật sự thấy được rõ mình là người như thế
nào. Ta thấy được thái độ ích kỷ của mình. Ta thấy được những khổ đau của mình.
Và ta cũng thấy được mình đã tự tạo nên những khổ đau ấy ra sao. Ta thấy mình
đã gây nên đau đớn cho kẻ khác. Ta nhìn xuyên thấu qua những lớp giả tạo mà
bình thường ta vẫn dùng để tự lừa dối mình, và nhìn thấy được sự thật! Chính
niệm sẽ đưa ta đến tuệ giác.