- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Chín
NÓI RÕ PHẦN THỨ HAI CỦA BA MƯƠI PHÁP NI TÁT KỲ BA DẠ ĐỀ .
5. GIỚI: NHỜ NI KHÔNG
PHẢI BÀ CON GIẶT Y.
Khi Phật an trú tại thành Xá
Vệ, bấy giờ tôn giả Ưu Đà Di cầm y đưa cho Tỉ-kheo-ni Đại Ái Đạo và nói:
"Lành thay Cù Đàm Di! Hãy giặt, nhuộm, ủi giúp cái y này cho tôi".
Đại Ái Đạo liền giặt,
nhuộm, ủi xong đem trao lại Ưu Bà Di, nói: "Chiếc y này đã giặt nhuộm ủi
xong, nay tôi xin gửi lại".
Ưu Đà Di liền chú
nguyện: "Cầu mong được an lạc, không có bệnh", rồi đem cất vào trong
phòng.
Thế rồi, Đại Ái Đạo bèn
đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng qua một bên. Phật biết
nhưng vẫn hỏi: "Cù Đàm Di! Trên tay bà vì sao có màu phẩm?"
Đáp: "Bạch Thế
Tôn! Con giặt, nhuộm y cho Ưu Đà Di nên tay có màu phẩm".
{300c} Khi Cù Đàm Di đi
chẳng bao lâu, Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Vì sao Ưu Đà Di lại sai
Tỉ-kheo-ni đang tu tập giặt, nhuộm y, làm phương hại đến đạo nghiệp của
Tỉ-kheo-ni?"
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ trưởng lão A Nan Đà không xem xét cẩn thận, đưa y
cho Thâu Lan Nan Đà Tỉ-kheo-ni giặt, nói rằng: "Này chị! Hãy giặt,nhuộm, ủi
giúp cái y này cho tôi". Khi ấy Thâu Lan Nan Đà liền đem y về Tinh xá,
căng ra thấy chất bất tịnh dính trên y, bèn đưa y ấy cho các Tỉ-kheo-ni xem và nói:
"Các người hãy xem trên cái y này, đó là hình ảnh của trượng phu vậy".
Lúc ấy các Tỉ-kheo-ni
bèn nói với Thâu Lan Nan Đà rằng: "Những thứ cần phải che giấu như vậy, vì
sao lại đưa cho người ta xem, lẽ ra, nếu muốn giặt thì nên giặt, nếu không muốn
giặt thì nên đem cất mới phải".
Khi đó, Thâu Lan Nan Đà
Tỉ-kheo-ni bèn nói với các Tỉ-kheo-ni: "Cái đó có gì đáng xấu hổ mà bảo ta
phải giấu đi? Đó chính là trượng phu, là hình ảnh của trượng phu". Bèn cầm
đưa lên lần nữa cho các Tỉ-kheo-ni xem.
Bấy giờ nhóm 6 Tỉ-kheo
ở cách Tỉ-kheo-ni không xa, nghe nói thế bèn vỗ tay cười lớn, nói: "Thật
là việc kỳ lạ, là việc kỳ lạ".
Các Tỉ-kheo nghe lời
nói ấy, bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi A Nan Đà đến. Khi thầy đến
rồi Phật liền hỏi: "Ông có việc đó thật không?". Thầy đáp: "Có
thật như vậy. Vì con không xem cẩn thận, nên đưa y cho cô ấy".
Phật liền hỏi các
Tỉ-kheo: "Giả sử Tỉ-kheo bà con có chiếc y bất tịnh như vậy, thì có nên
đưa cho Tỉ-kheo-ni bà con giặt hay không?"
Các Tỉ-kheo đáp:
"Không nên đưa, bạch Thế Tôn".
Phật lại hỏi: "Giả
sử Tỉ-kheo-ni bà con thấy Tỉ-kheo bà con có việc cần phải che giấu như thế thì
có nên đưa cho mọi người xem hay không?"
Họ lại bảo: "Không
nên đưa xem, bạch Thế Tôn".
Phật liền nói với
Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo-ni bà con mà còn không nên bảo giặt y bất tịnh, thì vì
sao lại bảo Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt y như thế? Từ nay trở đi Ta không
cho phép làm như vậy".
Rồi Phật ra lệnh cho
các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp tất cả, vì mười lợi ích mà chế
giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Tỉ-kheo
sai Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc ủi, thì phạm
Ni-tát-kỳ Ba dạ đề".
Giải thích:
- Tỉ-kheo:
Như trên đã nói.
- Không phải bà
con: Không phải cùng Cha sinh ra, không phải cùng Mẹ sinh ra.
- Y cũ: Dù
chỉ dùng gối đầu một lần cũng gọi là y cũ.
- Y: Như
trên đã nói.
- Giặt: Tẩy
trừ cáu bẩn.
- Nhuộm: Hoặc
nhuộm bằng rễ cây, bằng vỏ cây, bằng lá cây, bằng hoa, bằng trái.v.v...các thứ
như thế.
- Ủi: Cho
đến dùng tay vuốt một lần thì gọi là ủi.
(Một số từ khác đã được
giải thích ở trên).
{301a} Tóm lại, nếu
Tỉ-kheo bảo giặt, (Tỉ-kheo ni) liền giặt, bảo nhuộm liền nhuộm, bảo ủi liền ủi,
thì phạm Ni-tát-kỳ.
Nếu Tỉ-kheo sai
Tỉ-kheo-ni không phải là bà con giặt y, cô ta liền nhuộm; hoặc bảo nhuộm cô ta
liền ủi; bảo ủi, liền giặt; hoặc bảo mà cô ta không làm; hoặc không bảo mà làm
đều phạm tội Việt tỳ ni.
Nếu Tỉ-kheo bảo
Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt y, cô ta bèn nhuộm, ủi; hoặc bảo nhuộm, cô ta
bèn giặt, ủi; hoặc bảo ủi, cô ta liền giặt, nhuộm; hoặc bảo mà không làm, hoặc không
bảo mà làm đều phạm tội Việt tỳ ni.
Lại có các trường hợp
Tỉ-kheo đưa y cho Tỉ-kheo-ni bà con mà Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt; hoặc
đưa y cho Tỉ-kheo-ni không phải bà con mà người bà con giặt; hoặc đưa y cho
người bà con, rồi người không bà con giặt; hoặc đưa y cho người không phải bà
con, rồi người không phải bà con giặt.
- Đưa cho người
bà con mà người không phải bà con giặt: Nếu Tỉ-kheo có mẹ, chị, hoặc em
xuất gia, và Tỉ-kheo đưa y bảo họ giặt, đoạn Tỉ-kheo-ni ấy đem y về Tinh xá,
bấy giờ có người đệ tử ni nói: "Thầy có việc gì cần làm con làm cho",
bèn lấy y đem giặt, nhuộm, ủi, thì Tỉ-kheo không có tội. Đó gọi là đưa cho
người bà con mà người không phải bà con giặt.
- Đưa cho người
không phải bà con mà người bà con giặt: Nếu Tỉ-kheo đưa y cho
Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt, nhuộm, ủi. Rồi Tỉ-kheo-ni ấy cầm y về Tinh
xá, bấy giờ Tỉ-kheo ấy có mẹ, chị hoặc em xuất gia, biết chiếc y ấy (của người
thân mình) liền hỏi Tỉ-kheo-ni đó: "Chiếc y ấy là của ai?". Người ấy
đáp: "Chiếc y của Tỉ-kheo mỗ giáp". Vị ni bà con này liền suy nghĩ:
"Thầy ấy không biết Luật". Rồi cô muốn cho Tỉ-kheo ấy khỏi phạm tội
Ni tát kì liền lấy y đi giặt, thì Tỉ-kheo ấy phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là đưa
cho người không phải bà con mà người bà con giặt.
- Đưa cho người
bà con rồi người (không) bà con giặt: Nếu Tỉ-kheo có mẹ, chị, hoặc em
xuất gia, thầy bèn đưa y nhờ họ giặt giúp. Tỉ-kheo-ni ấy nói: "Tôi đang bị
bệnh". Tỉ-kheo này liền nói: "Mẹ... có đệ tử khỏe mạnh, vậy hãy bảo họ
giặt giúp". Rồi Tỉ-kheo-ni ấy liền sai đệ tử giặt, giặt xong bèn đem y trả
lại, thì Tỉ-kheo ấy phạm tội Ni-tát-kỳ. Nhưng nếu Tỉ-kheo không bảo (sai đệ tử
giặt) mà Tỉ-kheo-ni tự sai đệ tử giặt, thì Tỉ-kheo không có tội. {301b} Đó gọi là
đưa cho người thân rồi người (không) thân giặt.
- Đưa cho người
không bà con rồi người không bà con giặt: Nếu Tỉ-kheo đưa y cho
Tỉ-kheo-ni không phải bà con, rồi Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt, nhuộm, ủi
thì Tỉ-kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ đề. Đó gọi là đưa cho người không phải bà con rồi
người không phải bà con giặt.
Nếu Tỉ-kheo đem y và đồ
dùng để giặt gởi tại một Tinh xá của Tỉ-kheo-ni rồi đi đến một nơi thanh vắng
an cư. Tỉ-kheo-ni nhận ký gởi ấy nhân sau mùa hạ, đem y mình ra giặt, luôn tiện
giặt giúp y cho Tỉ-kheo. Tỉ-kheo an cư xong, trở về Ni xá đòi lại y để giặt.
Tỉ-kheo-ni kia nói: "Tôi đã giặt nhuộm xong rồi", thì Tỉ-kheo ấy
không phạm tội. Nhưng nếu khi gởi y, Tỉ-kheo ấy suy nghĩ: "Họ sẽ giặt,
nhuộm, ủi giúp ta". Quả nhiên sau đó, y được giặt, nhuộm, ủi thì thì
Tỉ-kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ đề.
Nếu Tỉ-kheo đi vào thôn
xóm, gặp voi điên, hoặc xe ngựa làm văng bùn bẩn cả y, rồi đến Tinh xá Tỉ-kheo
ni, nhờ Tỉ-kheo-ni giặt giúp thì phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ đề, Nhưng nếu Tỉ-kheo-ni xối
nước, Tỉ-kheo tự giặt lấy thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo đang giặt y
tại giếng nước, nhằm ngày trai kỳ, các Tỉ-kheo-ni đi đến Tinh xá đảnh lễ chư
Tỉ-kheo, rồi họ trông thấy Tỉ-kheo đang giặt y, bèn hỏi: "Thưa thầy, thầy
không có ai giặt y giúp cho sao?". Tỉ-kheo đáp: "Không có".
Tỉ-kheo-ni này vì có tín tâm nên bảo Tỉ-kheo dừng tay để mình giặt giúp cho.
Rồi Tỉ-kheo đồng ý để cho họ giặt giúp thì không có tội. Nhưng nếu Tỉ-kheo ấy
cố ý giặt y vào ngày trai kỳ với ý nghĩ: "Tỉ-kheo-ni ắt sẽ đến và họ sẽ
giặt giúp y cho ta", rồi đưa cho Tỉ-kheo-ni giặt thì phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ
đề.
Nếu Tỉ-kheo có nhiều đệ
tử ni, tuy không được sai họ giặt, nhuộm, ủi y vẫn có thể sai lượm củi, lấy
nước về đun nhuộm, lấy thức ăn, dâng nước uống, cầm quạt quạt, và khi ăn xong
dọn cất bát. Tất cả các việc ấy...đều có thể sai làm, nhưng nếu sai họ giặt,
nhuộm, ủi y, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ đề.
Nếu vì Hòa thượng, A Xà
lê mà đưa y bảo Tỉ-kheo-ni giặt thì phạm tội Việt-tì-ni. Nhưng nếu vì tháp,
Tăng mà sai Tỉ-kheo-ni giặt, nhuộm, ủi, thì không có tội. Thế nên nói:
"[301c] Nếu
Tỉ-kheo sai Tỉ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc ủi thì
phạm Ni-tát-kỳ Ba dạ đề".
(Hết giới Ni-tát-kì thứ năm.)
Khi Phật an trú tại
thành Xá Vệ, nói rộng như trên, vào ngày mồng 8, 14, 15 dân chúng trong thành
đi đến đảnh lễ Thế Tôn. Bấy giờ, có một người tên A Bạt Tra mặc 2 tấm áo lụa
trắng, vào Tinh xá Kỳ Hoàn đảnh lễ Thế Tôn, rồi đi tới chỗ trưởng lão Ưu Ba Nan
Đà, chào: "Kính chào thầy".
Ưu Ba Nan Đà đáp:
"Kính chúc lão trượng không bệnh".
A Bạt Tra nói:
"Tôi muốn xem các căn phòng và nhà".
Khi ấy Ưu Ba Nan Đà
đáp: "Có thể được. Các vị không muốn xem, tôi cũng dẫn các vị đi xem,
huống gì các vị đã thích xem", bèn dẫn lên trên 2 tầng lầu, nói: "Hãy
xem này lão trượng: Những đường nét điêu khắc tinh vi, các hình vẽ có 5 màu lộng
lẫy, sàn nhà màu lưu ly, và các thứ giường nệm mền gối ..."
Lúc xem xong, ông ta
nói: "Thật tuyệt diệu thưa thầy".
Ưu Ba Nan Đà nói:
"Chiếc áo lụa của ông cũng rộng lớn tinh vi tuyệt đẹp".
Khi ấy A Bạt Tra thưa:
"Tôi lại muốn xem các phòng xá khác nữa".
Thế rồi, Ưu Ba Nan Đà
bèn đưa ông lên tầng lầu thứ ba để xem, nói rộng như trên, cho đến... "Áo
của ông cũng rộng rãi tinh vi tuyệt đẹp".
