12- Chương Hiền Thiện Thủ

05/06/201012:00 SA(Xem: 11510)
12- Chương Hiền Thiện Thủ

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC KINH LƯỢC GỈAI
Dịch giả: HT. Thích Giải Năng
Nhà xuất bản: Tôn Giáo PL. 2550 – DL. 2006

C. PHẦN LƯU THÔNG

BÀI THỨ MƯỜI HAI

 blank

blank

blank

blank

blank

 

12- CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ

1- Lời thỉnh

Khi ấy, ở trong Đại chúng, ngài Hiền Thiện Thủ Bồ-tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, quỳ dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn ! Phật đã rộng vì chúng con và chúng sanh đời mạt, khai ngộ việc Bất tư nghị như thế. Thưa Đức Thế Tôn ! Đại thừa giáo này tên gọi có mấy? Làm sao phụng trì (vâng giữ)? Chúng sanh tu tập được công đức gì? Làm sao khiến con hộ người trì Kinh? Lưu bố Kinh này đến quả địa nào?”.

Hỏi lời ấy rồi năm vóc gieo xuống đất lập đi lập lại như vậy ba lần.

2- Lời hứa

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ngài Hiền Thiện Thủ Bồ-tát rằng: “Quý thay ! Quý thay ! Này Thiện nam tử ! Như các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sanh đời mạt hỏi nơi Như Lai công đức, danh tự Kinh giáo như thế, ông nay nghe kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói”.

Khi ấy, ngài Hiền Thiện Thủ Bồ-tát vui mừng vâng lời dạy bảo cùng các đại chúng yên lặng mà nghe.

3- Lời đáp

a1- Nêu chung

Này Thiện nam tử ! Kinh này đã được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật giảng nói; đã được ba đời Như Lai gìn giữ; đã được mười phương Bồ-tát quy y, là con mắt thanh tịnh của mười hai bộ Kinh.

a2- Đáp riêng

b1- Đáp về tên gọi có mấy

Kinh này tên là “Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni”, cũng gọi là “Tu Đa La Liễu Nghĩa”, cũng gọi là “Bí Mật Vương Tam Muội” cũng gọi là “Như Lai Quyết Định Cảnh Giới” cũng gọi là “Như Lai Tạng Tự Tánh Sai Biệt”, ông nên phụng trì.

b2- Đáp về lưu bố địa nào

Này Thiện nam tử ! Kinh này duy hiển cảnh giới Như Lai, chỉ Phật Như Lai mới nói hết được; nếu các Bồ-tát và chúng sanh đời mạt, y đây tu hành lần lượt tăng tiến đến nơi Phật địa.

b3- Đáp về làm sao phụng trì

Này Thiện nam tử ! Kinh này gọi là Đốn giáo Đại thừa, chúng sanh Đốn cơ nương đây khai ngộ, cũng nhiếp tất cả mọi hạng tiệm tu, thí như biển lớn chẳng nhường dòng nhỏ, cho đến muỗi mòng và thần Tu-la, khi uống nước kia đều được no đủ.

b4- Đáp về công đức được nhận

Này Thiện nam tử ! Giả sử có người đem toàn (rặt) bảy báu chứa đầy Tam thiên đại thiên thế giới để dùng bố thí chẳng bằng có người nghe tên Kinh này và nghĩa một câu.

Này Thiện nam tử ! Giả như có người dạy cho chúng sanh trăm hằng hà sa được quả La-hán, chẳng bằng có người giảng nói Kinh này, phân biệt nửa kệ.

b5- Đáp về gia hộ người trì Kinh này

Này Thiện nam tử ! Nếu lại có người nghe tên Kinh này lòng tin chẳng nghi, phải biết người đó chẳng phải chỉ được gieo trồng phước huệ ở một vị Phật hoặc hai vị Phật mà đã như thế nghe Kinh giáo này, gieo trồng thiện căn khắp hằng hà sa tất cả chư Phật.

Thiện nam tử, này ông ! Phải hộ người tu ở đời mạt ấy, không để ác ma và các ngoại đạo làm rối thân tâm của người tu đó, khiến sanh lui sụt.

a3- Những vị ngoại hộ vâng mạng hộ trì

b1- Kim Cang tỏ bày tâm nguyện hộ pháp

Khi ấy, trong hội tám muôn vị Kim Cang như ông Hỏa Đầu Kim Cang, Tồi Toái Kim Cang, Ni Giám Bà Kim Cang v.v… cùng các quyến thuộc của họ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn ! Nếu sau đời mạt, tất cả chúng sanh có thể trì “QUYẾT ĐỊNH ĐẠI THỪA” này, con phải giữ gìn như giữ con mắt; cho đến Đạo tràng chỗ đương tu tập, Kim Cang chúng con thống lãnh đồ chúng, sớm tối giữ gìn chẳng cho thối chuyển; cho đến nhà kia (nhà của người tu: Có thể là chỗ ở riêng, có thể là chỗ ở của cha, mẹ, thân thuộc) hằng không tai chướng, bệnh dịch dứt hết; của báu dẫy đầy, thường không nghèo thiếu”.

b2- Thiên vương tỏ bày tâm nguyện hộ pháp

Khi ấy, Đại Phạm Thiên vương, hai mươi tám vị Thiên vươngTu Di Sơn vương, Hộ Quốc Thiên vương v.v… liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn ! con cũng nguyện hộ người trì Kinh này, thường khiến an ổn, tâm không thối chuyển”.

b3- Quỷ vương tỏ bày tâm nguyện hộ pháp

Khi ấy, có Đại Lực quỷ vương tên Niết-bàn-trà cùng mười muôn Quỷ vương, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, rồi bạch Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn ! Con cũng nguyện hộ người trì Kinh này, sớm chiều theo giữ khiến không lui sụt, chỗ ở người ấy trong một do-tuần, nếu có quỷ thần phạm cảnh giới đó, con sẽ làm cho chúng nó nát như vi trần”.

4- Tổng kết

Phật nói Kinh này rồi, tất cả Bồ-tát, Thiên Long, Quỷ thần, bà con của tám bộ và chư Thiên, Phạm vương v.v… tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tin, chịu vâng làm.

CHÚ THÍCH

Đốn giáo: Giáo pháp Viên đốn, tức là giáo pháp thẳng vượt Phật quả. Những giáo pháp tu hành thứ lớp trải qua nhiều kiếp gọi là TIỆM GIÁO; giáo pháp tu hành không theo thứ lớp, thẳng tắt quả Phật gọi là ĐỐN GIÁO.

