- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số
1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Ba Mươi Ba
NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ MƯỜI MỘT
BẢY TRĂM VỊ ĐẠI HỘI KẾT TẬP. PHÁP TẠNG.
Sau khi Phật Niết-bàn
(khoảng 100 năm), các trưởng lão Tỉ-kheo ở Tăng-già-lam Sa-đôi, tại Tỳ-xá-li,
theo xin các đàn việt, (493b) nói những lời bi ai như sau:
"Này Lão trượng,
khi đức Thế Tôn còn tại thế, chúng tôi được cúng dường bữa ăn trước, bữa ăn sau
và các y phục, nay Thế Tôn đã Niết-bàn, chúng tôi trở thành cô độc, đâu có ai
cho thứ gì. Các vị nên bố thí tài vật cho Tăng".
Lúc ấy, có người cho
một đồng, hai đồng, cho đến mười đồng. Thế rồi, họ đựng số tiền ấy vào trong
cái thau, đến ngày Bố tát, họ dùng cái chén nhỏ đong số tiền ấy phân chia cho
từng người theo thứ tự. Lúc ấy, vị Tỉ-kheo trì luật là Da-xá được chia đầu
tiên, liền hỏi:
- Đây là những thứ gì
vậy?
- Đó là số tiền để mua
thuốc men được phân chia theo thứ tự vậy.
- Đi qua đi.
- Vì sao bảo đi qua?
Trưởng lão định cúng dường cho Tăng sao?
- Đó là những vật bất
tịnh.
- Thầy đã hủy báng
Tăng, nói là vật bất tịnh, thế thì phải làm Yết-ma cử tội.
Đoạn, chư Tăng làm
Yết-ma cử tội Da-xá. Thế rồi, Da-xá bèn đi đến chỗ tôn giả Đà-ta-bà-la đang ở
nước Ma-thâu-la, nói với tôn giả như sau:
- Thưa trưởng lão, tôi
bị Tăng cử tội bắt thi hành pháp tùy thuận.
- Thầy vì cớ gì mà bị
cử tội?
- Thưa trưởng lão, sự
việc xảy ra như vậy, như vậy.
- Thầy không có tội gì
mà bị cử tội. Vậy, tôi sẽ san sẻ pháp thực, vị thực cùng với thầy.
Da-xá nghe dạy như thế,
liền thưa với chúng tăng:
- Thưa các trưởng lão,
chúng ta phải kết tập lại Tạng luật, đừng để Phật pháp bị suy đồi.
- Thầy định kết tập tại
đâu?
- Hãy trở lại nơi đã
xảy ra sự việc mà kết tập.
Bấy giờ, chư Tăng tại
nước Ma-thâu-la kết hợp với chư Tăng thành Xá-Vệ gồm có bảy trăm người, tập
trung về một nơi. Trong số đó, có người trì một bộ Luật, có người trì hai bộ
Luật, lại có người trực tiếp thọ lãnh từ Thế Tôn, có người thọ lãnh từ hàng
Thanh văn. Thế là, khi ấy tại Tăng-già-lam Sa-đôi, thành Tì-xá-li, các giường nệm
đều được chuẩn bị tươm tất để bảy trăm vị Tăng mở đại hội. Trong số này, có
người là phàm phu, có người đang học, có người vô học, có vị chứng tam minh, lục
thông được tự tại vô ngại. Lúc này, các vị Đại Ca-diếp-đạt-đầu-lộ,
Ưu-ba-đạt-đầu-lộ, tôn giả A-nan đều đã nhập Niết-bàn cả.
Bấy giờ, vị Thượng tọa
của chúng Tăng là tôn giả Du-thâu-đà cất tiếng hỏi: "Ai nên kết tập Luật
tạng?". Các Tỉ-kheo đáp: "Tôn giả Đà-ta-bà-la nên kết tập".
Đà-ta-bà-la thưa:
"Thưa các trưởng lão, còn có các trưởng lão Tỉ-kheo khác, nên mời các vị
ấy kết tập".