Bấy giờ, ông ta suy
nghĩ: "Vị Sa môn này khen ngợi chiếc áo của ta, ắt muốn xin đây. Nhưng Vị
Tỉ-kheo này lại là chỗ quen biết của nhà vua, và các quan đại thần có thế lực
lớn, nếu ta không cho thì ông sẽ oán hận ta". Nghĩ thế rồi ông liền nói:
"Thưa thầy, thầy muốn chiếc áo này chăng?".
Ưu Ba Nan Đà đáp:
"Rất muốn ".
A Bạt Tra nói:
"Thôi hãy theo tôi về nhà, tôi sẽ trao cho thầy chiếc áo khác".
Ưu Ba Nan Đà nói:
"Ôi thôi lão trượng! Vì sao ông lại bảo cho tôi chiếc áo khác? Tôi cũng có
nhiều tấm vải lụa hảo hạng, chỉ vì nó không giống cái này. Nên muốn được cái áo
của ông cùng một loại vải để may một chiếc y mà thôi. Nếu ý ông muốn cho thì
hãy cho tôi chiếc áo này, ngoài ra những cái đẹp khác thì tôi không cần
đến".
A Bạt Tra nói:
"Tôi mặc chiếc áo này đi đến nhà vua, các trưởng giả và thăm viếng đảnh lễ
Thế Tôn, là những việc không thể bỏ ngang được".
Ưu Ba Nan Đà lại nói:
"Vì sao ông lại bảo cho tôi chiếc áo khác? Nếu quả thật ông nghĩ rằng tôi
không có vải lụa đẹp mà muốn cho tôi thì hãy cho tôi chiếc áo này đi, ngoài ra
những cái đẹp khác thì tôi không cần đến".
A Bạt Tra nói:
"Nếu thầy cần loại áo này thì hãy theo tôi về nhà, tôi sẽ cho".
Ưu Ba Nan Đà nói:
"Ông chẳng hiểu sự tình, cũng chẳng biết những chuyện rắc rối trong nhà.
Giả sử cha mẹ, anh chị em ông hoặc tiếc của, hoặc không bằng lòng, thì dù ông cho,
tôi cũng không thể lấy. [302a] Nếu ông không bố thí làm phước được, thì cả 2
đều bất lợi, vì những rắc rối vừa kể, thế nên cho tôi ngay bây giờ là tiện
nhất".
Khi ấy A Bạt Tra đã từ
chối một cách khó khăn mà vẫn không được liền cởi áo ngoài đưa cho, chỉ mặc có
áo trong, rồi đi đến thành Xá Vệ. Bấy giờ nhiều người trong thành đi đến thăm
viếng đảnh lễ Thế Tôn, A Bạt Tra bèn hỏi mọi người: "Hôm nay các người
định đi đâu thế?".
Họ đáp: "Muốn đến
Kỳ Hoàn".
Ông nói: "Chớ có
đi".
Họ hỏi: "Vì cớ
sao?".
Ông đáp: "Sa môn
là kẻ ăn cướp ".
Họ lại hỏi: "Cưỡng
đoạt vật của người ta sao?".
Ông đáp: "Lại còn
phải hỏi? Các ngươi hãy xem ta mặc hai lớp áo lụa ra đi mà bây giờ chỉ còn một
tấm dính trong mình".
Do thế, những người
không tin Phật liền trở về lại trong thành, còn những người khác thì nửa tin
nửa ngờ, đứng trầm ngâm suy nghĩ. Trái lại những người tin Phật pháp thì suy
nghĩ: "Hoàn toàn không thể có việc đó được .Vì Sa môn Thích-tử hễ của
người ta không cho thì không lấy, làm sao lại có thể cướp lấy của người! Hoặc
là có thể dùng phương tiện thuyết pháp để nhận lấy mà thôi".
Thế rồi một ít người đi
đến Kỳ Hoàn đảnh lễ thăm viếng Thế Tôn. Thế Tôn biết mà vẫn hỏi A Nan: "Vì
sao hôm nay ít người đến Kỳ Hoàn thế này?".
Lúc ấy Tôn giả A Nan
bèn đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Ưu Ba Nan Đà
đến. Họ liền gọi đến. Khi đến rồi, Phật liền hỏi Ưu Ba Nan Đà: "Ông có
việc đó thật chăng?"
Thầy đáp: "Có thật
như vậy, bạch Thế Tôn"
Phật nói: "Này
Tỉ-kheo, đó là việc ác. Vì sao Tỉ-kheo lại xin y của người ta một cách cưỡng
bức? Há ông không thường nghe ta ca ngợi thiểu dục, chê trách đa dục không biết
chán là gì? Từ nay trở đi, Ta không cho phép Tỉ-kheo xin y của cư sĩ và vợ cư
sĩ không phải bà con.
Họ đáp: "Là người
xuất gia".
Các Tỉ-kheo lại hỏi:
"Xuất gia theo đạo nào?
Họ đáp: "Xuất gia
theo dòng họ Thích".
Lại hỏi: "Y của
các vị đâu mà ở trần như vậy?".
Đáp: "Chúng tôi đi
đường bị bọn cướp lấy mất y".
Bấy giờ các Tỉ-kheo bèn
đem y cho mỗi người, hoặc là cho y Tăng-già-lê, hoặc Uất-đa-la-tăng, hoặc
An-đà-hội, hoặc Tọa cụ. Các Tỉ-kheo mặc y xong, bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên. Phật biết mà vẫn hỏi các
Tỉ-kheo: "Các thầy từ đâu đến?".
Họ đáp: "Bạch Thế
Tôn! Chúng con từ phương Bắc đến".
Phật lại hỏi: "Các
thầy kham nhẫn được khổ cực, khất thực không khó khăn, đi đường không vất vã
chứ?".
Đáp: "Bạch Thế
Tôn! Chúng con [302b] kham nhẫn được khổ cực, khất thực không khó khăn, đi
đường không vất vả, nhưng giữa đường gặp bọn cướp lấy mất y, phải ở trần vào Tinh
xá Kỳ Hoàn".
Phật lại hỏi các
Tỉ-kheo: "Thế ra ở dọc đường không có thành ấp xóm làng gì sao?"
Đáp: "Thưa
có".
Phật hỏi: "Vì sao
không xin (y)?"
Các Tỉ-kheo bạch với
Phật: "Vì chúng con nghe Thế Tôn chế giới không được xin y của những người
không phải bà con, mà chúng con không có bà con, cũng không có thí chủ bố thí,
vì thế chúng con không dám xin y, mà phải ở trần đến đây".
Phật liền khen ngợi
hạnh giữ giới ấy: "Lành thay, lành thay các Tỉ-kheo! Các thầy là những
người tùy thuận, thành tín xuất gia, dù gặp phải sự kiện mất mạng cũng không để
phạm giới. Từ nay về sau, Ta cho phép những ai mất y được phép xin y".
Rồi Phật truyền lệnh
cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Tỉ-kheo
xin y từ những người cư sĩ, vợ cư sĩ không phải bà con, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề,
ngoại trừ lúc khác. Lúc khác tức là lúc mất y".
Giải thích
(Một số từ ngữ trên đã
giải thích)
- Cư sĩ: Tức
là người chủ nhà.
- Y: y
khâm-bà-la, y kiếp-bối, y sô- ma, y kiêu-xá-da, y xá-na, y ma, y khu-mâu-đề.
- Xin: Hoặc
tự mình xin, hoặc nhờ người khác xin. Trừ ra lúc bị mất y mà xin thì không có
tội .
- Lúc khác:
Lúc bị mất y. Có 10 trường hợp mất y: Hoặc vua đoạt lấy, hoặc bị bọn cướp lấy,
hoặc bị lửa cháy, hoặc gió cuốn mất, hoặc bị nước trôi mất, hoặc bị người nữ
sinh lòng tham cướp lấy, hoặc bị cha mẹ bà con muốn cho mình bãi đạo mà đoạt
lấy, hoặc mình cất giấu rồi sau quên mất chỗ cất, hoặc đem cất rồi y mục nát, hoặc
cất lâu ngày y hư hỏng không dùng được nữa.
Đó gọi là 10 trường hợp
mất y. Gặp các trường hợp này đức Thế Tôn bảo là không có tội
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Như trên đã nói.
- Ba-dạ-đề:
Như trên đã nói .
Nếu Tỉ-kheo sẽ được y
trong phạm vi 3 do tuần, mà hiện tại mất y Tăng-già-lê, nhưng y Uất-la-tăng vẫn
còn, thì không nên xin y. Nếu mất y Tăng-già-lê, y Uất-đa-la-tăng mà y
An-đà-hội vẫn còn, thì không nên xin y. Nếu mất 3 y, mà y che ghẻ còn, thì
không nên xin. Nếu mất cả 3 y, y che ghẻ cũng mất mà còn y tắm mưa, thì không
nên xin y. Nếu Tỉ-kheo mất 3 y, y che ghẻ, y tắm mưa cũng mất, mà còn tấm vải
trải giường, thì không nên xin y. [302c] Nếu Tỉ-kheo mất 3 y, mất y che ghẻ, y
tắm mưa và tấm vải trải giường, mà còn miếng vải có chiều dài 2 khuỷu tay thì
cũng không nên xin y. Vì sao vậy? Vì Tỉ-kheo có thể mặc áo lót đi trong 3 do
tuần để nhận lại y trước của mình. Nếu trên đường đi có những tai nạn, không
thể đi tới đó để nhận lại y thì được xin y che mưa, không có tội.
Nếu Tỉ-kheo xin y từ
người không phải bà con, hoặc tự xin, hoặc nhờ người khác xin, hoặc ra dấu để
xin, hoặc thuyết pháp để xin ...
- Tự mình xin:
Tự mình thân hành đến đó xin .
- Sai người khác
xin: Sai người khác đến đó để xin .
- Hiện ra tướng
để xin: Hiện ra tướng lạnh tướng nóng.
* Thế nào là tướng
lạnh?: Nếu Tỉ-kheo vào đêm mồng 8 giữa mùa đông lúc tuyết rơi, mặc y cũ, đến
nhà đàn việt, hiện ra tướng lạnh cóng, khi ấy người đàn việt đảnh lễ chân Tỉ-kheo
rồi hỏi: "Thưa thầy, thầy không có y hợp thời ư? Vì sao lạnh cóng như thế?
"Tỉ-kheo đáp: "Không có. Khi cha mẹ ngươi còn sống thường cúng dường
ta y phục hợp thời, nay cha mẹ ngươi đã qua đời, thì ai sắm y cho ta? Chẳng những
cha mẹ ngươi đã mất mà cha mẹ ta cũng quá cố cả rồi? ". Người đàn việt
liền thưa: "Thưa thầy, thầy đừng oán hận, con sẽ sắm y hợp thời cho thầy
".
Đó gọi là hiện tướng
lạnh để xin y. Nếu được y, thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
* Thế nào gọi là hiện
tướng nóng?: Đó là: Vào tháng 5, tháng 6 lúc trời nóng, Tỉ-kheo mặc y vá nhiều
lớp toát mồ hôi đi đến nhà đàn việt hiện ra tướng nóng. Bấy giờ người đàn việt
lễ chân Tỉ-kheo, hỏi: "Thưa thầy, thầy không có y hợp thời sao mà mặc y dày
toát mồ hôi như thế?"Tỉ-kheo bèn đáp: "Không có. Khi cha mẹ ngươi còn
sống thường sắm y hợp thời cho ta, nay cha mẹ ngươi đã qua đời thì ai sắm y cho
ta nữa. Không những cha mẹ ngươi đã mất mà cha mẹ ta cũng chẳng còn".
Người Đàn-việt liền nói: "Thưa thầy, thầy chớ oán hận, con sẽ sắm y hợp
thời cho thầy".
Đó là hiện tướng nóng
để xin y. Nếu được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề.
- Thuyết pháp để
xin: Tỉ-kheo vì muốn xin y mà nói kệ cho Đàn-việt như sau:
"Nếu ai bố thí y
Sẽ sinh cõi tối thắng
Nhờ vui lòng bố thí
Hưởng phước báo nhân thiên
Sinh thiên được sắc đẹp
Điểm trang toàn châu báu
Vì cúng y Tỉ-kheo
Đời đời được áo đẹp".
Đó gọi là thuyết pháp
để xin. Nếu được y thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
Nếu xin đãy lọc nước,
hoặc xin miếng vải nhỏ để vá y, hoặc khăn trùm đầu, hoặc vải bó ghẻ, hoặc vải
làm đệm, nếu xin một trong những loại vải kể trên thì không phạm. [303a] Nếu
xin các vật ấy, rồi Đàn việt bố thí trọn tấm, hoặc cắt ra từng mảnh mà Tỉ-kheo
nhận lấy thì không phạm.
Nếu Tỉ-kheo suy nghĩ: "Ta
chỉ cần xin những vật nhỏ, đàn việt sẽ tự cho ta", rồi được cả một tấm vải
lớn thì phạm Ni-tát -kì Ba-dạ-đề.
Nếu xin cho Hòa thượng,
A Xà Lê thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu xin cho tháp, Tăng, thì không phạm. Thế
nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo xin y
từ cư sĩ hoặc vợ cư sĩ không phải bà con thì phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề. Ngoại trừ
khi khác. Khi khác tức là khi mất y".
(Hết giới Ni-tát-kì thứ sáu)
Khi Phật trú tại thành
Xá Vệ, có 60 Tỉ-kheo từ phương Bắc đi đến Xá Vệ, giữa đường bị bọn cướp lấy mất
y. Lúc các thầy vào Tinh xá Kỳ Hoàn, Ưu Ba Nan Đà thấy thế, bèn nói với họ:
"Này các trưởng lão, đức Thế Tôn đã cho phép các Tỉ-kheo khi bị mất y có
thể xin y của những người không phải bà con, vì sao không xin?"