Tam thiên đại thiên thế giới: Cứ lấy một ngọn núi Tu-di làm trung tâm và trong đó có bảy lớp núi, tám lớp biển xen nhau vây quanh, lại có dãy Thiết-vi bao bọc bên ngoài, gọi đó là một tiểu thế giới (hay một Thái dương hệ như ta thường gọi).

Và cứ: Hiệp một ngàn (1.000) Tiểu thế giới lại gọi là một TIỂU THIÊN THẾ GIỚI; hiệp một ngàn (1.000) Tiểu thiên thế giới lại, gọi là một TRUNG THIÊN THẾ GIỚI; hiệp một ngàn (1.000) Trung thiên thế giới lại, gọi là một ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI. Vì hiệp ba lần ngàn như vậy mới thành Đại thiên thế giới, nên gọi là TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI.

Vậy: Một Tiểu thiên thế giới gồm có

1.000 Tiểu thế giới.

Một Trung thiên thế giới gồm có:

1.000 x 1.000 = 1.000.000 Tiểu thế giới.

Một Đại thiên thế giới gồm có: 1.000x1.000.000= 1.000.000.000 Tiểu thế giới (một tỷ Tiểu thế giới hay một tỷ Thái dương hệ). Một Đại thiên thế giới chính là Tam thiên đại thiên thế giới vậy.

Hai mươi tám vị Thiên vương: Là sáu vị Thiên vươngDục giới, 18 vị Thiên vươngSắc giới và 4 vị Thiên vươngVô sắc giới, tổng cộng là 28 vị như sau: 

6 vị Thiên vương ở cõi Dục: 

 blank

18 vị Thiên vương ở cõi Sắc: 

Sơ Thiền có 3: 

7- Phạm Chúng Thiên vương.

8- Phạm Phụ Thiên vương.

9- Đại Phạm Thiên vương.

Nhị Thiền có 3: 

10- Thiểu Quang Thiên vương.

11- Vô Lượng Quang Thiên vương.

12- Quang Âm Thiên vương.

Tam Thiền có 3:

13- Thiểu Tịnh Thiên vương.

14- Vô Lượng Tịnh Thiên vương.

15- Biến Tịnh Thiên vương.

Tứ Thiền có 3:

16- Phước Sanh Thiên vương.

17- Phước Ái Thiên vương (Vô Vân Thiên)

18- Quảng Quả Thiên vương.

Ngũ Tịnh Cư Thiên có 6:

19- Vô Tưởng Thiên vương.

20- Vô Phiền Thiên vương.

21- Vô Nhiệt Thiên vương.

22- Thiện Kiến Thiên vương.

23- Thiện Hiện Thiên vương. (Hòa Âm Thiên)

24- Sắc Cứu Cánh Thiên vương.

Tứ Không có 4:

25- Vô Biên Không Xứ Thiên vương.

26- Vô Biên Thức Xứ Thiên vương.

27- Vô Sở Hữu Xứ Thiên vương.

28- Vô Phi Tưởng Xứ Thiên vương.

Trong 28 vị Thiên vương này, nếu tách Tứ Thiên vương ra làm bốn là:

- Đông Phương Trì Quốc Thiên vương.

- Nam Phương Tăng Trưởng Thiên vương.

- Tây Phương Quảng Mục Thiên vương.

- Bắc Phương Đa Văn Thiên vương.

cộng thêm Phạm Thiên vương thuộc Sơ Thiền, là Đại Tự Tại Thiên vương (tức Ma Hê Thủ La Thiên vương) ở Ngũ Tịnh Cư, tức là năm vị này nữa thì thành 33 vị Thiên vương của 33 cõi trời.

Hằng hà sa (Ganga( nadi Va(luka(): Cát của sông Hằng. Vì cát của sông Hằng nhiều hơn cát của sông khác không thể tính đếm được lại là chỗ Phật giáng sinh cũng là nơi thường du hành, đệ tử hiện thấy, nên mỗi khi muốn nói đến số lượng quá nhiều không thể tính đếm được thì Phật lấy đó để thí dụ.

Vậy hễ khi nói đến “Hằng hà, Hằng hà sa hay Hằng hà sa số” thì đó là con số quá nhiều không thể tính đếm được.

Do tuần (Yojana): Do-tuần cũng gọi là Du-tuần, Diêu-tuần hay Du-xà-na cũng có chỗ dịch (Tân dịch) là Du-thiện-na là con số tính về chiều dài, như ta nói về dặm hay cây số vậy.

Số do-tuần có nhiều nơi giải thích khác nhau, ta có thể trích dẫn vài lối giải thích như sau:

- Do-tuần là một ngày hành quân của một vị Đế vương.

- Tây Vức Ký quyển hai nói: Do-tuần có 40 dặm.

- Hữu Bộ Bách Nhứt Yết Ma quyển ba nói: Do-tuần có 32 dặm.

- Theo quốc tục của Ấn Độ, do-tuần có 30 dặm.

- Kinh Duy Ma, quyển 6 nói: Do-tuần có chia ra làm: Thượng, trung và hạ.

- Thượng do-tuần có 60 dặm.

- Trung do-tuần có 50 dặm.

- Hạ do-tuần có 40 dặm.

Nhưng căn cứ trong Thánh giáo ghi chép thì do-tuần có 16 dặm.

Các ước số của do-tuần là một tạp số: Một do-tuần có 8 Câu-lô-xá, một Câu-lô-xá có 500 cung, một cung có 4 trửu, một trửu có 24 chi tiết, một chi tiết có 7 túc mạch.

Trong Câu Xágiải thích số trửu như sau: Một trửu đo từ khuỷu tay (từ đầu cùi chỏ) đến cuối đầu ngón tay giữa, tức là: 1 xích 8 tấc (1 thước 8 tấc). Nếu ta tính sang thước tây thì: 1 trửu = 1 xích 8 tấc = 0m,32 x 1 xích 8 tấc = 0m,576.

Nếu như do-tuần được tính ra:

Một do-tuần= 60 dặm= 60 x 576m= 34.560m 

 = 34km560

50 dặm= 50 x 576m= 28.800m = 28km800

40 dặm= 40 x 576m= 23.040m = 23km040

16 dặm = 16 x 576m= 9.216 m = 9km216

Nhưng thông thường trong các Kinh dùng số do-tuần là 40 dặm tức là 23km040.