Các Tỉ-kheo nói:
"Tuy có các Thượng tọa khác, nhưng đức Thế Tôn đã tuyên bố rằng Hòa thượng
bổn sư của trưởng lão đã thành tựu 14 pháp, trì luật đệ nhất, mà trưởng lão từng
thọ giáo trực tiếp, vậy nên kết tập".
Đà-ta-bà-la nói:
"Nếu bảo tôi kết tập, thì những gì như pháp xin tùy hỷ, những gì không như
pháp xin ngăn lại, những gì không tương ưng cũng xin ngăn lại, đừng vì tôn
trọng tôi mà để yên. Nói chung, (493c) những gì đúng nghĩa, không đúng nghĩa đều
xin chỉ bảo cho biết".
Mọi người đều đáp:
"Vâng".
Bấy giờ, tôn giả
Đà-ta-bà-la suy nghĩ: "Nay ta kết tập Luật Tạng như thế nào đây? Có năm
pháp thanh tịnh, những gì như Pháp, như Luật thì Tăng sẽ tùy hỷ, những gì không
như Pháp, như Luật thì Tăng sẽ ngăn cản. Năm pháp đó là gì? Đó là: Một là chế
hạn tịnh, cho đến phong tục tịnh". Thế rồi, thầy nói với chúng Tăng:
- Thưa các trưởng lão,
đây là thứ tự của 9 pháp: Từ 4 Ba-la-di cho đến pháp, tùy thuộc pháp, tôi đã
được nghe từ Hòa thượng rằng đức Thế Tôn tại mỗ xứ, mỗ xứ, vì Tỉ-kheo mỗ giáp,
mỗ giáp mà chế giới này, thưa có phải vậy không?
- Đúng như vậy, như vậy.
- Thưa các trưởng lão,
về năm việc thuộc giới luật như trên đã đề cập, trong đó nói rằng ai cần bát
thì tìm bát, cần y thì tìm y, cần thuốc thì tìm thuốc, còn ai không có phương
tiện thì được xin vàng bạc và tiền mặt. Như vậy đó, mong các trưởng lão hãy tùy
thuận học tập.
Đó gọi là trình bày tóm
lược về việc bảy trăm người kết tập Luật tạng.
Khi Phật an trú tại
tinh xá của dòng họ Thích bên cây Ni-câu-luật thuộc thành Ca-duy-la-vệ; lúc ấy
có hai Tỉ-kheo ni, người thứ nhất tên Nan-đà, người thứ hai tên Uất-đa-la, theo
Phật xin sáu tháng giáo giới như sau: "Lành thay Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy
nói sơ lược về Giới luật để chúng con được rõ".
Phật nói với các
Tỉ-kheo ni: "Này các Tỉ-kheo ni, tham dục, không hiểu nhân duyên, cùng
nhau tập theo thói quen, luận bàn về việc thế tục, làm tăng trưởng thọ ấm, đa
dục, không biết dừng lại, làm tăng trưởng tham dục, sân hận, ngu si, tranh tụng
không hòa hợp, chẳng tịch tịnh, chẳng tỉnh giác, chẳng có Niết-bàn. Các ngươi
phải biết rằng đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy. Trái lại, các
ngươi phải biết rằng không ham muốn, hiểu rõ nhân duyên, không tập theo thói
quen, không bàn luận việc thế tục, không làm tăng trưởng thọ ấm, ít muốn, biết
đủ, không tham dục, sân hận và ngu si, lìa xa việc tranh tụng, sống hòa hợp, tịch
tịnh, tỉnh giác, sẽ đạt Niết-bàn. Các ngươi phải biết rằng, đó là pháp, là
Luật, là điều ta dạy. Và đây chính là nói tóm tắt về Giới Luật.
Kệ tóm tắt:
"Dùng dao trị,
bình tưới,
Cạo tóc và dao cạo.
Hòa hợp, không hòa hợp,
Năm trăm và bảy trăm.
Nói tóm tắt Giới Luật,
Kết thúc phần thứ mười".
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, nhóm 6 Tỉ-kheo hủy báng các Tỉ-kheo khác về thành phần
chủng loại. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ
đến rồi, Phật liền hỏi:
- Này các Tỉ-kheo, các
ông có việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc ác. Từ nay
về sau, Ta không cho phép hủy báng người khác.