Họ đáp: "Các vị
đồng phạm hạnh đã cho y đủ rồi, vì thế nên không xin".
Lúc ấy Ưu Ba Nan Đà
nói: "Nếu dịp này không xin thì mất lợi rất uổng".
Họ đáp: "Chúng tôi
đã được y rồi, thì cần gì nói đến việc thất lợi hay không thất lợi?"
Ưu Ba Nan Đà lại nói
với các Tỉ-kheo mất y:
"Các vị nếu không
thể xin thì tôi sẽ xin giúp cho các vị".
Họ nói: "Thầy tự
biết thời".
Thế rồi, vào buổi sáng
sớm, Ưu Ba Nan Đà khoác y thường mặc, cầm giấy bút vào thành Xá Vệ, nói với các
Ưu-bà-tắc: "Các vị hãy giúp tôi xin y".
Các Ưu-bà-tắc hỏi:
"Vì lý do gì mà xin?"
Thầy đáp: "Vì có
các Tỉ-kheo từ phương Bắc đến, giữa đường bị bọn cướp lấy hết y vật, nên phải
xin y giúp họ".
Ưu-bà-tắc nói:
"Được".
Khi ấy họ bèn dẫn nhau
đến các cửa hàng để khuyến hóa. Vì lúc bấy giờ nhiều người có lòng tín kính,
nên xin được chỗ thì một tấm vải, chỗ thì 2 tấm. Như vậy dần dần được khá nhiều
y vật, họ phải gánh đi. Có thể nói là đã xin được một phần tư trong những nhà
có tín tâm, nhưng vẫn còn muốn xin nữa. Các Ưu-bà-tắc liền nói: "Thưa thầy,
có lẽ đủ rồi, chúng ta trở về".
Ưu Ba Nan Đà nói:
"Than ôi Lão trượng! gì mà gấp gáp thế! Ta xin mới có chừng ấy chưa nên đi
về. Vì sao vậy? Vì hễ nhiều người bố thí thì nhiều người được phước. Bọn tôi là
người xuất gia, ăn uống có thì giờ nhất định, còn chưa muốn trở về, Các vị là
người tại gia ăn lúc nào cũng được, không sợ sai giờ giấc, thì có việc gì gấp
gáp mà muốn vội vã trở về?à".
Thế rồi, họ bèn tiếp
tục đi xin nữa.
Các Ưu-bà-tắc lại nói:
"Có lẽ đủ rồi thưa thầy".
Ưu Ba Nan Đà nói:
"Vẫn chưa đủ".
Các Ưu-bà-tắc hỏi:
"Có bao nhiêu người vậy?".
Thầy đáp: "Nhiều
người".
Họ lại hỏi: "Nhiều
người là bao nhiêu?".
Thầy lớn tiếng nói:
"Có 60 Tỉ-kheo".
Các Ưu-bà-tắc nói:
"[303b] Thưa thầy, số vải này có thể cung cấp cho 500 Tỉ-kheo (cũng đủ)
huống gì 60 người, vì sao còn xin nữa, muốn làm sập tiệm người ta chăng?"
Họ liền ném giấy bút
xuống đất, giận dữ nói: "Ở đâu mà sinh ra cái loại người tham cầu nhiều,
không chán, không biết chừng nào là đủ thế này!"
Bấy giờ có thầy Tỉ-kheo
ít dục biết đủ, nghe lời nói ấy, bèn đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu
Ba Nan Đà đến. Họ bèn gọi đến. Phật liền hỏi kỹ việc trên: "Ông có làm
điều đó thật không?".
Thầy đáp: "Có
thật, bạch Thế Tôn".
Phật hỏi Ưu Ba Nan Đà:
"Vì sao mà xin?"
Thầy đáp: "Con vì
các Tỉ-kheo bị mất y mà xin".
Phật liền gọi các
Tỉ-kheo bị mất y đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Này các Tỉ-kheo, có
thật các thầy nhờ Ưu Ba Nan Đà xin y giúp không?"
Họ đáp: "Thưa
không, bạch Thế Tôn".
Phật lại hỏi họ vì sao
Ưu Ba Nan Đà làm việc đó. Họ bèn đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật
liền nói với Ưu Ba Nan Đà: "Này kẻ ngu si, đó là việc xấu, lúc không nên
xin thì lại xin, lúc nên xin thì lại không xin. Ông không từng nghe ta dùng vô
số phương tiện để khen ngợi sự ít muốn, chê trách sự ham muốn nhiều là gì! Đó
là điều phi pháp, trái luật, không phải là điều ta dạy, không thể dùng việc này
để nuôi lớn thiện pháp được".
Sau khi Phật quở trách
đủ điều rồi truyền lệnh các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại
tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
--"Nếu khi
Tỉ-kheo bị mất y thì có thể xin y từ cư sĩ, vợ cư sĩ, không phải bà con. Nếu cư
sĩ, vợ cư sĩ không phải bà con tùy hỉ cho nhiều vải, thì Tỉ-kheo chỉ được nhận
2 tấm y thượng hạ, quá số đó sẽ phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề".
Giải thích:
(Một số từ trên đã giải
thích)
- Tùy hỉ:
Tùy ý cho.
- Thượng hạ y:
Có thể nhận 2 tấm vải chiều dài 5 khuỷu tay, chiều rộng 3 khuỷu tay, nếu nhận
quá số đó phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề.
- Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề:
Trên đã giải thích.
[303c] Nếu Tỉ-kheo cùng
đi đường với khách buôn mà gặp bọn cướp từ 1 phương, 2 phương hay 3 phương đến,
thì phải tùy nghi chạy lánh bọn cướp. Nếu bọn cướp ập đến từ 4 phía không thể chạy
được, thì nên đứng nghiêm chỉnh, không được xô xát với chúng. Nếu bọn cướp bảo
lấy y Tăng-già-lê đưa, thì nên đáp: "Đây này lão trượng". Như vậy,
tùy theo chúng đòi nhiều ít mà đưa cho chúng, chứ không được giận dữ lớn tiếng
mắng chửi bọn chúng. Sau khi đưa y vật rồi, nên từ từ đi vào rừng núp để dò xét
chúng từ xa, chờ sau khi bọn cướp đi rồi, nếu còn những y vật thừa chúng bỏ
lại, thì có thể lấy dùng.
Nếu không còn cái y dư
nào, mà trong số các Tỉ-kheo hoặc ngoại đạo xuất gia có người bị bọn cướp giết
chết, thì có thể lấy y của họ sử dụng. Nếu không có người xuất gia chết mà có
người thế tục chết, thì nên lấy áo của họ cắt may, tác tịnh rồi mới mặc. Nếu
không có áo của người chết mà có áo đẹp của khách buôn bỏ lại thì không nên
lấy. Nếu áo họ bỏ lại thô xấu, thì nên lấy dùng. Nếu khách buôn quay trở lại,
gọi Tỉ-kheo đến cho áo tốt, thì nên lấy, lấy xong đem cắt may, dùng phân bò
nhuộm tác tịnh, rồi mới dùng. Nếu người khách buôn ấy nói với Tỉ-kheo:
"Tôi cho ông mượn chiếc áo này mặc đi tới chỗ dừng chân rồi trả lại tôi,
đừng làm hư hỏng", thì Tỉ-kheo nên lấy chiếc áo đó gấp lại, may qua loa,
không để lộ dấu tác tịnh, mặc tạm, đi đến chỗ dừng chân, rồi trả lại họ. Nếu
không có các trường hợp ấy thì nên hái lá cây che trước sau thân mà đi.
Nếu không có lá cây thì
nên dùng tay che ở trước thân mình và đi bên lề đường, chứ không nên đi ngang
nhiên giữa đường như bọn Ni kiền tử. Cũng không được đi sâu vào trong rừng khiến
cho bọn cướp tưởng lầm là rình bắt chúng, mà chỉ nên đi dọc theo bên đường
trong những chỗ cỏ thưa.
Khi đi, nếu gặp người
ta đến, thì phải giả vờ ngồi tiểu tại chổ cỏ thưa để cho họ trông thấy. Nếu họ
hỏi: "Ông là ai?"Thì phải đáp: "Người xuất gia"Nếu họ hỏi nữa:
"Xuất gia theo đạo nào?"Thì đáp: "Xuất gia theo dòng họ
Thích". Lại hỏi: "Vì sao mà lỏa thể?", thì đáp: "Bị bọn
cướp lấy mất đồ". Thế rồi, nếu không xin mà họ tự cho nhiều áo, thì lấy
không có tội. Nếu họ không cho thì nên xin họ. Khi xin mà họ cho nhiều vải thì
chỉ nên lấy 2 tấm, mỗi tấm chiều dài 5 khuỷu tay, chiều rộng 3 khuỷu tay mà
thôi. Nếu không gặp trường hợp đó thì nên đi đến các người quen biết ở nơi
hoang vắng xin y mà dùng.
Nếu không có nơi hoang
vắng [304a] thì nên đến nghĩa trang. Nếu có người giữ nghĩa trang thì nên nói
với họ: "Tôi muốn nhặt những chiếc áo hư". Nếu người giữ nghĩa trang
bảo lấy, và lấy rồi đưa cho họ xem, thì nên lấy rồi giơ cho họ xem. Nếu lấy áo
từ thây của một người nữ mới chết thân chưa hủy hoại, thì nên đến phía đầu mà
lấy. Nếu thân đã hư hoại thì được tùy ý lấy. Hoặc là áo của thây chết đàn ông,
cũng được tùy ý lấy. Nếu áo của thây chết có châu báu thì nên dùng chân gạt
châu báu ra rồi lấy áo mà đi. Nếu không biết là có châu báu, đem về tới Tinh xá
mới biết có châu báu, thì nên sai tịnh nhân (cư sĩ ở chùa) lấy đổi dược phẩm.
Nếu người giữ nghĩa trang nói với Tỉ-kheo: "Cho ông được lấy áo xấu, còn
áo tốt thì chớ lấy". Nhưng Tỉ-kheo đến nghĩa trang, không thấy áo xấu mà
thấy có nhiều áo tốt, thì nên cầm đến nói với người giữ nghĩa trang: "Chỉ
có những áo tốt này thôi". Nếu họ cho lấy thì liền lấy. Nếu họ nói những
cái đó tốt không cho ông lấy, thì Tỉ-kheo nên trả lại, xin cái khác. Nếu họ bảo
Tỉ-kheo lấy áo dưới đất thì nên lấy áo dưới đất. Nếu họ bảo lấy áo ở trên
không, thì nên lấy áo ở trên không. Nếu áo còn tốt một nữa dưới đất một nữa
trên không thì nên cắt lấy một nửa.
Nếu không có trường hợp
như thế, thì nên đến trú xứ của Tỉ-kheo ở ngoại vi thôn xóm, chứ không đi vào
thôn xóm lúc ban ngày. Và nên đợi lúc hoàng hôn, khi mục đồng lùa bò về mà đi
theo đàn bò, cũng không nên đi bên cạnh những con bò đực khỏe mạnh, mà nên đi
gần những con bò con ốm yếu. Khi thấy có người thì nên ngồi xuống. Nếu họ hỏi: "Ông
là ai?"thì nên đáp: "Là người xuất gia". Lại hỏi: "Xuất gia
theo đạo nào?"Thì đáp: "Xuất gia theo dòng họ Thích". Lại hỏi:
"Y phục ông đâu?"Thì đáp: "Bị bọn cướp lấy hết cả".
Bấy giờ, nếu không xin
mà họ tự cho thì được lấy nhiều ít tùy ý. Nếu họ không cho, thì nên xin họ. Khi
xin, nếu họ cho nhiều thì nên lấy 2 cái, mỗi cái chiều dài 5 khuỷu tay, chiều
rộng 3 khuỷu tay mà thôi.
Nếu không có trường hợp
như thế, thì nên đến Tinh xá hỏi cựu Tỉ-kheo xem ai là Duy na, ai là người coi
sóc giường nệm. Khi họ đã chỉ cho biết đối tượng, thì Tỉ-kheo nên đến vị
Tỉ-kheo tri sự ấy hỏi rằng: "Tỉ-kheo chừng ấy tuổi thì được giường nệm
ngoa cụ như thế nào?"Nếu họ đáp rằng: "Tỉ-kheo chừng ấy tuổi thì được
giường nệm ngọa cụ như thế đó". Bấy giờ Tỉ-kheo nhận được mền rồi liền mở
ra, lấy lông tóc buộc một chỗ làm dấu bên trong để dùng làm quần, nhận được gối
cũng mở ra, lấy lông tóc buộc một chỗ làm dấu bên trong để dùng làm áo lót, và
được ngọa cụ cũng lấy làm dấu. Xong đâu đó, nên đi lễ tháp, lễ Thượng-tọa, thăm
hỏi Hạ-tọa, rồi trình bày: "Lúc đi đường, tôi bị bọn cướp lấy mất y, mong thầy
hãy giúp tôi xin y". Nếu Cựu Tỉ-kheo nói: "[304b] Thầy như con quạ đói,
chân không đậu một chỗ thì ai mà giúp thầy. Có lẽ chủ quán rượu hoặc nhà chứa
cờ bạc đã cướp y thầy, hoặc là thầy đem đổi thức ăn rồi bảo là bị cướp lấy, để
nhờ người ta xin giúp chớ gì?"