ĐẠI Ý

Chương này là phần tổng kết, tức là phần chót của bộ Viên Giác. Trong đấy ngài Hiền Thiện Thủ thưa hỏi Đức Phật về năm việc lưu thông của Kinh này, và các vị Thiện thần phát tâm hộ pháp.

LƯỢC GIẢI

Bổn Kinh khởi thỉ từ năm phần chứng tín, đoạn duyên khởi được rõ bày; giữa rộng nói về Chánh tông, pháp nghĩa đã đủ. Nay đây muốn cho mưa pháp được khắp nhuần, cõi xa cùng rưới; tâm đăng chẳng dứt, sáng mãi về sau, khiến cho sự lưu thông khỏi bị ngưng trệ, việc lợi sanh tiến tới không ngừng, thì ngài Hiền Thiện Thủ thật xứng đáng nhận lấy trách nhiệm này.

Bởi vì “HIỀN” thì gần bậc Thánh (Á Thánh) “THIỆN” thì thuận với Lý, “THỦ” là đứng đầu mọi việc. Phần lưu thông là muốn cho tất cả người lành cùng dự, cùng thuận với chơn lý để thành nhân chánh vị, trên kề quả Thánh, nên nhứt định phải lưu thông Kinh giáo. Kinh giáo lưu thông là đầu của HIỀN THIỆN, nên phần lưu thông phải là ngài Hiền Thiện Thủ vậy.

Trong đoạn 1, ngài Hiền Thiện Thủ nêu lên năm việc: Danh tự, phụng trì, công đức, hộ trìlưu bố để hỏi, ấy đều là những điểm tổng kết toàn Kinh, nên trước nói lên câu “Đại thừa giáo này”. “Đại thừa giáo này” là chỉ cho toàn Kinh vậy.

Nói: “Khai ngộ việc Bất tư nghì như thế” là vì trong phần Chánh tông đã khai ngộ nào CẢNH, nào HẠNH, nào BỆNH HOẠN v.v… cho đến những phương tiện ở chương trước nói, tất cả đều là việc Bất tư nghị, nên đây nêu lên để làm lời mở đầu cho câu hỏi.

Đoạn 2, không có ý nghĩaẩn khuất nên không cần phải giảng.

Trong đoạn 3, phần a1, là phần tổng nêu, có liên hệ với ý sẽ đáp những việc đã hỏi. Ở đây, nêu lên những điểm đại yếu, làm cho người nghe quyết định rõ ràng mà sanh tâm vui mừng tin thọ. Bốn điểm đại yếu như sau:

1- Vì Liễu nghĩa Kinh là xứng tánh mà nói, Bất liễu nghĩa Kinh thì phương tiện mà nói. Phương tiện nói thì có khi y nơi phương vực; có khi y theo thời đại, có khi y nơi căn tánh của mỗi mỗi chúng sanh không đồng nên có: Lược nói, quyền nói, mật ý nói, tùy thế tục nói, cho đến tùy theo bao nhiêu sai biệt mà nói.

Vì những phương tiện v.v… mà nói nên có khi Đức Phật này nói mà Đức Phật kia không hẳn đã nói. Vì vậy, Bất liễu nghĩa Kinh có chỗ nói mà có chỗ không nói; còn ở đây, Liễu nghĩa Kinh không có Phật nào là không nói, nên nói rằng: “Đã được hằng hà sa chư Phật giảng nói”.

2- Vì Viên giácpháp hạnh nhơn địa của tất cả Như Lai, như chương Văn Thù nói rằng: “Những điểm cơ bản phát khởi từ nơi nhơn địa của tất cả Như Lai đều y nơi Giác tướng thanh tịnh viên chiếu, vô minh hằng dứt Phật đạo mới thành”.

Bồ-tát cầu đạo, nếu như chưa nghe được Viên giác, ấy vẫn là chưa được chánh nhân thành Phật, đây là điều quan hệ không phải nhỏ vậy. Nên “Chư Phật hộ trì” chính là khiến cho những người chưa từng nghe thảy đều được nghe.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật hộ trì pháp này khiến cho tất cả Bồ-tát đời sau, những người chưa nghe thảy đều được nghe”.

Lại trong các Kinh Pháp Hoa, Di Đà v.v… đều khen là “Pháp được chư Phật hộ niệm” thì đúng là ý đây vậy, nên nói rằng: “Đã được ba đời Như Lai gìn giữ”.

3- Vì chương Văn Thù nói: “Có môn Đại Đà-la-ni gọi là Viên giác, lưu xuất tất cả Chơn như thanh tịnh, Bồ-đề, Niết-bàn và pháp Ba-la-mật, dạy trao cho Bồ-tát”. Môn Viên Giác Đà-la-ni này là Tổng trì tất cả Pháp bảo thanh tịnh, nên mười phương Bồ-tát, không vị nào là chẳng quy y, nên nói rằng: “Đã được mười phương Bồ-tát quy y”.

4- Vì Kinh này, nghĩa nó không chỗ nào là không thâu nhiếp, lý của nó không chỗ nào là không dung nạp, nên hễ hiểu được Kinh này thì mười hai bộ Kinh giáo Tiểu thừaĐại thừa được nhờ đó mà quán thông, chẳng khác nào con mắt thanh tịnh thấy rõ tất cả, nên nói rằng: “Con mắt thanh tịnh của mười hai bộ Kinh”. Mười hai bộ Kinh là 12 bộ loại, tức là 12 phần giáo như trước đã giảng, chứ không phải 12 bộ là 12 quyển hay 12 cuốn.

Đoạn a2 là phần chi tiết, trong đây có năm đoạn nhỏ: 

Đoạn b1 nói về tên Kinh. Ở đây Đức Thế Tôn tự định cho bộ Kinh này năm cái tên để trả lời câu hỏi: “Tên gọi có mấy?”. Năm tên là:

1- Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni.

2- Tu Đa La Liễu Nghĩa.

3- Bí Mật Vương Tam Muội.

4- Như Lai Quyết Định Cảnh Giới.

5- Như Lai Tạng Tự Tánh Sai Biệt.