Nếu gặp trường hợp như
thế, thì nên đến nhà Ưu-bà-tắc, nói: "Này lão trượng, tôi đi đường bị bọn
cướp lấy mất y, các vị hãy giúp tôi xin y". Nếu khi ấy Họ đáp: "Thưa thầy,
có thể được", rồi họ xin giúp được nhiều vải, thì Tỉ-kheo chỉ nên lấy 2
tấm mỗi tấm chiều dài 5 khuỷu tay, chiều rộng 3 khuỷu tay mà thôi. Lúc ấy Ưu-bà-tắc
nói với Tỉ-kheo: "Thầy có thể dùng phương tiện lấy giúp hết số vải này
không?". Thì nên đáp: "Ông có thể chọn 2 tấm lụa nhỏ rồi mang đến
đây". Nếu Ưu-bà-tắc khéo léo linh động, sẽ đưa Tỉ-kheo ra ngoài đại giới,
nói: "Thưa thầy, số vải này dùng bố thí hiện tiền Tăng, mà hiện tại không có
chư Tăng, chỉ có thầy hiện diện, vậy xin nhận giúp", thì khi ấy Tỉ-kheo
nhận, không có tội.
Nếu Ưu-bà-tắc đưa cho
tấm lụa lớn thì Tỉ-kheo nên cắt ra, rồi lấy 2 tấm. Nếu họ hỏi vì sao vậy, thì
hãy đáp: Vì Thế Tôn chế giới chỉ được lấy 2 tấm vải. Rồi Ưu-bà-tắc lại bảo:
"Thầy hãy đem đi nhuộm", thì Tỉ-kheo đem đi nhuộm rồi mang trả lại.
Ưu-bà-tắc lại nói: "Khi chưa nhuộm là áo của người thế tục mà tôi còn
không thích, huống gì giờ đây đã nhuộm thành hoại sắc, chính là màu áo của người
xuất gia, thì tôi còn lấy làm gì". Khi ấy Tỉ-kheo được phép lấy, may y,
tùy ý sử dụng. Thế rồi các thứ mền, áo gối mà trước kia đã dùng làm tạm quần áo
lót, Tỉ-kheo phải đem nhuộm hoàn lại vị trí dụng cụ mền, áo gối ... mà trả lại
thầy tri sự, rồi mới ra đi. Nếu muốn ở lại đó thì tùy ý xin phép ở lại chứ
không được ngang nhiên ở lại. Thế nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo bị
mất y thì được phép xin vải từ Cư sĩ và vợ Cư sĩ không phải bà con. Nếu Cư sĩ,
vợ cư sĩ không phải bà con cho nhiều vải, Tỉ-kheo chỉ được lấy 2 tấm thượng, hạ,
quá số đó, thì phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề.
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 7)
Khi Phật trú tại thành
Xá Vệ, có Vị Tỉ-kheo đến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm bát vào thành tuần tự
khất thực. Khi tới một nhà kia, bà chủ nhà ấy bèn nói với Tỉ-kheo: "Thưa
thầy,ngày đó tôi sẽ cúng dường cơm và bố thí y cho chư Tăng".
Tỉ-kheo nói: "Lành
thay các chị em! Dùng tài sản để tạo nên 3 thân kiên cố, mong rằng trong việc
làm đó không gặp gì trắc trở". Nói thế rồi ra đi. Khi khất thực xong trở
về tịnh thất, thầy nói với các Tỉ-kheo: "Tôi báo cho các trưởng lão biết
một tin vui".
Các Tỉ-kheo hỏi:
"Tin vui gì thế?".
Thầy đáp: "Tôi
nghe vị Ưu-bà-di nọ một ngày kia sẽ thỉnh chư Tăng thọ trai và cúng dường
y".
Khi nghe nói thế, Nan
Đà, Ưu Ba Nan Đà liền hỏi: "Trưởng lão, nhà ấy ở xóm nào? Tên họ người ấy
là gì?"
[304c] Hỏi rõ sự việc
xong, sáng sớm hôm sau, 2 vị này khoác y đến gia đình ấy, chào hỏi:
"Ưu-bà-di mạnh khỏe chứ?"
Ưu-bà-di đáp:
"Kính chào thầy".
Tỉ-kheo nói: "Tôi
vừa nghe có tin vui".
Người ấy hỏi:
"Thầy nghe tin gì vậy?"
Đáp: "Nghe rằng bà
định thỉnh chư Tăng cúng dường trai phạn và bố thí y".
Bà ta nói: "Tôi có
ý định đó, nhưng sợ nửa chừng gặp trục trặc không thành".
Các Tỉ-kheo nói:
"Nếu bà thỉnh chư Tăng cúng dường, bố thí vải thì nên cúng dường các
trưởng lão Tỉ-kheo thứ vải tốt, còn vải xấu nên cúng dường cho Sa-di. Nếu cúng
dường vải tốt cho tôi, tôi sẽ mặc đi vào Vương cung, vào các nhà hào quý và lễ
Phật. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói là y do Ưu-bà-di có tín tâm mỗ giáp cúng cho
tôi, bấy giờ bà sẽ được tiếng khen và công đức".
Bà nói: "Nhưng tôi
không có hứa cúng dường chư Tăng. Nếu có thì tôi sẽ dành đặc biệt (cho
thầy)".
Tỉ-kheo nói: "Cho
hay không cho tùy ý bà".
Nói xong liền ra đi.
Người Đàn-việt ấy bèn
suy nghĩ: "Nếu cúng dường thầy đó, không cúng dường Tăng là ruộng phước
tốt (thì ta thất hứa). Còn nếu không cúng dường cho thầy thì sợ thầy dựa thế lực
vua chúa có thể làm điều bất lợi ". Do sợ thầy ấy mà bà không cúng dường
chư Tăng, và vì bà không hoan hỉ nên không cúng dường cả hai.
Các Tỉ-kheo nói với
Tỉ-kheo khất thực ấy: "Việc thầy nghe trước đây tuyệt nhiên không thấy có
tin tức gì cả".
Tỉ-kheo khất thực nói:
"Tôi biết chắc ngày mai đây mà".
Thế rồi, sáng sớm hôm
sau thầy khoác y thường mặc, đi tới nhà ấy, hỏi Ưu-bà-di: "Vì sao không
thấy bày biện ra các thức ẩm thực?".
Bà ta nói: "Thưa
thầy, tại vì Nan Đà, Ưu Ba Nan Đà phá vỡ thiện tâm của tôi".
Thầy hỏi: "Vì cớ
gì?".
Bà liền trình bày đầy
đủ sự việc kể trên. Thầy Tỉ-kheo khất thực nghe xong bèn trở về nói lại với các
Tỉ-kheo.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan Đà, Ưu Ba Nan Đà đến.
Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Các ông có việc ấy thực không?"
Họ đáp: "Thưa có
thực như vậy".
Phật nói: "Các ông
là kẻ ngu si. Đó là việc xấu, các ông đã làm cho cả 2 đều mất lợi ích: Người bố
thí mất phước, người nhận thí mất lợi. Các ông không từng nghe ta dùng vô số
phương tiện chê trách đa dục, khen ngợi thiểu dục hay sao? Vì sao người ta không
tự nguyện thỉnh cầu mà vì muốn y đẹp, các ông lại đến khuyên người ta bố thí? Đó
là việc phi pháp, trái luật, không đúng lời ta dạy. Không thể dùng việc đó để
nuôi lớn thiện pháp được".
Thế rồi Phật truyền
lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10
lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu vợ
chồng cư sĩ, vì Tỉ-kheo, chuẩn bị số tiền sắm y, rồi bàn nhau: "Chúng ta
chuẩn bị số tiền như thế để mua chiếc y như thế [305a] cho Tỉ-kheo mỗ
giáp". Vị Tỉ-kheo này trước đó không được cư sĩ tự nguyện hứa cúng y mà vì
thích đẹp nên đến nhà họ nói như sau: "Ông bà hãy sắm cho tôi chiếc y như
vậy", thì khi được y phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề".
Giải thích
- Vị Tỉ-kheo:
Hoặc là chư Tăng, hoặc là nhiều người, hoặc là một người.
- Cư sĩ: Như
trên đã nói.
- Y: Trên
đã nói.
- Giá y: Trị
giá bằng các thứ vàng bạc châu báu .v.v.
- Ra giá:
Như nói: Hôm nay, hoặc là ngày mai, hoặc nửa tháng, hoặc một tháng nữa, tôi cần
chiếc y như vậy, như vậy đáng giá như vậy, để cho Tỉ-kheo mỗ giáp. Đó gọi là ra
giá.
- Trước đó không
tự nguyện thỉnh cầu: Mình biết trước là họ không tự ý thỉnh cầu mà bảo
rằng họ tự ý thỉnh cầu. Hoặc biết họ tự nguyện thỉnh các Tỉ-kheo khác mà bảo là
họ tự nguyện thỉnh mình. Hoặc biết họ tự nguyện thỉnh đến bố thí những vật khác
mà nói là họ tự nguyện thỉnh tôi đến bố thí y.
- Đi đến:
Hoặc đến ruộng của cư sĩ, hoặc đến nhà hoặc vào trong nhà.
- Yêu cầu:
Như nói: Tôi cần màu xanh, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ, hoặc màu đen, hoặc các
màu sắc khác. Hoặc dài hoặc rộng, hoặc dài rộng chừng ấy. Nếu họ cho theo yêu cầu
của mình, hoặc họ cho vật khác thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
- Vì thích đẹp:
Thích đẹp có: Tri túc hảo, bất tri túc hảo, thô túc hảo.
- Tri túc hảo:
Nếu họ cho vải mịn (vải sợi nhỏ), mình liền bảo: "Tôi cần vải thô".
Đó gọi là tri túc hảo (thích cái đẹp trong sự vừa đủ). Nếu nhận được thì phạm Ni
tát kỳ.
- Bất tri túc
hảo: Khi người ta cho y xấu, liền nói: "Nếu cho tôi y xấu, tôi
không thèm mặc, vì tôi là hạng người cao quý, phải cho tôi y tốt". Đó gọi
là Bất tri túc hảo.
- Thô túc hảo:
Khi họ cho y mịn màng liền nói: Tôi không dùng y tốt này, vì tôi là người sống
ở nơi hoang vắng như con nai trong rừng, nghỉ chỗ đất trống, nên cho tôi y thô
xấu đủ che lạnh nóng mưa gió mà thôi". Đó gọi là thô túc hảo. Nếu nhận
được thì phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề.
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Trên đã giải thích.
Thế nên đức thế Tôn nói
với các Tỉ-kheo:
"Nếu cư sĩ, vợ cơ
sĩ v.v.., cho đến vì thích đẹp mà được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dạ đề".
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 8)
Khi Phật an trú tại
thành Xá Vệ, có thầy Tỉ-kheo đến giờ khất thực bèn mặc y thường mặc, cầm bát
vào thành tuần tự khất thực. Bấy giờ có người vợ cư sĩ nói với Tỉ-kheo như
trên. Nhưng đó là một cư sĩ nói. Còn ở đây có 2 gia đình cư sĩ mà ý kiến khác
nhau thì Tỉ-kheo [305b] nghe rồi cũng phải nghe lại cho rõ. Nếu cả 2 gia đình
vợ chồng cư sĩ ấy đều bàn bạc về giá cả của y và nói như sau: "Chúng tôi
sẽ sắm y như vậy như vậy, giá cả như vậy như vậy, để cho Tỉ-kheo mỗ giáp".
Nhưng trước đó họ không tự ý thỉnh mời mà Tỉ-kheo vì muốn y tốt nên đến 2 nhà
cư sĩ, nói: "Cả 2 nhà nên chung sức sắm cho tôi một chiếc y như vậy, với
giá trị như thế". Vị này vì thích đẹp, nên nếu được y thì phạm Ni tát kỳ
Ba dạ đề.
Trong đây như trường
hợp một cư sĩ đã nói rõ ở trên, nhưng 2 cư sĩ thì khác.
Khi Phật an trú tại
thành Xá Vệ, vua Bình Sa có 2 vị đại thần, người thứ nhất là Ni-đề, người thứ 2
tên là Bà-lợi-sa. Vào mùa thu, nhân dân thu hoạch xong, bèn vận chuyển lương thực
vào thành. Khi ấy tuyết rơi lạnh, hai vị Đại thần suy nghĩ: "Hằng năm
chúng ta thường mời thầy Nan-Đà và Ưu Ba Nan Đà về nhà cúng dường trai phạn và
y phục, không biết hiện giờ họ ở đâu". Có người nói: "Họ đang ở tại thành
Xá Vệ".
Lúc ấy, 2 vị Đại thần
bèn sai sứ giả mang thư và 800 đồng tiền cũ đến đưa cho Nan Đà và Ưu Ba Nan Đà,
và dặn họ phải mang thư hồi âm về báo lại. Sứ giả đi đến Tinh xá Kỳ Hoàn bèn
hỏi thầy tri khách: "Phòng của Nan Đà, Ưu Ba Nan Đà ở đâu?"
Lúc ấy các Tỉ-kheo liền
chỉ, nói: "Phòng này đây".
Sứ giả liền bước vào
phòng, đảnh lễ, rồi hỏi: "Thầy có phải là Ưu Ba Nan Đà không?"
Thầy đáp: "Phải.
Ông muốn hỏi điều gì?"
Sứ giả đáp: "Hai
vị Đại thần của Vua Bình Sa là Ni-đề và Ba-lợi-Sa sai tôi đem thư và 800 đồng
tiền cũ đến thầy, và xin thư hồi âm".
Khi ấy có Ưu-bà-tắc tên
Pháp-dự, Ưu Ba Nan Đà bèn nói với ông ta: "Ông hãy đếm xem số tiền sắm y
này có phù hợp với lá thư không".
Ông ta bèn đếm thì thấy
số tiền ấy phù hợp với thư, liền viết thư phúc đáp và sai sứ giả đem về. Thế
rồi, Pháp-dự định đi về, liền bạch với Ưu Ba Nan Đà: "Thưa Tôn giả, tiền
sắm y này nên để ở đâu?"
Ưu Ba Nan Đà đáp:
"Nên để bên ông".
Ưu-bà-tắc bèn mang về
nhà, nhưng chờ một ngày, 2 ngày, 3 ngày mà không thấy Ưu Ba Nan Đà đến lấy. Vì
thầy bận nhiều việc nên quên không đến lấy. Khi ấy, trong nhà Ưu-bà-tắc đang
thiếu tiền, nên ông mượn số tiền ấy dùng tạm rồi sau sẽ hoàn lại. Mới vừa tiêu
xong, thì ngay trong ngày ấy, Nan-Đà bảo Ưu Ba Nan Đà đến đòi lại số tiền sắm
y. Ưu-bà-tắc nói: "Khi tôi mang tiền về nhà chờ Tôn giả 1 ngày, 2 ngày, 3
ngày mà không thấy đến lấy, nhân trong nhà đang thiếu ít tiền, nên tôi mượn
dùng tạm rồi sẽ hoàn trả lại".
Ưu Ba Nan Đà liền giận
dữ nói: "Ông là người không thể gởi gấm được! Đó là tiền của tôi, vì sao
tự tiện sử dụng?"
Thế rồi, Nan-đà nói với
[305c] Ưu Ba Nan Đà rằng: "Vật ấy không thể đòi trực tiếp được", bèn
báo với quan đến bắt ông ta đi.
Khi ấy dân chúng thấy
thế, liền chê trách đủ điều, rằng: "Sa môn Thích tử tự cho mình thánh
thiện tốt đẹp, thế mà người đàn Việt kia thường cung cấp cho họ, họ lại nỡ làm
khốn khổ như vậy đó, huống gì người khác! Thực là mất hết phép tắc Sa môn, làm
ác như vậy thì còn có đạo đức gì nữa!’’.
Ưu Ba Nan Đà nghe thế
lấy làm xấu hổ, liền thả ông ta đi.
Các Tỉ-kheo nghe việc
ấy bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu Ba Nan Đà đến. Khi thầy tới
rồi, Phật liền hỏi: "Ưu Ba Nan Đà, ông có làm việc đó thật chăng?"
Thầy đáp: "Có thật
như thế, bạch Thế Tôn".
Phật bèn khiển trách Ưu
Ba Nan Đà: "Đó là việc ác. Ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện
để chê trách sự đa dục, khen ngợi thiểu dục hay sao? Đó là điều phi pháp, phi luật,
trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay trở
đi ta không cho phép đến đòi như thế nữa".
Lại nữa khi Phật an trú
tại thành Xá Vệ có Ưu-bà-tắc Pháp-dự thường mời các Tỉ-kheo tuần tự thọ trai.
Đến phiên Tỉ-kheo đến nhà ấy thọ trai, Pháp-dự hỏi: "Vì sao không thấy Ưu Ba
Nan Đà đến nhận lại tiền? Khi tôi chưa có tiền thì đòi một cách khẩn thiết giữa
mọi người, nay tôi có tiền thì không thấy đến lấy".
Các Tỉ-kheo nói:
"Phật chế giới không được đến đòi".
Pháp-dự nói: "Nếu
không cho đòi thì vì sao không đến đây đứng im lặng, tôi sẽ hiểu ý?"
Thầy Tỉ-kheo ấy ăn xong
trở về nói với Các Tỉ-kheo. Các Tỉ-kheo bèn đem việc đó đến bạch với Thế Tôn.
Phật bèn nói với các Tỉ-kheo: "Ông Ưu-bà-tắc Pháp-dự này là kẻ thông minh,
có trí tuệ, và có phương tiện quyền biến. Từ nay ta cho phép các Tỉ-kheo 3 lần
đến đòi, 6 lần đến đứng im lặng".
Rồi Phật truyền lệnh
cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Vua hay
Đại thần sai sứ giả mang tiền sắm y đến cho Tỉ-kheo, rồi sứ giả đến chỗ Tỉ-kheo
nói: "Tôn giả, đây là tiền sắm y của Vua, của vị đại thần kia đưa cho tôn
giả, tôn giả hãy nhận lấy". Tỉ-kheo này nên nói với sứ giả như sau:
"Phép của các Tỉ-kheo không được nhận tiền sắm y. Khi nào ta cần y thanh
tịnh (hợp pháp), ta sẽ tự tay nhận tiền để sắm y". Sứ giả nên hỏi Tỉ-kheo:
"Thưa Tôn giả! có người chức sự, thường xử lý công việc cho các Tỉ-kheo
không?". Tỉ-kheo này nên chỉ cho sứ giả người chức sự như người làm vườn
hoặc cư sĩ ở chùa, và nói: "Những người đó thường hay giúp việc cho các
Tỉ-kheo". Bấy giờ, sứ giả đến chỗ người chức sự [306a] nói: "Lành
thay ông chức sự! Số tiền sắm y như thế này đây dùng để sắm y như vậy, như vậy
cho Tỉ-kheo mỗ giáp. Khi nào Tỉ-kheo ấy cần y đến lấy, thì ông nên đưa y cho
thầy". Sứ giả này tự mình khuyến dụ, hoặc nhờ người khác khuyến dụ xong,
trở lại chỗ Tỉ-kheo, thưa: "Thưa Tôn giả, người chức sự mà Tôn giả đã chỉ
tôi đã đến nhờ ông ta may y cho Tôn giả. Khi nào Tôn giả cần y cứ đến lấy, ông
ta sẽ đưa y cho Tôn giả".
-- Thầy Tỉ-kheo khi
cần y nên đến chỗ người chức sự đòi y, nói như sau: "Tôi cần y". đòi
đến lần thứ 2 thứ 3 cũng như thế. Nếu được y thì tốt, nếu không được thì lại đến
trước người chức sự đứng im lặng đến lần thứ tư thứ năm, thứ sáu, mà được y thì
tốt. Nếu không được mà cứ đến đòi hơn sáu lần thì khi được y, sẽ phạm Ni-tát-kì
Ba - dạ- đề.
Nếu không được y, thì
hoặc tự đi, hoặc nhờ sứ giả tới người đưa tiền sắm y, nói như sau: "Ông
đưa tiền sắm y cho Tỉ-kheo mỗ giáp, nhưng rốt cuộc Tỉ-kheo mỗ giáp không được
y. Vậy ông hãy đến lấy lại tiền y kẻo bị mất". Việc này nên làm như
vậy".
Giải thích
- Vua: Như
đã nói trong giới ăn trộm.
- Bề tôi của Vua:
Kể cả viên Tiểu lại biết trông coi việc quan đều gọi là bề tôi.
- Sứ giả:
Hoặc trai, hoặc gái, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc tại gia, xuất gia.
- Y: Như
trên đã nói.
- Tiền sắm y:
Tiền, vàng bạc, châu báu, lưu ly, hà bối, san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, Xích
bảo, đồng, thiết, bạch lạp, chì .v.v. Đó gọi là tiền sắm y.
- Người làm vườn:
Người tịnh nhân phụng sự chúng Tăng, gọi là người làm vườn.
- Ưu-bà-tắc:
Người đã thọ 3 quy y, giữ được một phần giới, giữ được một ít giới, giữ được
nhiều giới, giữ được giới trọn vẹn, làm một cách nhuần nhuyễn. Người được như
thế gọi là Ưu-bà-tắc.
- Nói 3 lần:
Không phải chỉ trong một lần đi về, nói 3 lời, mà là đi về đòi 3 lần, thì gọi
là nói 3 lần.
- Hoặc 4, 5, 6
lần đến đứng im lặng: Không phải một lần đến đứng im lặng rồi trở về mà
là 6 lần đến đứng im lặng rồi trở về. Nghĩa là một lần tự mình đến đòi, một lần
sai sứ đến đứng im lặng. Một lần tự mình đến đòi, 2 lần sai sứ đến đứng im
lặng. Một lần tự mình đến đòi, 3 lần sai sứ đến đứng im lặng. Một lần tự mình
đến đòi, 4 lần sai sứ đến đứng im lặng. Một lần tự mình đến đòi, 5 lần sai sứ
đến đứng im lặng. Một lần tự mình đến đòi, 6 lần sai sứ đến đứng im lặng. Hai
lần tự mình đến hỏi, 3 lần tự mình đến hỏi cũng như vậy. Hoặc là một lần sai sứ
đến đòi, một lần tự mình đến đứng im lặng. Một lần sai sứ đến đòi, 2 lần tự
mình đến đứng im lặng. Một lần sai sứ đến đòi, 3 lần tự mình đến đứng im lặng.
Một lần sai sứ đến đòi, 4 lần tự mình đến đứng im lặng. Một lần sai sứ đến đòi,
5 lần tự mình đến đứng im lặng [306b]. Một lần sai sứ đến đòi, 6 lần tự mình
đến đứng im lặng. Thế rồi, 2 lần sai sứ đến hỏi, 3 lần sai sứ đến hỏi cũng như
vậy. Hai lần tự mình đến đòi, 3 lần tự mình đến hỏi cũng như vậy. Sai sứ đến
đòi, sai sứ đến đứng im lặng 3 lần cũng như vậy.
Nghĩa là 3 lần đến đòi,
6 lần đến đứng im lặng. Thời gian hoặc hoãn hoặc gấp.
- Thế nào là
hoãn?
Nếu Tỉ-kheo đến nhà đàn
việt đòi y, hỏi rằng: "Lão trượng đưa cho tôi số tiền sắm y". Rồi đàn
việt đáp: "Tôn giả, một tháng nữa hãy đến". Tỉ-kheo đợi đủ một tháng
lại đến đòi.
Nếu đàn việt lại nói:
"Một tháng nữa lại đến". Rồi Tỉ-kheo đợi đủ một tháng lại đến đòi.
Bấy giờ đàn việt lại nói: "Tôn giả, một tháng nữa lại đến"Tỉ-kheo đợi
đủ một tháng lại đến đòi. Khi đã qua 3 tháng rồi thì không được đến đòi nữa.
Hoặc họ nói: "Nửa
tháng nữa đến lấy", thì quá 3 lần nửa tháng, không được đến đòi nữa.
Hoặc họ nói: "Mười
ngày, 5 ngày, 4 ngày, 3 ngày, 2 ngày, 1 ngày, một chốc lát..."mà quá 3
chốc lát thì không được đến đòi nữa.
Khi Tỉ-kheo này 6 lần
đến đứng mà đàn việt nói: "Tôi biết Tôn giả đến đứng có ý gì rồi, vậy một
tháng nữa hãy đến". Thì Tỉ-kheo đợi đủ một tháng sẽ đến đứng im lặng. Cứ
như vậy đủ 6 tháng đến đứng im lặng rồi thì không được đến nữa.
Hoặc họ nói: "Nửa
tháng, 10 ngày, 5 ngày, 4 ngày, 3 ngày, 2 ngày, 1 ngày, trong khoảnh
khắc". Mà quá 6 khoảnh khắc rồi, thì không được đến đứng im lặng nữa. Thế
thì thời gian đứng im lặng là bao lâu? - Khoảng thời gian ấy bằng thời gian một
người vào phòng lấy mũ đội lên đầu, hoặc như khoảng thời gian khoác áo vào, rồi
ra đi. Nếu Tỉ-kheo tạo phương tiện hiện ra tướng trạng bằng cách cầm y, bát, tích
trượng, bình nước, đi qua nhà người mình đã gởi tiền trước kia, rồi người đó
hỏi: "Tôn giả định đi đâu vậy?". Bèn đáp: "Định đi tới người đã
gởi tiền trước kia bảo họ lấy lại tiền kẻo để mất". Rồi người nhận ký gởi
nói: "Tôi đã chuẩn bị tiền từ lâu, không cần phải đến nữa". Bèn đưa
tiền cho Tỉ-kheo, mà Tỉ-kheo lấy thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
Nhưng nếu không có dụng
ý mà nhân đi đường ngang qua trước họ, rồi họ hỏi: "Tôn giả định đi đến
đâu đó". Tỉ-kheo đáp: "Định đi tới người chủ đã đưa tiền trước kia bảo
họ lấy lại tiền kẻo để mất". Rồi người nhận ký gởi nói: "Tôi đã chuẩn
bị tiền từ lâu, khỏi cần đi đến nữa"; bèn đưa tiền, mà Tỉ-kheo nhận, thì
không có tội.
Trái lại, nếu người
nhận ký gởi nói: "Tùy ý mà đi. Giả sử ông có xẻ thịt tôi ra như xẻ cây đa
la, thì tôi cũng không đưa ông một đồng xu ten". Thì bấy giờ Tỉ-kheo nên
đến người đã gởi tiền bảo họ lấy lại tiền kẻo để mất. Nếu như người chủ đã đưa
tiền nói: "Trước đây tôi đã cúng dường cho thầy, thầy tùy phương tiện mà
đòi lại". Khi ấy Tỉ-kheo được phép làm như trước 3 lần đến đòi [306c], 6
lần đến đứng im lặng.
Thế nên đức Thế Tôn nói:
"Hoặc nhà Vua,
hoặc Đại thần đưa tiền sắm y.. cho đến chớ để mất. Việc ấy nên làm như
vậy".
(Hết Phần đầu của Ni-tát-kì)
Khi Phật an trú tại
Tinh xá có tầng lầu nơi đại lâm ở Tì Xá Li, nói rộng như trên. Bấy giờ tất cả
các Tỉ-kheo đều may y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, Ni-sư-đàn bằng len,
chỉ trừ đãy lọc nước và dây buộc xách là không phải bằng len. Do đó, các
Tỉ-kheo đi mọi chỗ xin lông dê để may y bằng len, nhiều người đều làm như thế,
khiến ngưòi đời sinh chán ngán.