Hai tên trước trong đoạn văn giảng về đề Kinh đã giải thích rồi, nhưng văn ở đề Kinh chỉ nêu lên phần Hiển mà nhiếp đi phần Mật, nên lược bỏ ba chữ “Đà-la-ni”. Đà-la-ni dịch là Tổng trì, đã giải thích trong chương Văn Thù “Đà-la-ni môn”.

Tên thứ ba là BÍ MẬT VƯƠNG TAM MUỘI, tức là Tam-ma-địa, dịch là Đẳng trì, Chánh định, Chánh thọ, Chánh tư duy v.v… Viên giác Tam muộiTổng trì tất cả Tam muội, nên gọi là VƯƠNG. Lại vì cảnh giới cứu cánh, chơn thật duy có Phật riêng chứng, chẳng những chúng sanh không thể biết được mà hàng Đẳng giác cũng không thể xem xét đo lường được, nên gọi là “BÍ MẬT”.

Tên thứ tư là NHƯ LAI QUYẾT ĐỊNH CẢNH GIỚI, vì Viên Giác là cảnh của Như Lai cực chứng, chúng sanh từ bậc Đẳng giác trở lui, thấy nó là bí mật, nên duy có Như Lai mới quyết định biết rõ.

Tên thứ năm là NHƯ LAI TẠNG TỰ TÁNH SAI BIỆT, “Như Lai Tạng” là đứng về địa vị “Huyễn chưa dứt hẳn, Giác chưa hiển phát”, tức là lấy cái nghĩa: “Như Lai quả giác hàm tàng trong tâm chúng sanh” mà đặt tên, chính là Viên giác ở trong triền phược. Tuy ở trong huyễn vọng mà chẳng bị huyễn vọng làm biến dạng, ấy là TỰ TÁNH; tùy duyên mà khởi ra Hạnh vị, phương tiện các huyễn và các công đức, ấy là SAI BIỆT.

Câu chót: “Ông nên phụng trì” là tổng đáp về “Vâng giữ”.

Đoạn b2 là đáp câu hỏi “Lưu bố Kinh này đến quả địa nào?”. “Lưu bố” là tổng chỉ cho mười pháp thực hành:

1- Cúng dường. 2- Viết chép.

3- Bố thí. 4- Dự nghe.

5- Thọ. 6- Đọc.

7- Tụng. 8- Giảng nói.

9- Tư. 10- Tu.

Ý đáp rằng: “Kinh này, chỗ hiển thị chỉ là cảnh giới Như Lai, đó là cảnh giới thậm thâm, bí mật, duy có Phật mới giảng nói thấu đáo; đến như Bồ-tát và chúng sanh đời sau y nơi Kinh này mà tu mười pháp hạnh lần lượt lưu bố, ấy là nhờ Kinh mà hiển được Phật cảnh, rồi y Kinh tu mười pháp này thì công đức kia lần lượt tăng tiến, tất đến được Phật địa”.

Đoạn b3 là đáp về phụng trì. Bởi vì tu tập ngộ nhập một cách thiết thực đó là phụng trì.

Câu thứ nhứt nói: Tự thể của bổn Kinh, nếu giới hạn (so) về GIÁO, thì đó là ĐỐN GIÁO; nếu giới hạn về THỪA, thì đó là ĐẠI THỪA, nên nói rằng: “Kinh này là Đốn giáo Đại thừa”.

Vì vậy, căn cơ chính thức được hóa độ là hàng ĐỐN CƠ, nên nói rằng: “Chúng sanh Đốn cơ nương đây khai ngộ”. Lại còn phụ nhiếp luôn hạng Tiệm cơ, nên nói: “Cũng nhiếp tất cả mọi hạng Tiệm tu”.

Tiếp theo là dùng dụ để giải rõ: “Chẳng nhường dòng nhỏ” là dụ cho các pháp Nhị thừa và Nhơn, Thiên; “Muỗi mòng” là dụ cho người ưa Tiểu pháp; “Tu-la” là dụ người có Đại tâm; “Khi uống nước kia đều được no đủ” là dụ cho bất cứ người nào, nếu y giáo tu tập đều được tùy tâm lượng mà ứng hiệp đầy đủ không sao cùng tận.

Đoạn b4 là đáp về câu hỏi: “Chúng sanh tu tập được công đức gì?”. 

Trước tiên đem Tài thí để tỷ lệ, kế dùng Pháp thí để đối chiếu. Xét ra, khi đem bảy báu chứa đầy cả Tam thiên đại thiên thế giớibố thí thì công đức của loại tài thí này quá sức to tát, nhưng chỉ có thể được phước báo hữu lậu mà thôi, nên không thể nào sánh bằng được người nghe tên Kinh này và nghĩa của một câu. Vì chỗ nghe tuy ít nhưng trọn thành cái nhân vô lậu.

Lại như: Dạy cho người nhiều hơn trăm lần số cát sông Hằng đều chứng quả A-la-hán, kể ra thì loại công đức pháp thí này cũng thật là quá lớn; nhưng đó chỉ giới hạn trong phạm vi Tiểu quả, không thể nào sánh bằng sự phân biệt giảng nói văn cú chừng nửa bài kệ của Kinh liễu nghĩa này. Vì chỗ nói tuy ít mà nghĩa được thẳng nhập Phật thừa, chứng thành quả Phật.

Đoạn b5 là đáp câu hỏi: “Làm sao khiến con hộ người trì Kinh?”. Nói “Nghe tên Kinh” thì đủ biết vẫn chưa được nghe nghĩa Kinh. Mới nghe tên Kinh liền có thể sanh ra tín tâm, đã là khó được, huống chi sanh ra lòng tin quyết định không còn nghi hoặc, thì lại càng khó khăn hơn nữa.

Phải biết những người như thế phước và huệ rất nhiều, chẳng phải chỉ được gieo trồng các phước huệ đó ở nơi một vị Phật hoặc hai vị Phật, mà thật từ nhiều kiếp trước đối với tất cả các Đức Phật đã được gieo trồng căn lành rồi, và cũng được nghe qua Kinh giáo này, đó là việc quyết nhiên chứ không phải ngẫu nhiên. Những người như thế thật là rất hiếm, phải được ủng hộ.

Cũng trong đoạn này, từ Thiện nam tử trở xuống là Phật dạy phải hộ trì những người tu hành. “Người tu hành” là tổng chỉ cho người nghe danh sanh tín, cho đến những người như thật tu hành.