Khi ấy, có một Tỉ-kheo
sáng sớm khoác y, cầm bát vào thành Tì Xá Li để xin lông thú. Bấy giờ, một
khách buôn tay cầm chìa khóa đi tới chợ, định mở cửa sạp hàng, nhưng trông thấy
Tỉ-kheo từ xa vội vã đi đến, bèn suy nghĩ: "Thầy Tỉ-kheo này tới đây chắc
là để xin lông thú, mới sáng sớm mà đã tới đây, chợ búa chưa mở hàng thì ai mà
lại cho lông". Thế rồi, ông đóng cửa sạp hàng, trở về nhà.
Tỉ-kheo suy nghĩ:
"Ông khách buôn này thấy ta liền đóng cửa sạp hàng, trở về nhà, có lẽ là
không muốn cho ta lông thú", bèn đi đường tắt đến chận đầu ông ta hỏi:
"Lão trượng, ông đi đâu mà không chờ tôi? Vậy thì tôi xin lông ai đây? Chính
là tôi định xin lông thú của ông, vì ông là người tin tưởng Phật Pháp, biết rõ
tội phước, việc làm có quả báo mà nếu không cho tôi, thì ai sẽ cho tôi. Lão
trượng nên biết, đức Thế Tôn đã dạy rằng: Nên khởi từ tâm, đối với người không
thích nghe, tạo phương tiện khiến cho họ nghe; đối với những người không tin
tưởng phải khuyên bảo họ tin tưởng; thậm chí dùng tay ghì đầu họ, khuyên họ
phải bố thì. Vì lẽ, họ nhờ đó mà khi mệnh chung được sinh lên cõi trời, có sắc
đẹp, khỏe mạnh, sống lâu, có bà con sum họp, đời sau sinh vào cõi người cũng hưởng
được khoái lạc, có sắc đẹp, khỏe mạnh, sống lâu, và bà con đông đúc. Thế rồi,
họ tu tập Phật pháp, làm tăng thêm công đức và chờ đợi quả vị cam lồ. Do vậy,
này lão trượng, Thế Tôn đã nói kệ:
"Làm phước hưởng
an lạc
Muốn gì đều tự nhiên
Vượt khỏi dòng sinh tử
Lên cảnh giới Niết-bàn
Những kẻ làm việc phước
Được thiên thần hộ trì
Nguyện chi đều thành tựu
Ác ma không hại được
Bạc phước nhiều khổ não
Phước dày tai họa tiêu
Phước đức mà vững chắc
Định kiên cố chóng thành
Sinh thiên hưởng khoái lạc
Ở nhân gian, tự tại
Đó là do công đức
Đến đâu đều tự nhiên
[307a] Do phương tiện phước đức
Mà lìa khổ sinh tử
Đắc đạo đến Niết bàn
Dứt lưu chuyển tái sinh"
Khi Tỉ-kheo thuyết kệ
xong, liền nói với khách buôn: "Lão trượng, bố thí lông dê cho tôi phước
đức rất lớn".
Khách buôn nghe nói
thế, liền bố thí một ít lông dê, đoạn suy nghĩ: "Nếu ta vào chợ, sẽ có
nhiều người xin lông, đã chẳng được lợi ích gì mà còn hao tổn vốn liếng. Vậy, thà
ngồi ở nhà còn có thể bảo toàn vốn liếng chứ cố vào sạp buôn bán, e mất toi cả
vốn lời". Nghĩ thế rồi, ông bèn trở về ngồi trong nhà. Bà vợ trông thấy
vậy, nổi giận nói với chồng: "Vì sao ông đến chợ rồi lại tức tốc trở về?
Luời biếng như vậy thì lấy gì để nuôi con cái, nạp thuế quan và lo việc sưu
dịch?"
Khách buôn đáp:
"Bà chớ giận, hãy nghe đã. Sáng sớm nay tôi đến sạp hàng định mua bán...
"Nói rộng như trên, cho đến "không bằng trở về nhà ngồi nghỉ".
Bà vợ nghe rồi im lặng
không nói nữa. Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất tuần tự khuất thực, đến nhà khách buôn
ấy, đứng ở ngoài cửa. Bà vợ của ông nhà buôn vốn là người có tín tâm, cung
kính, biết tôn giả Xá Lợi Phất, nên dùng cái tô múc đầy thức ăn, đem ra cửa sớt
vào bát của Xá Lợi Phất, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, cung kính vấn an. Khi ấy,
Xá Lợi Phất cũng an ủi bà ta rằng: "Trong nhà thế nào? sinh hoạt có tốt
không?"
Bà ấy đáp: "Trong
nhà đều tốt đẹp cả, chỉ có việc sinh nhai bị đình đốn".
Tôn giả hỏi: "Vì
sao vậy?"
Bà liền đem sự việc
trên bạch đầy đủ với Xá Lợi Phất rằng: "Mọi sinh hoạt trong nhà như ăn
uống, quần áo, cung cấp, sưu dịch, thuế khóa đều nhờ vào sạp hàng mà nay ông
nhà cứ ngồi ì trong nhà, vì sợ người ta xin lông dê. Thật sự ông đang ở đó mà
bảo là đi, thật sự ông đang thức mà bảo là ngủ. Nay thầy là người mà gia đình
con cúng dường, cung kính, tôn trọng, không dám giấu giếm điều chi. Vì lẽ lông
rất quí, giá một đồng một lạng, cho đến hai ba, bốn đồng tiền vàng một lạng.
Hơn nữa, thứ lông này rất mịn, dù châm vào tròng mắt cũng không chảy nước mắt,
nên rất khó được. Thưa Tôn giả! Thứ lông dê này phát xuất từ 4 nước lớn là:
Nước Tì Xá Li, nước Phất Ca La, nước Đắc Sát Thi Ra, nước Nan Đề Bạt Đà. Chồng tôi
và các thân quyến vì đi tìm thứ lông ấy mà có khi còn sống trở về, có khi bị
chết không trở về, vì loại lông này khó được như vậy, cho nên rất quí. Thế mà
các Tỉ-kheo hết người này đến người khác tới xin hoài, phá gia nghiệp của con,
khiến lâm vào cảnh bần cùng".
Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi
Phất liền thuyết pháp rộng rãi, khiến bà ta phát tâm hoan hỉ, rồi trở về Tinh
xá. Và sau khi thọ trai xong, thầy bèn đem nhân duyên trên bạch đầy đủ lên Thế
Tôn. Phật bèn bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi: "Có
thật là ông vì muốn làm y bằng len mà xin lông dê, [307b] khiến cho bà vợ ông
nhà buôn đã trách móc với Xá Lợi Phất chăng?"
Thầy đáp: "Có thật
như vậy, bạch Thế Tôn".
Phật nói: "Này
Tỉ-kheo, há ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện quở trách đa dục, tán
thán thiểu dục hay sao? Việc ông làm là phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy,
không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được".
Thế rồi, Phật truyền
lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại Tì Xá Li phải tập họp lại tất cả, rồi vì 10 điều
lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Tỉ-kheo
dùng lông dê thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
- Thuần: không
pha tạp.
- Lông dê:
Có 10 loại là: Dê tương tục, dê đen, dê lang (không đủ sắc), dê núi, dê lang
thang, dê hồ, dê đẳng, dê kên, dê nhiều tai, dê mộc liên.
- Mới: Mới
làm thành.
- Phu cụ:
Dụng cụ để trải, được làm bằng len.
- Làm: Hoặc
tự làm, hoặc nhờ người khác làm.
- Ni-tát-kì Ba-dạ-đề:
Phu cụ ấy phải xả bỏ giữa chúng Tăng, rồi sám hối tội Ba-dạ-đề. Nếu không xả bỏ
mà sám hối thì phạm tội Việt-tì-ni.
- Ba-dạ-đề:
Như trên đã nói.
- Dê tương tục:
Có 6 loại lông: Màu xanh tự nhiên, màu xanh nhuộm, màu đen tự nhiên, màu đen
nhuộm, màu xanh đen tự nhiên, màu xanh đen nhuộm.
Nếu tự mình làm, hoặc
nhờ người khác làm thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng thì phạm tội
Việt-tì-ni. Cho đến loại lông dê mộc liên cũng như vậy. Loại phu cụ này phải xả
bỏ giữa chúng Tăng, nhưng chúng Tăng không được trao lại chủ cũ, cũng không
được dùng vào các việc khác, mà chỉ có thể trải dưới đất, hoặc tủ trên mái nhà,
làm rèm, phướn. Thế nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo dùng
lông dê thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 10)
Khi Phật an trú tại một
Tinh xá có lầu gác trong rừng ở thành Tì Xá Li, nói rộng như trên. Bấy giờ các
Tỉ-kheo làm các loại y bằng len như y Tăng-già-lê, y Uất-đa-la-tăng, y
An-đà-hội và Ni-sư-đàn, chỉ trừ đãy lọc nước và dây buộc túi xách. Vì bấy giờ
Phật chưa chế giới nên các Tỉ-kheo mặc loại y bằng len này ngồi ở ngoài trời
(ban đêm) một cách an ổn. Nhưng sau khi Phật chế giới, các Tỉ-kheo không được mặc
y bằng len nên nhiều người đau ốm, sống không yên ổn. Do vậy, họ bèn đem sự
kiện ấy nói với Tôn giả A Nan: "Khi Phật chưa chế giới, chúng tôi mặc y
bằng len (nên dù ở ngoài trời) cũng yên ổn như ở trong nhà, đến khi Phật chế
giới rồi, không được mặc y bằng len nữa, nên nhiều người ốm đau, không yên ổn.
Lành thay A Nan! Thầy hãy vì chúng tôi bạch với Phật cho phép chúng tôi dùng
lại y bằng len như trước".
Khi ấy, Tôn giả A Nan
bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đem sự việc trên bạch
đầy đủ với Thế Tôn: "Kính xin Thế Tôn cho phép các Tỉ-kheo mặc y bằng len
như trước".
[307c] Phật nói:
"Ta cho phép các Tỉ-kheo làm y pha trộn (các loại lông)".
Thế rồi, Phật truyền
lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Tì Xá Li phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo
muốn làm phu cụ mới nên trộn lẫn 2 phần lông dê thuần đen, phần thứ 3 lông
trắng và phần thứ tư màu xám. Trái lại, nếu Tỉ-kheo không trộn lẫn 2 phần lông
dê thuần đen, phần thứ 3 lông trắng và phần thứ tư màu xám để làm phu cụ, thì
phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích:
(Một số từ ngữ đã được
giải thích ở trên)
- Hai phần:
Dùng 2/4 lông dê đen để làm phu cụ.
- Phần thứ 3
trắng: Dùng 1/4 lông dê trắng để làm phu cụ
- Phần thứ tư màu
xám: Dùng 1/4 lông màu xám để làm phu cụ
Nếu Tỉ-kheo làm phu cụ
mới (sai qui định trên đây) hoặc tự làm, hoặc nhờ người khác làm, khi làm thành
thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng thì phạm tội Việt-tì-ni.
(các từ khác trên đã
giải thích).Thế nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo muốn
làm phu cụ mới thì phải dùng 2/4 lông dê thuần đen, phần thứ 3 màu trắng, phần
thứ tư màu xám để làm. Trái lại, nếu không dùng 2/4 lông dê thuần đen, phần thứ
3 màu trắng, phần thứ tư màu xám để làm phu cụ mới, thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề".
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 11)
Khi Phật an trú tại một
Tinh xá có lầu gác trong rừng, bấy giờ có một Tỉ-kheo định làm phu cụ nhưng
thiếu lông dê, các Tỉ-kheo bèn hỏi: "Làm phu cụ xong chưa?"
Thầy đáp: "Làm
chưa xong".
Họ lại hỏi: "Vì
sao vậy?".
Thầy đáp: "Vì
thiếu lông dê".
Các Tỉ-kheo bèn nói:
"Thầy muốn có tơ tằm mịn để làm không?"
Thầy đáp:
"Muốn".
Các Tỉ-kheo liền nói:
"Thầy hãy đến thôn Khoáng Dã xin tơ tằm về trộn lẫn với lông dê để
làm".
Thầy liền theo lời chỉ
dẫn, đi tới thôn Khoáng dã vào nhà làm tơ tằm hỏi chủ nhà: "Lão trượng,
cho tôi ít tơ tằm".
Chủ nhà đáp: "Thầy
đợi một chút, tôi đi lấy tơ tằm đem ra cho".
Tỉ-kheo đứng chờ ở
ngoài một lát, bèn tới hỏi: "Đã lấy xong chưa?"
Họ đáp: "Vừa mới
lấy ra, đợi tôi một lát, tôi nấu xong rồi sẽ đưa".
Thế rồi, họ đem ghế ra
mời Tỉ-kheo ngồi. Thầy liền ngồi chờ một chốc lát, bèn đi tới xem nồi nước sôi
chưa [308a]. Thấy nước đã sôi thầy liền nói: "Nước đã sôi, có thể bỏ kén
vào".
Chủ nhân vì muốn chế
diễu Tỉ-kheo, nên hỏi: "Tôn giả, nước đã sôi có thể bỏ kén vào thực
sao?".
Thầy đáp: "Quả
thực đã sôi có thể bỏ vào được".
Chủ nhân bèn đem kén bỏ
vào nồi nước sôi, phát ra tiếng kêu sùng sục, rồi ông trách: "Tôi nghe Sa
môn Cù-Đàm dùng vô số phương tiện ca ngợi sự không sát sinh, khiển trách sự sát
sinh, vì sao Sa-môn Thích tử lại cố ý sát hại chúng sinh? Thế là mất hết phép
tắc Sa môn, còn có đạo hạnh gì nữa?"