Ở đây, chúng ta thử xét: Vì sao phải hộ trì?

ác ma tham luyến trần lao, ngoại đạo nhiễm trước tà kiến, cả hai đều ghét Chánh pháp, nên khi gặp những người tu, tất nghĩ cách làm cho não loạn thân tâm, khiến sanh lui sụt. Phương chi, gặp đời mạt pháp ma ngoại dẫy đầy, nếu không được sự hộ trì tất dễ sanh thối chuyển, vì vậy rất cần có sự bảo hộ để cho chúng không làm hại.

Đoạn a3 là nói những vị ngoại hộ vâng mạng hộ trì. Trước tiên là thần Kim Cang.

Đoạn b1 là thần Kim Cang tỏ bày ý nguyện hộ pháp của mình. Kim Cang là cầm chày (gậy) bằng kim cang mà thành tên, có nghĩa là Lực sĩ. Những vị này đều do Cổ Phật hoặc Bồ-tát thị hiện ra hình tướng võ trang để hộ pháp, tuy hiện ra hình tướng võ trang, kỳ thật y theo công dụng phương tiện từ bi mà khởi.

“HỎA ĐẦU” là trên đầu vị thần này có lửa sáng. Ấy là do quán Hỏa tánh mà đắc đạo, tức là chuyển cái tâm đa dâm trở thành Trí huệ hỏa, nên lấy đó làm tên. Xưa kia ông đã phát nguyện đối với các Đức Phật, hễ Đức Phật nào thành đạo thì ông nguyện làm lực sĩ gần gũi để dẹp trừ ma oán.

“TỒI TOÁI” là đập nát, đây là kêu tên theo công dụng.

“NI GIÁM BÀ”: Theo ngài Khuê Phong thì nói: “Chưa rõ nghĩa”, nhưng theo ngài Hoằng Lệ La Phong thì: Ni-giám-bà dịch là CƯƠNG MÃNH lại dịch là LY KIẾT PHƯỢC, nghĩa là do dũng tiến mà lìa được sự trói buộc.

Những vị Kim Cang trên có đến tám muôn (80.000) người và các quyến thuộc, nương theo ý chỉ hộ người trì Kinh ở trước mà lễ Phật phát nguyện hộ pháp và hộ người ở trong đời mạt pháp.

Nói: “Như hộ con mắt” là cực tả việc hộ trì rất gắt gao.

Riêng hai chữ “KỲ GIA” (nhà của người kia) trong câu “Kỳ gia nãi chí vĩnh vô tai chướng…”. Ở Kinh văn thì các nhà giải thích có đôi phần dị biệt:

1- “Cho đến nhà kia (kỳ gia) v.v…” là giữ gìn người tu hành tại gia “Của không nghèo thiếu” là “Dẫy đầy” (phong tức) (Thái Hư).

2- Nhà kia là chúng tại gia (Kỳ gia giả tại gia chúng dã) (Tịch Chánh).

3- Câu: “Nhà kia…” là hộ trì quyến thuộc và các tư cụ. Đây là gồm chúng tu tại gia (Hoằng Lệ La Phong).

4- “Nhà kia” (Kỳ gia) trở xuống là gồm hộ nhà của người kia. Nhà của người kia chính là chỗ ở riêng. “Hằng không tai chướng v.v…” là chỉ rõ nhơn quyến bình an; “Của báu dẫy đầy” là chỉ rõ gia đạo xướng thạnh (Thông Lý).

Trong đây lời giải thích của ngài Thái Hư và ngài Tịch Chánh có thể cho ta hiểu rằng: “Chẳng những hộ trì cho người xuất gia mà cũng hộ trì luôn cho hàng tại gia tu hành Viên Giác nữa”. Nếu hiểu như thế, không sai ý Kinh, nhưng không ăn khớp với văn mạch.

Còn lời giải thích của ngài Hoằng Lệ thì lại làm cho chúng ta không biết hiểu theo lối nào: Vì trước ngài nói: “Câu nhà kia v.v… là hộ trì quyến thuộc và các tư cụ”, như vậy cho ta hiểu rằng: “Người tu Viên giác chẳng những được thần Kim Cang hộ trì chính người đó mà còn hộ trì quyến thuộc của người đó nữa”. Nhưng tiếp theo ngài lại nói: “Đây là gồm chúng tu tại gia”, đến đây làm cho chúng ta sanh ra nghi vấn: “Chúng tu tại gia này không biết có phải là quyến thuộc của người tu Viên Giác kia không? Hay là chúng tu tại gia nào khác? Nếu là quyến thuộc của người tu Viên Giác, vậy trường hợp quyến thuộc đó không phải là người tu tại gia thì sao? Vì khi mình tu mà cha, mẹ, anh, em của mình chưa hẳn đã tu. Còn như: Người tu tại gia đó không phải là quyến thuộc, là chúng tại gia khác thì lại không ăn khớp với văn mạch”.

Vậy theo ý của dịch giả, chỉ có lời giải thích của ngài Thông Lý là rõ ràng hơn cả.

Ở đây, dịch giả cũng xin thêm một vài ý kiến để được sáng tỏ:

Theo trong Hán ngữ, chữ kỳ khi đứng trước một danh từ, nó là CHỦ HỮU HÌNH DUNG TỪ, người ta thường dịch là: “Của nó, của họ, của người kia, của người ấy v.v…”; Chữ GIA thường là chỉ cho: “Gia đình, gia quyến, gia tộc v.v…” chứ không phải chỉ cho cái nhà của mình ở mà là chỉ cho chỗ ở. Trong chữ GIA gồm có: Vườn, nhà, cha mẹ, anh, chị, em v.v… cùng đoàn tụ, nên hai chữ “Kỳ gia” tôi dịch là NHÀ KIA, tức là “Nhà của người kia”, chính là gia đình hay gia quyến của người tu Viên Giác. Vậy chữ “Nhà kia” có thể là: 

- Chỉ cho gia đình của người tại gia.

- Chỉ cho gia quyến của người xuất gia.

Vì người xuất gia tu hành vẫn còn có lục thân quyến thuộc nếu chẳng may đang lúc tu hành mà trong những người thân đó bị những tai ách, bệnh tật, nghèo đói v.v… cũng có thể làm cho thân tâm của người tu kia sanh ra não loạn.