Với tâm không hoan hỉ,
chủ nhân bèn đem cho Tỉ-kheo một ít tơ tằm. Tỉ-kheo được tơ tằm rồi, bèn đem về
trộn với lông dê, làm phu cụ. Các Tỉ-kheo lại hỏi: "Thầy làm phu cụ xong
chưa?"
Thầy đáp: "Xong
rồi, nhưng trong khi làm lợi ít mà lỗi nhiều".
Các Tỉ-kheo hỏi:
"Thế nào là lợi ít mà lỗi nhiều?"
Thầy bèn trình bày đầy
đủ sự kiện kể trên. Các Tỉ-kheo nghe xong, liền đến bạch với Thế Tôn. Phật liền
bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến Phật liền hỏi: "Này Tỉ-kheo, ông có
làm việc đó thật chăng?"
Thầy đáp: "Có thật
như thế, bạch Thế Tôn".
Phật khiển trách:
"Đó là việc ác. Ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện chê trách
việc sát sinh, ca ngợi không sát sinh hay sao? Nay vì sao ông lại làm việc ác
như thế. Đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy
để nuôi lớn thiện pháp được".
Thế rồi Phật truyền
lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại Tỳ Xá Li phải tập họp lại tất cả, rồi vì 10 lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi, cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Tỉ-kheo
dùng tơ tằm trộn lẫn với lông dê thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
- Tơ tằm:
Gồm có 2 loại. Một là sống, hai là đã làm. Tơ sống nghĩa là tơ mịn. Tơ đã làm
nghĩa là tơ đã đánh sợi .
(Một số từ đã giải
thích ở trên).
Nếu Tỉ-kheo dùng tơ tằm
may y Tăng-già-lê, dùng lông dê may y Uất-đa-la-tăng; hoặc dùng lông dê may y
Tăng-già-lê, dùng tơ tằm may y Uất-đa-la-tăng hoặc tự mình làm, hoặc nhờ người
khác làm, khi làm xong, phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng, phạm tội
Việt-tỳ-ni. Nếu Tỉ-kheo dùng tơ tằm may y Tăng-già-lê, dùng lông dê may y
An-đà-hội, hoặc dùng lông dê may y Tăng-già-lê, dùng tơ tằm may y An-đà-hội.
Hoặc tự mình làm, hoặc nhờ người khác làm, khi làm xong phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề. Khi sử dụng phạm tội Việt-tì-ni.
Hoặc đường dọc (308b)
làm bằng tơ tằm, đường ngang làm bằng lông dê, hoặc đường dọc làm bằng lông dê,
đường ngang làm bằng tơ tằm; hoặc tự mình làm, hoặc nhờ người khác, khi làm
xong, phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng phạm tội Việt-tì-ni. Hoặc dệt ở ngoài
lề bằng lông dê, ở giữa bằng tơ tằm, hoặc dệt ở giữa bằng lông dê, ở ngoài lề
bằng tơ tằm, hoặc tự mình dệt, hoặc nhờ người khác dệt, khi dệt xong phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng phạm tội Việt-tì-ni.
Hoặc dệt một sợi bằng
tơ tằm, một sợi bằng lông dê, thì cũng như trên đã nói. Hoặc y bằng lông dê,
đường viền bằng tơ tằm, hoặc y bằng lông dê, đường xếp bằng tơ tằm, hoặc y bằng
lông dê, miếng vá bằng tơ tằm, hoặc tự mình làm, hoặc nhờ người khác làm, đều
như trên đã nói. Cái y len này phải đem xả bỏ giữa chúng Tăng, và Tăng không
được dùng, cũng không được trả lại chủ cũ, mà chỉ được dùng trải đất và làm
rèm, màn che gió mà thôi. Thế nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo dùng
tơ tằm trộn lẫn với lông dê thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề".
(Hết giới
Ni-tát-kì thứ 12)
Khi Phật an trú tại
Tinh xá có lầu gác trong rừng nơi thành Tì-Xá-Li, nói rộng như trên. Vì 5 điều
lợi ích nên Thế Tôn cứ 5 hôm đi quan sát phòng ốc của các Tỉ-kheo một lần. Lúc
ấy, Thế Tôn thấy các phu cụ len cũ bỏ ngổn ngang khắp nơi, hoặc trong đống rác,
hoặc trong xó nhà, hoặc dưới thềm nhà, bị chim, quạ mang về làm ổ, hoặc chuột
tha vào trong hang. Phật biết mà vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Đây là loại phu cụ
len cũ của ai mà bỏ ngổn ngang khắp nơi như thế?"
Các Tỉ-kheo đáp:
"Bạch Thế Tôn! Đó là thứ phu cụ len cũ mà các Tỉ-kheo vứt bỏ, vì thích làm
phu cụ mới".
Phật bèn bảo với các
Tỉ-kheo: "Từ nay trở đi, các Tỉ-kheo khi làm phu cụ mới phải sử dụng đến 6
năm".
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một Tỉ-kheo già bệnh mang
chiếc y Tăng-già- lê bằng len nặng nề, các Tỉ-kheo thấy thế, nói: "Thầy mang
chiếc y Tăng-già-lê bằng len nặng thế này sẽ chết mất, hãy bỏ cái y nặng này đi
và mang chiếc y nhẹ khác".
Thầy liền đáp: "Vì
dùng chưa đủ 6 năm".
Các Tỉ-kheo lại nói:
"Thầy không bỏ cái y này sẽ ốm mà chết".
Thầy đáp: "Thà tôi
chết, chứ không dám trái giới luật".
Các Tỉ-kheo bèn đem
việc đó bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Thầy
Tỉ-kheo già bệnh ấy vì mang y bằng len nặng mà tăng thêm bệnh thì Tăng nên cho
thầy pháp Yết-ma dùng y len. Tỉ-kheo này nên đến xin Tăng và Tăng nên làm pháp
Yết-ma cầu thính. Người làm Yết-ma nên nói thế này: "Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp già bệnh mà chiếc y bằng len nặng nên càng tăng thêm bệnh
suy vi. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho phép Tỉ-kheo mỗ giáp
đến Tăng xin Yết-ma về y len. Xin các đại đức lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp muốn
đến Tăng xin pháp Yết-ma y len, [308c] vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc
đó cứ như thế mà thi hành".
Thế rồi, Tỉ-kheo này
đến trước Tăng, trật vai áo bên phải, chân phải quỳ xuống đất, tác bạch xin như
sau: "Tôi Tỉ-kheo mỗ giáp già bệnh mà chiếc y này nặng càng làm cho bệnh hoạn
tôi tăng thêm. Nay tôi đến giữa Tăng xin pháp Yết-ma y len, mong Tăng cho tôi
pháp Yết-ma y len". Xin lần thứ 2 thứ 3 cũng như thế.
Bấy giờ người làm
Yết-ma nên nói như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp này bệnh mà chiếc y bằng len nặng, thầy đã đến giữa Tăng
xin pháp Yết-ma y len. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho
Tỉ-kheo mỗ giáp pháp Yết-ma y len. Đây là lời tác bạch.
Rồi 3 lần bạch Yết-ma
cũng như thế.
Sau đó, Phật hỏi các
Tỉ-kheo đã cho Tỉ-kheo già bệnh pháp Yết-ma y len chưa, thì họ đáp rằng đã cho
rồi. Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập
họp lại tất cả, vì 10 điều lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi
cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo
làm phu cụ mới phải dùng đến 6 năm. Nếu chưa đủ 6 năm mà bỏ, hoặc không bỏ phu
cụ cũ, làm phu cụ mới, ngoại trừ Tăng làm Yết-ma cho phép, thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề".
Giải thích
(Một số từ đã giải
thích ở trên)
- Sáu năm:
Tức 6 mùa hạ. Bốn tháng mùa hạ nên ở trong nhà, mỗi đêm nên trải tấm phu cụ
bằng len 3 lần, không nên đầu đêm đem ra trải 3 lần; nếu đầu đêm đem ra mà giữa
đêm, cuôùi đêm không đem ra, thì phạm 2 tội Việt-tì-ni. Nếu giữa đêm đem ra
(dùng) mà đầu đêm, cuối đêm không đem ra thì cũng phạm 2 tội Việt-tì-ni. Nếu
cuối đêm đem ra, mà đầu đêm, giữa đêm không đem ra, thì cũng phạm 2 tội
Việt-tì-ni. Nếu đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều không đem ra, thì phạm 3 tội
Việt-tì-ni. Trái lại nếu đem ra 3 lần đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm, thì không có
tội.
- Chưa đủ sáu
năm: Chưa đủ 6 mùa hạ.
- Phu cụ cũ:
Đã được dùng trong 6 năm.
- Hoặc xả, hoặc
không xả: Cái phu cụ cũ hiện tiền nếu bỏ rồi làm cái mới thì phạm; hoặc
cái phu cụ cũ hiện tiền không bỏ mà làm cái mới cũng phạm; hoặc cái phu cụ cũ
không hiện tiền, nếu bỏ mà làm cái mới cũng phạm; hoặc cái phu cụ cũ không hiện
tiền, không bỏ mà làm cái phu cụ mới, tự mình làm hay nhờ người khác làm, khi
làm xong phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Khi sử dụng phạm tội Việt-tì-ni.
- Vì muốn tốt:
Chẳng hạn hiềm vì "lớn quá, nhỏ quá, nhẹ quá, nặng quá, khi mặc vào lạnh
quá, nóng quá, mà ta có đàn việt, có người làm giúp, ta có lông dê, vậy ta hãy làm
cái phu cụ mới". Nếu vì muốn tốt, suy nghĩ như thế thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đềà.
- Ngoại trừ Tăng
Yết-ma cho phép: Nếu Thế Tôn cho đặc miễn thì không có tội. Nhưng
Yết-ma hoặc thành hoặc không thành.
- Yết-ma không
thành tựu: Thân thể không gầy yếu (309a) nhan sắc không tiều tuỵ, gân
cốt không suy giảm, ăn thực phẩm thô sơ vẫn no; hoặc tác bạch không thành tựu,
Yết-ma không thành tựu, tăng không thành tựu, có những sự việc không thành tựu
như vậy đó gọi là Yết-ma không thành tựu. Trái lại, nếu Tỉ-kheo ấy bệnh hoạn,
thân thể nhan sắc tiều tụy, gân cốt suy giảm, ăn thức ăn nhuyễn cũng không thấy
no, đừng nói là thức ăn thô; nhưng khi tác bạch không thành tựu, Yết-ma không
thành tựu, tăng không thành tựu, có các việc sai trái như thế, thì cũng gọi là
Yết-ma không thành tựu .
- Yết-ma thành
tựu: Nếu Tỉ-kheo ấy ốm yếu, nhan sắc tiều tụy, gân cốt suy giảm, ăn
thức ăn nhuyễn cũng không no được, tác bạch thành tựu, Yết-ma thành tựu, tăng
thành tựu, các việc như thế đều không sai sót, đó gọi là Yết-ma thành tựu.
Vị Tỉ-kheo già bệnh
này, khi được Tăng Yết-ma cho phép rồi, phải ghi nhớ số ngày tháng năm đã sử
dụng cái phu cụ bằng len cũ, đến lúc lành bệnh phải sử dụng lại cái phu cụ cũ
ấy, tính với số thời gian trước kia đủ 6 năm. Nếu Tỉ-kheo này sau khi lành bệnh
không dùng lại phu cụ cũ đủ 6 năm, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đềà.
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề như
trên đã nói. Sau khi vị ấy đem xả giữa chúng Tăng, Tăng không nên trả lại vị
ấy, mà được sử dụng, nhưng không được khoác mặc vào thân, thế nên nói (như
trên).
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 13)
Khi Phật an trú tại
Tinh xá có lầu gác trong rừng ở Tì Xá Li, nói rộng như trên.Vì 5 việc lợi ích
nên Thế Tôn cứ 5 hôm đi thị sát phòng xá của các Tỉ-kheo, thấy phu cụ bằng len
cũ bỏ vung vãi khắp nơi như tại đống rác, trong xó nhà, dưới mái hiên, hoặc bị
chim quạ tha đi lót ổ, hoặc chuột tha vào hang. Phật biết mà vẫn hỏi các
Tỉ-kheo: "Những phu cụ bằng len cũ này của ai mà bỏ vung vãi khắp nơi thế
này?"
Các Tỉ-kheo bạch với
Phật: "Bạch Thế Tôn! Có một số Tỉ-kheo hoặc bãi đạo, hoặc qua đời, hoặc
còn đang sống, chính họ vứt bỏ các phu cụ bằng len cũ vung vãi như thế".
Phật bèn nói với các
Tỉ-kheo: "Nếu như người bố thí không cân nhắc, thì người thọ thí cũng phải
cân nhắc, nghĩa là Tỉ-kheo thọ thí phải sử dụng, không được vứt bỏ. Từ nay trở đi
nếu Tỉ-kheo làm phu cụ Ni-sư-đàn bằng len mới thì phải dùng một miếng phu cụ
bằng len cũ vuông vức một gang tay Tu-già-đà may chồng lên cái mới để cho hỏng
màu sắc đi mới được".
Thế rồi, Phật tryền
lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại Tì Xá Li phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích
mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo
làm phu cụ Ni-sư-đàn bằng len mới thì phải dùng một miếng phu cụ bằng len cũ
vuông vức một gang tay Tu-già-đà may chồng lên cái mới để cho hỏng màu sắc đi.
Nếu Tỉ-kheo làm phu cụ Ni-sư-đàn bằng len mới mà không dùng một miếng phu cụ
băng len cũ vuông vức một gang tay Tu-già-đà may chồng lên cái mới, thì phạm
Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích:
[309b] (Một số từ ngữ
đã giải thích ở trên)
- Phu cụ cũ:
Phu cụ đã dùng được 6 năm.