Do đó, nếu muốn hộ trì người tu Viên Giác khỏi bị thối chuyển, chẳng những phải hộ trì cho chính người tu đó mà còn cần phải hộ trì cho cả gia quyến của người ấy nữa để cho thân quyến đều được bình an, hằng không tai chướng; gia đạo hưng thạnh, của cải dẫy đầy, thì nhân tâm của người tu mới không bị rối loạn.

Đoạn b2 là Thiên vương tỏ bày chí nguyện hộ pháp. Đại Phạm Thiên tức là chủ của thế giới Ta-bà. Hai mươi tám vị Thiên vương là tổng chỉ cho chư Thiên trong Tam giới. Tu Di Sơn vương tức là Đế Thích chủ ở cõi trời Đao Lợi. Hộ Quốc Thiên vương, tức là Tứ Thiên vương.

Theo trong Đại Sớ thì: “Sở dĩ riêng nói ba loại trời như thế là vì Đại PhạmĐế Thích khi chư Phật chuyển pháp luân đều là những vị thỉnh thủ (Thỉnh Phật thuyết pháp); còn Hộ Quốc Thiên vương thì hộ trì khiến các tai ách chẳng sanh, nên thường được nói rõ”.

Đoạn b3 là nói về Quỷ vương tỏ bày chí nguyện hộ pháp. Kiết-bàn-trà tức là Cưu-bàn-trà. Kiết-bàn-trà tuy thuộc về loài quỷ nhưng lại tiếp cận với loài người, ăn tinh huyết của người, thân hình rất đáng sợ, thần thông biến hóa rất nhiều.

Đoạn 4 là phần tổng kết của bộ Kinh.

Bồ-tát là chúng đương cơ, ngoài ra là chúng hộ pháp. Kinh này từ bắt đầu cho đến hết phần chánh thuyết, đều là những việc trong cảnh Tịnh Độ, nên đầu Kinh chỉ nêu lên chúng Bồ-tát đương cơ, đến đây là phần Lưu thôngthế gian thì lại nêu lên chúng Bát bộ hộ pháp, ấy là Tha thọ dụng thông với Ứng hóa độ.

Lại chúng được nói trong phần này, mặc dù quốc độ họ ở tuy có bất đồng, nhưng chỗ hội họp chỉ tại một nơi, duy có người nghe pháp thì tâm cảnh đều khác.

“Phật nói Kinh này rồi” là người nói LỜI ĐÃ HẾT; “Tin chịu vâng làm” là người nghe HẠNH BẮT ĐẦU.

Bởi nhân có NGHE, rồi mới có TIN; có TIN rồi mới có CHỊU, có TIN CHỊU thì mới có VÂNG LÀM nên CUỐI CÙNG của việc NÓI là BẮT ĐẦU của việc LÀM.

Bổn Kinh chú trọng về HẠNH mà kết thúc bằng lời “Tin chịu vâng làm”, đó cũng là cực tả được pháp chúng tại hội lấy cái giờ phút sau khi nghe giáo làm giờ phút bắt đầu khởi hạnh.

Chúng ta sanh ra không gặp được Phật tự mình đã thuộc vào hạng người “Bất hạnh” nhưng ngôn giáo của Đức Như Lai còn để sót lại, nhờ có bao nhiêu sức hộ trì mà được lưu thông đến tận ngày nay, khiến cho chúng ta y giáo giải lý, chẳng khác gì được thân nghe trong pháp hội, đó chính là điều may trong chỗ không may vậy. Do đây, chúng ta có thể nghiệm biết không phải không có căn lành tự mình gieo trồng từ nhiều kiếp trước.

Vậy chúng ta cần phải tìm hiểu:

- Y giáo giải lý với mục đích gì? Ấy là nhắm vào mục đích như thật tu hành. Nếu không tu hành thì đó chỉ là bàn suông vô bổ.

- Còn tu hành phải nhắm vào mục đích nào? Ấy là nhắm vào kết quả.

Nếu như có thể nhờ việc hộ trì mà khiến cho mọi người đều thành quả Phật thì đó mới là toại được bản nguyện của Đức Thế Tôn. Đức Như Lai xuất hiện ở đời cũng chỉ vì một đại sự nhân duyên ấy vậy.

Dịch xong tại KHÁNH VÂN

 blank

blank

blank

blank

blank

blank

blank

 PHẦN PHỤ

Sau đây là 14 bài tụng của ngài Thích Hành Đình, tóm hết được đại ý của toàn Kinh, dịch giả xin chép ra đây để cống hiến cùng bạn đọc.

ÂM

1- Tự phần thuyết nghi

Viên Giác tiên tu liễu thuyết nghi,

Bất đồng uế độ hổn phàm ky,

Bà-già-phạm chủ thân toàn hiện,

Đại quang minh tạng xứ hy kỳ.

Bách thiên Đại sĩ đồng tư hội,

Thập nhị Chơn nhơn dục vấn thì,

Bất nhị cảnh trung viên cánh tượng,

Hà thù quang oánh tịnh lưu ly.

TẠM DỊCH

Phần tự nói về nghi thức

Viên Giác trước cần rõ thức nghi,

Chẳng đồng uế độ lộn phàm ky (phàm cơ),

Bạc-già chủ, hội thân toàn hiện,

Minh tạng xứ, kinh thể khác kỳ,

Đại sĩ trăm ngàn cùng họp đó,

Chơn nhơn hai sáu (12) hỏi vừa thì,

Bất nhị cảnh kia gương khắp chiếu,

Khác nào ánh sáng ngọc lưu ly.

ÂM

2- Tụng Văn Thù chương

Diệu Đức sơ trưng bổn khởi nhân,

Tằng tri ly bệnh khả tu chơn,

Đà-la-ni môn châu pháp giới,

Đại viên giác hải tuyệt nhai tân,

Vô minh mộng lý mê duyên ảnh,

Ế nhãn hoa trung vọng chấp thân,

Hốt nhiên mộng tĩnh ế hoa diệt,

Hà tằng động trước bổ lai nhân.

TẠM DỊCH

Bài tụng chương Văn Thù

Diệu Đức trước nêu bổn khởi nhân

Biết rằng ly bệnh mới tu chơn,

Tổng trì môn nọ cùng sa giới,

Viên giác biển kia tuyệt thủy tần.