- Tu-già-đà:
Chỉ cho đức Đẳng Chánh Giác.
- Một gang tay:
Dài 2 thước, 4 tấc (?). Khi dùng cái phu cụ cũ không được dùng phu cụ của những
người kém hiểu biết, người phạm giới, người không nghe pháp, người ở trong phòng
mà khi phòng hư không sửa chữa, người bị mang tiếng xấu, người có kiến giải
đoạn diệt, người xa lìa Hòa thượng, A-xà-lê, không thích thưa hỏi, người không
thể phá ác ma, người không phân biệt được việc của ma. Trái lại, nên dùng phu
cụ cũ của những người nghe nhiều .... và phân biệt được việc của ma.
Khi dùng một miếng phu
cụ cũ vuông vức bằng một gang tay của đức Chánh Đẳng Giác thì không được dùng
miếng mất góc, miếng có hình hạt lúa, miếng như cái chày, miếng có hình chiếc
xe, có hình thòng xuống, có hình méo mó, có hình lồi, hình lõm.
- Mất góc:
Không có góc.
- Hình hạt lúa:
Ở giữa rộng, 2 đầu hẹp.
- Hình cái chày:
Hai đầu rộng, chính giữa hẹp.
- Hình chiếc xe:
Một đầu rộng, một đầu hẹp.
- Hình thòng
xuống: Hình xiên xẹo.
- Hình méo mó:
Không cân xứng.
- Hình lồi:
Nổi gồ lên.
- Hình lõm:
Bốn góc lồi ra, ở các khoảng giữa lõm xuống.
Khi may chồng thêm,
không được may những miếng có hình thù kể trên, mà phải may những miếng vuông
vức đầy đặn. Khi bị rách thì phải vá lại, hoặc bị bẩn thì phải giặt, rồi dùng
các loại len bằng lông khác mà vá lại. Thầy Tỉ-kheo nào may Ni-sư-đàn mới mà
không may một miếng cũ chồng lên trên, thì cái Ni-sư-đàn ấy phải đem xả bỏ giữa
chúng Tăng, và Tăng không được trả lại chủ cũ mà chỉ để Tăng dùng, nhưng không
được khoác lên mình. Thế nên nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì thứ 14)
Khi Phật an trú tại Tì
Xá Li nơi Tinh xá có lầu gác trong rừng, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả
Ưu-đà-di gánh một gánh lông dê nặng nề, thân còng xuống, từ trong thành đi ra,
khiến cho người đời chỉ trích: "Hãy xem Sa môn Ưu-Đà-Di kìa! Giống như con
Lạc đà, giống như con lừa, giống như phu khuân vác, gánh lông dê như thế mất
hết phép tắc Sa môn, nào còn có đạo hạnh gì nữa!"
Các Tỉ-kheo nghe thế,
bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi Ưu-đà-di đến. Khi
Thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Có thật ông gánh lông dê nặng nề, khiến cho
người đời chê trách phải không?"
Thầy đáp:"Có thật
như vậy, bạch Thế Tôn".
Phật nói: "Đó là
việc xấu, từ nay về sau, ta không cho phép các Tỉ-kheo gánh vác nữa".
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có 60 Tỉ-kheo từ phương Bắc
định đến Xá Vệ để thăm viếng Phật, thăm viếng Xá Lợi Phất, Mục Liên các trưởng
lão Tỉ-kheo và thăm viếng Cư sĩ Tu-đạt, Tì-xá-khư lộc mẫu, tại Tinh xá Kỳ Hoàn
nơi lầu gác trong rừng Khai Nhãn. Nhân có một Tỉ-kheo từ Xá Vệ đến chỗ họ, họ bèn
hỏi: "[309c] Chúng tôi muốn đến đó (Xá Vệ) cúng dường các bậc phạm hạnh
một ít phẩm vật, không hiểu nên mang theo những vật gì cho hợp với nhu cầu của
các vị ấy?"
Vị này đáp: "Thưa
trưởng lão, tất cả các Tỉ-kheo ở đó đều mặc y bằng len, chỉ trừ đãy lọc nước và
quai buộc xách. Vậy có thể mang theo lông dê đến đó".
Thế rồi, 60 Tỉ-kheo ấy,
mỗi người đều gánh những gánh lông dê nặng mà đi, từ thôn xóm này đến thôn xóm
khác, từ thành phố này đến thành phố khác. Thấy thế, dân chúng châm biếm:
"Các người hãy xem kìa! Những Sa môn thích tử này gánh nặng mà đi giống
như đàn lạc đà, đàn lừa, như phu khuân vác, như khách buôn ...."Lại có
người nói: "Các vị không biết sao, ở đây mua rẻ nên họ định đem đến đó bán
đắt đấy. Thật là mất hết phép tắc Sa môn, nào có đạo hạnh gì nữa!"
Các Tỉ-kheo đi lần lần
đến thành Xá Vệ, khi đến nơi, bèn đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi đứng qua một bên.
Phật biết mà vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Các Thầy từ đâu đến vậy?".
Họ đáp: "Bạch Thế
Tôn! Từ phương Bắc đến".
Phật hỏi các Tỉ-kheo:
"Đi đường có vất vả, khất thực có khó khăn không?"
Họ đáp: "Bạch Thế
Tôn! Đi đường không vất vã, khất thực không khó khăn, chỉ có điều dọc đường bị
người đời chê trách".
Phật liền hỏi các
Tỉ-kheo: "Người ta chê trách về việc gì?"
Họ đáp: "Bạch Thế
Tôn! 60 người chúng con đều gánh lông dê (nói rộng như trên)".
Phật liền nói với các
Tỉ-kheo: "Các ông đáng bị người đời chê trách. Từ nay về sau, ta không cho
phép Tỉ-kheo gánh lông dê đi".
Thế rồi, Phật truyền
lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10
lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu Tỉ-kheo
đi đường được lông dê mà muốn lấy thì có thể tự tay cầm đi trong 3 do tuần. Nếu
gánh đi quá 3 do tuần thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề".
Giải thích
- Đường đi:
Hoặc 3 do tuần, 2 do tuần, 1 do tuần, nửa do tuần, hoặc một Câu-lô-xá.
- Được: Được
từ những người đàn ông, đàn bà, người lớn trẻ con, người tại gia hoặc người
xuất gia.
- Muốn lấy:
Thực sự cần đến.
- Tự mang đi 3 do
tuần: Cứ 2000 bộ được gọi là một Câu-lô-sá, 4000 bộ là nửa do tuần,
8000 bộ là một do tuần, 16000 bộ là 2 do tuần, 24000 bộ là 3 do tuần. Tỉ-kheo
có thể tự mang lông dê đi trong vòng 3 do tuần, nếu quá 3 do tuần thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề. (về cách xử lý như đã nói ở trước).
[310a] Nếu Tỉ-kheo mang
lông dê đi trên đường một do tuần, bỗng quên mất một vật gì bèn trở lại lấy,
lấy xong trở lại chỗ khi nãy tức là vừa đúng 3 do tuần, không được đi thêm nữa,
nếu đi thêm nữa thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Nếu như đi được một do tuần rưởi,
rồi quên một vật gì phải trở lại chỗ khởi hành để lấy, thì khi lấy xong không
được đi tiếp nữa (vì đã đủ 3 do tuần). Nếu đi tiếp thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề.
Nếu đi thẳng đúng 3 do tuần mà còn đi thêm một bước nữa thì phạm tội
Việt-tì-ni; đi quá 2 bước nữa thì phạm tội Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Nếu 2 người gánh
một gánh, thì người đầu gánh đi 3 do tuần rồi sang vai người kia gánh đi 3 do
tuần. Nếu 3 người gánh một gánh thì được thay đổi nhau đi 9 do tuần. Nếu 4
người gánh một gánh thì được đi 12 do tuần. Nếu nhiều người đi thì tùy theo số
lượng đó mà tính, nhưng có điều là không được gánh nặng.
Trong khi gánh đi hoặc
trao đổi, hoặc được cái mới thì cũng chỉ được gánh đi trong vòng 3 do tuần mà
thôi. Nếu Tỉ-kheo đem lông dê bỏ vào trong túi xách y, mang đi từ nhà này đến nhà
khác, thì cũng chỉ được trong vòng 3 do tuần, không được đi thêm. Hoặc đem lông
dê bỏ vào trong túi đựng bát, rồi đi khất thực từ làng này đến làng khác, thì
cũng như thế. Hoặc đem lông dê bỏ vào trong túi đựng kinh rồi đi, cũng như vậy.
Nếu lông dê chưa được dệt thành thì dù bỏ trong ống đồng mang đi quá 3 do tuần
cũng phạm tội. Trái lại, nếu đã dệt thành len, hoặc làm gối, làm đệm .v.v...
thì không phạm. Nếu gánh lông lạc đà, lông bò thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu
gánh lông đuôi trâu đen đi thì phạm tội Việt-tì-ni, Nếu gắn vào cái cán (làm
thành chổi lau bụi) thì không có tội. Nếu gánh lông sư tử, lông heo thì phạm tội
Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Nếu đã làm thành dụng cụ thì không có tội. Thế nên
nói (như trên).
(Hết giới Ni-tát-kì 15)
Khi Phật an trú tại Tì
Xá Li trong Tinh xá có lầu gác trong rừng, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả
Ưu-đà-di đem lông dê đưa cho Tỉ-kheo-ni Thiện Sinh, vốn là vợ cũ của Tôn giả, và
bảo: "Lành thay này em, em hãy giặt nhuộm chải giúp cho ta cái này".
Tỉ-kheo-ni Thiện Sinh bèn đem về trú xứ, giặt nhuộm chải xong, bỏ vào trong
hộp, lấy lông ngực, ức, của nai phủ lên trên, rồi sai sứ giả mang đến cho
Ưu-đà-di. Ưu-đà-di nhận xong, mở hộp ra, thấy có lông nai hoan hỉ, liền đem
khoe với các Tỉ-kheo: "Hãy xem này các trưởng lão, tôi đưa ít lông cho
Tỉ-kheo-ni không phải thân quyến mà lại nhận được nhiều lông".
Các Tỉ-kheo thấy thế,
liền nói: "Đó là vật nên che giấu vì sao lại đưa cho người ta xem?"
Thầy liền đáp:
"Vật này có gì phải che giấu, Tôi đưa (cô ấy) lông ít mà lại nhận được
nhiều lông".
Bấy giờ nhóm 6 Tỉ-kheo
từ xa nghe được bèn vỗ tay cười lớn: "Quái thay! Quái thay".
Các Tỉ-kheo nghe thế,
bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu-đà-di đến. Khi thầy tới rồi,
Phật bèn hỏi: "(310b) Ông có việc đó thật chăng?".
Thầy đáp: "Có
thật, bạch Thế Tôn!"
Phật liền khiển trách:
"Đó là việc xấu .v.v..."
Rồi Phật hỏi các
Tỉ-kheo: "Giả sử có vật cần phải che giấu thì Tỉ-kheo-ni thân quyến có nên
đưa cho Tỉ-kheo thân quyến xem hay không?"
Họ đáp: "Không
nên, bạch Thế Tôn".
Phật lại hỏi: "Giả
sử Tỉ-kheo thân quyến nhận được một vật cần phải che giấu của Tỉ-kheo-ni thân
quyến, thì có nên đưa cho người khác xem hay không?"
Họ đáp: "Không
nên, bạch Thế Tôn".
Thế rồi Phật nói với
các Tỉ-kheo: "Từ nay trở đi (các Tỉ-kheo) không được nhờ Tỉ-kheo-ni không
phải thân quyến giặt nhuộm chải lông dê".
Lại nữa, khi Phật trú
tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả Ưu-đà-di cầm lông dê đưa
cho Tỉ-kheo-ni Đại Ái Đạo, nói rằng: "Lành thay này chị, hãy giặt nhuộm,
chải giúp cho tôi cái này".
Thế rồi, Tỉ-kheo-ni Đại
Ái Đạo liền đem giặt nhuộm chải xong, gởi trả lại cho Ưu-đà-di . Rồi bà đi đến
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên. Phật biết
nhưng vẫn hỏi: "Vì sao trên tay bà có màu thuốc nhuộm?"
Bà đáp: "Tôi giặt
nhuộm chải giúp lông dê cho tôn giả Ưu-đà-di".
Phật liền nói với các
Tỉ-kheo: "Tại sao Ưu-đà-di lại nhờ Tỉ-kheo-ni không phải thân quyến giặt
nhuộm chải giúp lông dê?"
Thế rồi, Phật bèn gọi
Ưu-đà-di đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông có nhờ Tỉ-kheo-ni Đại
Ái Đạo giặt nhuộm chải lông dê thật chăng?"
Thầy đáp: "Có
thật, bạch Thế Tôn".
Phật liền khiển trách
Ưu-đà-di: "Vì sao ông lại sai một Tỉ-kheo-ni đang hành đạo làm? Từ nay về
sau, ta không cho phép (các Tỉ-kheo) nhờ Tỉ-kheo-ni không phải thân quyến giặt
nhuộm chải lông dê".
Rồi Phật truyền lệnh
cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 điều lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- "Nếu Tỉ-kheo
nhờ Tỉ-kheo-ni không phải thân quyến giặt nhuộm chải lông dê thì phạm Ni-tát-kì
Ba-dạ-đề".
Giải thích
(Một số từ ngữ đã được
giải thích ở trên)
Trong đây tăng thêm
việc chải (lông dê), và trừ việc mặc y vấy bùn, y cáu bẩn đến chùa Ni, ngoài
ra, như trong giới thứ 5 ở trên đã nói rõ.
Hết quyển 9