Trong mộng vô minh mê với ảnh,

Trong hoa mờ mắt chấp là thân,

Thốt nhiên mộng tỉnh mờ, hoa dứt,

Nào đã can gì đến cố nhân.

ÂM

3- Tụng Phổ Hiền chương

Phổ Hiền thứ vấn tiệm tu chơn,

Thông vị tam căn thẩm hạnh môn,

Huyễn phỉ giác tâm, tâm ngoại vật,

Hoa phi không tánh, tánh trung tồn,

Giác tâm bất động vọng hoa tịch,

Vọng cảnh vô sanh trí thục luân,

Huyễn tận Giác viên chơn thể hiện,

Khôi phi yên diệt hỏa vô nhân.

TẠM DỊCH

Bài tụng chương Phổ Hiền

Phổ Hiền tiếp hỏi tiệm tu chơn,

Giúp cả ba căn chọn hạnh môn,

Huyễn khác Giác tâm, tâm giác ngoại,

Hoa rời Không tánh, Tánh không tồn,

Giác tâm chẳng động, hoa cùng lặng,

Vọng cảnh không sanh trí dễ còn,

Huyễn hết, giác đầy, chơn thể hiện,

Tro bay, khói dứt, lửa không nhân.

ÂM

4- Tụng Phổ Nhãn chương

Phổ Nhãn viên dung nhân, quả tướng,

Thân tâm ảnh tượng thể tùy vọng,

Tiên liễu nhị không thanh tịnh môn,

Thứ tu tam quán viên đốn hạnh.

Năng, sở kiêm vong phàm Thánh tình,

Ái, tắng minh phục luận sai đương,

Tằng tri bổn hữu ma-ni châu,

Ngũ sắc thanh huỳnh diên khả trạng.

TẠM DỊCH

Tụng chương Phổ Nhãn

Phổ Nhãn viên dung nhân quả huyền, ([1])

Thân tâm bóng dáng vọng theo liền,

Nhị không trước rõ môn thanh tịnh,

Tam quán sau tu hạnh đốn viên,

Năng, sở quên luôn phàm, Thánh chấp,

Ghét, thương nào luận đúng, sai miền,

Ma-ni sẵn có ta từng biết,

Năm sắc xanh, vàng… ánh bóng thiên. ([1])

(Bài dịch hai)

Chương Phổ Nhãn viên dung nhân quả,

Bóng thân tâm vọng đã theo liền,

Nhị không biết rõ trước tiên,

Kế tu tam quán hạnh viên đốn tròn,

Tình Phàm, Thánh không còn Năng, Sở,

Luận đúng, sai phải sợ ghét, thương,

Ma-ni sẵn có tỏ tường,

Ánh ra năm sắc xanh, vàng… hình dung.

ÂM

5- Tụng Kim Cang Tạng chương

Kim Cang chấp nạn Thánh phàm thân,

Bổn ngộ duyên hà hữu vọng nhân,

Tam vấn liên hoàn phân biệt kiến,

Chư môn khai dụ tánh nguyên chơn,

Không hoa khởi diệt nguyên do vọng, 

Kim khoáng tiêu dung vĩnh tuyệt trần,

Nhược yếu trắc lường Viên Giác hải,

Nhập tư duy địa bội trầm luân.

TẠM DỊCH

Tụng chương Kim Cang Tạng

Kim Cang cật vấn Thánh, phàm thân,

Vốn ngộ sao mà có vọng nhân?

Ba lớp hỏi dồn phân biệt kiến,

Các môn mở dụ tánh nguyên chơn,

Không hoa khởi diệt, đầu do vọng,

Vàng khoáng tiêu dung, hẳn tuyệt trần,

Nếu phải đo lường Viên giác thử,

Nhập tư duy địa chắc không phần.

ÂM

6- Tụng Di Lặc chương

Di Lặc suy cứu luân hồi bản,

Nhược đoạn tham ái sanh tử tận,

Ái dục vi nhân quá ký thâm,

Ái mạng vi quả duyên nan dẫn,

Nhị chướng tựu ư ngũ tánh phân,

Tứ sanh toại thành lục đạo uẩn,

Nhược thân thiện hữu ái kiến vong,

Tự nhiên ngộ nhập Vô sanh nhẫn.

TẠM DỊCH

Tụng chương Di Lặc

Di Lặc luân hồi gốc xét sâu,

Dứt đi tham ái, tử sanh đâu !

Nhân thì ái dục lầm xây đống,

Quả lại tham sanh ([1]) lỗi ngập đầu,

Hai chướng phân ra năm tánh rõ,

Bốn loài hợp lại sáu đường sầu ! 

Muốn không “Ái kiến” gần bè bạn,

Sanh nhẫn tự nhiên ngộ pháp mầu.

ÂM

7- Tụng Thanh Tịnh Huệ chương

Tịnh Huệ luận bày chứng ngộ nhân,

Cưỡng phân tứ vị thuận thiên chơn,

Phàm hiền Thánh quả tuy nhiên dị,

Ngộ mê nhiễm tịnh dữ tùy thân,

Tiên minh y vị tuần chư tánh,

Thứ biện vọng tâm đốn chứng nhân,

Nhứt trí liễu nhiên siêu thoát xứ,

Hữu vô tình tận giác nha xuân.

TẠM DỊCH

 Tụng chương Thanh Tịnh Huệ

Tịnh Huệ luận bày chứng ngộ nhân,

Cưỡng phân bốn vị thuận thiên chơn,

Phàm, Hiền, Thánh quả tuy rằng khác,

Tịnh, nhiễm, ngộ, mê há chẳng gần?

Trước giải y ngôi theo các tánh,

Sau bàn đốn chứng bởi quên tâm,

Làu làu một trí ngôi cao vút,

Tình hết “Hữu, Vô” giác mãn phần.

ÂM

8- Tụng Oai Đức chương

Oai Đức thỉnh khai tam chủng quán,

Trung căn thỉ thử phân chướng đoạn,

Tứ môn khai xứ nhâm phương lai,

Tam loại tu thời phi tạp loạn,

Tĩnh kính viên minh toàn hiển chương,

Huyễn miêu tăng trưởng vô nhai bạn,

Khí trung hoàn khả dụ Thiền-na,

Tam pháp năng siêu sanh tử ngạn.

TẠM DỊCH

Tụng chương Oai Đức

Oai Đức xin khai ba pháp quán,

Trung căn từ đấy theo giai đoạn, 

Bốn bề bỏ ngõ mặc cho vào,

Ba loại tu trì không rối loạn.

Tịnh kính sáng tròn hiện rõ ra,

Huyễn miêu lớn tốt không còn hạn,

Tiếng trong đồ vật dụ Thiền-na,

Ba pháp vượt lên sanh tử ngạn.

ÂM

9- Tụng Biện Âm chương

Biện Âm hựu vấn kỷ ban luân?

Kỷ chủng tu trì khả chứng chơn,

Đơn phúc viên môn tuy hữu dị,

Tĩnh, huyễn, tịch quán yếu khu phân,

Các an tiêu ký dục thâm kiết,

Tiên mộ cầu ai hối tội căn,

Nhị thập ngũ luân y huyễn giác,

tu tập xứ thị tu nhân.

TẠM DỊCH

Tụng chương Biện Âm

Biện Âm lại hỏi có bao luân?

Mấy hạng tu trì để chứng chơn?

Đơn, kép viên môn tuy có khác,

Giả, không, trung quán cốt rành phân,

Mỗi môn tiêu ký tìm dò chọn,

Trước phải cầu ai sám tội căn,

Luân số hăm lăm (25) y huyễn giác,

Chỗ không tu tập tạm công luân.

ÂM

10- Tụng Tịnh Chư Nghiệp chương

Tịnh nghiệp đoạn trừ nhơn ngã chấp,

Cu duyên tứ tướng vọng mê tập,

Vô minh chủ tể vi ngã căn,

Tâm tồn chứng giả ái nhơn lập,

Thọ mạng, nghiệp trí tiềm tục tồn,

Chúng sanh, ngã nhơn sở bất cập,

Do tư tắng, ái phiền não sanh,

Giác thành muội thử hà năng nhập.

TẠM DỊCH

 Tụng chương Tịnh Chư Nghiệp

Nhơn ngã chấp trừ, Tịnh nghiệp chướng,

Vọng mê bốn tướng đã quen thường,

Ngã căn làm chúa vô minh dậy,

Chứng đắc dính lòng nhân chấp nương,

Nghiệp trí, mạng căn thầm nối mãi,

Chúng sanh, nhân ngã sánh khôn bường,([1])

Ghét, yêu bởi đó sanh phiền não,

Thành giác mù đây phải tuyệt đường.

ÂM

11- Tụng Phổ Giác chương

Phổ Giác ly bệnh thác sự thân,

Đương y đoan chánh tri kiến nhân,

Hành, Trụ, Tọa, Ngọa tích mạc kế,

Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt bệnh phi nhân,

Tự tha trừ bệnh bất trừ pháp,

Cúng sự xả tài cập xả thân,

Tắng ái trực tu vô chủng tử,

Thỉ ư Viên giác khả tu chơn.

TẠM DỊCH

Tụng chương Phổ Giác

Phổ Giác: Tìm thầy dứt bệnh căn,

Phải y Chánh kiến để cầu thân,

Nằm, ngồi, đi, đứng không lưu dấu,

Mặc, dứt, làm, ngăn chẳng bận tâm,

Tha tự bệnh trừ, nào bỏ pháp,

Cúng dường tài thí lại cho thân,

Ghét, thương chủng tử tiêu tan hết,

Viên Giác khởi tu mới được phần. 

ÂM

12- Tụng Viên Giác chương

Viên Giác đạo tràng viên chứng ngộ,

Hạ căn ư thị khai chơn lộ,

Tam kỳ hạn lượng khả tùy nghi,

Tứ chúng an cư tuyệt duyên cố,

Đại Viên giác vi già-lam,

Cứ Bồ-tát thừa hạnh nguyện độ,

Tằng tri chứng nhập tổng cai tiền,

Chư Phật cộng y như thị trụ.

TẠM DỊCH

Tụng chương Viên Giác

Viên Giác đạo tràng để gắng công, 

Hạ căn từ đấy được khai thông,

Ba kỳ hạn lượng tùy tình chọn,

Bốn chúng an cư chấp sự không,

Hạnh nguyện noi theo Bồ-tát đạo,

Đại Viên ([1]) thay bởi chúng Tăng phòng, ([1])

Biết rằng chứng nhập bao gồm hết,

Chư Phật cùng y trú thể đồng.

ÂM

13- Tụng Hiền Thiện Thủ chương

Thiện Thủ lưu thông Chánh pháp môn,

Ngũ danh ư thị vi khu phân,

Thập nhị bộ Kinh chơn liễu nghĩa,

Bách thiên chư Phật cộng đàm luân, ([1])

Phật cảnh, Phật địakhai diễn,

Đốn giáo cơ kim đắc văn thảng,

Giải bách xuyên quy nhập đại hải,

Hà phòng nhứt pháp bị đa căn.

TẠM DỊCH

Tụng chương Hiền Thiện Thủ

Thiện Thủ lưu thông Chánh pháp lâu,

Năm tên khu biệt biết đuôi đầu,

Mười hai loại bộ nhờ đây rõ,

Ngàn vạn Như Lai diễn nghĩa mầu.

Cảnh, địa Phật thừa đà mở tỏ,

Giáo, cơ đốn nhập đã nghe sâu.

Trăm sông chảy rót trùng dương hết,

Một pháp “đa căn” có ngại đâu.

ÂM

14- Tụng Phán Nhiếp

Khuê Sơn tài ngộ tức lưu thông,

Khước y Hiền Thủ dĩ hoằng tông,

Bàng tham tứ sớ minh sai đáng,

Biến cứu quần thuyên định hữu không,

Đốn giáo thâu kinh Phật tự phán,

Viên môn kim thuộc nghĩa kham tòng,

Nhược tương Kinh giáo luận tương nhiếp,

Khắc thể toàn thân Chung, Đốn, Trung. 

TẠM DỊCH

Tụng Phán Nhiếp

Vừa ngộ Khuê Sơn, rộng mở thông,

Noi theo Hiền Thủ để hoằng tông,

Xem qua “Tứ sớ” ([1]) tìm sai, đúng,

Khảo hết “Quần thuyên” ([1]) định hữu, không,

Đốn giáo nhiếp về, Phật tự phán,

Viên môn thâu góp nghĩa quy tòng,

Nếu đem Kinh giáo phân tìm lại,

“Thể” hẳn gom vào Chung, Đốn, Trung.




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 58887)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.