(494a) Hủy báng: bao
gồm các phương diện: nghiệp, địa vị, dòng họ, tướng mạo, bệnh, tội lỗi, mắng
mỏ, kiết sử.
Nghiệp: gồm có: nói, tự
biện hộ, có người.
Nói: chẳng hạn nói:
"Này trưởng lão, trong đây có kẻ Chiên-đà-la, thợ đan giỏ, thợ làm da, thợ
gốm, cho đến cai ngục, kẻ hàng thịt.v.v..." Đó gọi là nói.
Tự biện hộ: chẳng hạn
nói: "Thưa trưởng lão, tôi không phải là Chiên-đà-la, cho đến không phải
là cai ngục, là kẻ hàng thịt v.v..." Đó gọi là tự biện hộ.
Có người: như trong đây
có người là Chiên-đà-la, cho đến kẻ cai ngục.v.v... Đó gọi là có người.
Các vấn đề khác như địa
vị, dòng họ, tướng mạo, bệnh, tội lỗi, kiết sử cũng như thế. Nếu ai đem các vấn
đề trên ra hủy báng người khác thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là hủy báng.
Khi Phật an trú tại
vườn trúc Ca-lan-đà, lúc ấy, nhóm 6 Tỉ-kheo đi đến tụ điểm ca nhạc sớm nhất để
xem, như là Tỉ-kheo đến chỗ ngồi thiền. Các nhạc công tụ họp xong bèn hòa nhạc.
Trong lúc mọi người đều vui vẻ, cười nói, thì các Tỉ-kheo ngồi im lặng. Đến khi
họ dứt cười, các Tỉ-kheo bèn vỗ tay cười ầm lên. Mọi người liền tranh nhau nhìn
xem. Do thế, các nhạc công không thu được tiền, liền nổi xùng, nói: "Các
Tỉ-kheo này cà chớn, làm cho chúng ta không thu được tiền bạc gì cả. Đây là
hạng người bại hoại, có đạo nào mà như thế!".
Các Tỉ-kheo nghe như
vậy, liền đem việc đó đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo
đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Đó là việc xấu. Từ
nay về sau Ta không cho phép các Tỉ-kheo đi xem nhạc công hòa nhạc.
Nhạc công: chẳng hạn
những người đánh trống, ca múa, đánh đàn Tì-bà, đánh xập xõa, đại khái chơi các
loại nhạc cụ như thế, thậm chí dù chỉ bốn người họp lại vui chơi, Ta cũng không
cho phép đến xem.
Nếu Tỉ-kheo vào xóm
làng, thành phố mà gặp Thiên tượng xuất hiện, hay vua xuất hiện, có các nhạc
công trổi các thứ nhạc, mình đi qua đường nhìn thấy thì không có tội. Nhưng nếu
tạo phương tiện để xem thì phạm tội Việt tì-ni.
Nếu vào các ngày đại
hội sinh nhật của Phật, ngày kỷ niệm Phật thành đạo, kỷ niệm ngày chuyển pháp
luân, năm năm đại hội một lần, có sử dụng các nhạc phẩm để cúng dường đức Phật,
rồi đàn việt nói: "Xin các tôn giả hãy hòa mình với chúng con để cúng
dường đức Thế Tôn", thì khi ấy được hòa mình chung vui với họ. Nhưng nếu
tại nơi đại hội có trổi các nhạc phẩm mà mình sinh tâm nhiễm trước, thì nên đứng
dậy bỏ đi. Đó gọi là kỹ nhạc.
Khi Phật an trú tại
thành Vương-xá, lúc ấy nhằm ngày lễ hội, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà thuộc nhóm 6
Tỉ-kheo dùng hương thơm thoa vào mình, mang các vòng hoa Ưu-bát-la, hoa
Chiêm-bặc, có người còn mang cả vòng hoa cỏ mà đi, nên bị người đời chê cười
rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà mang những vòng hoa Ưu-bát-la, hoa
Chiêm-bặc, giống như vương tử, đại thần? Thậm chí có người còn mang cả vòng hoa
cỏ giống như kẻ tôi đòi hạ tiện. Đây là hạng người bại hoại, nào có (494b) đạo
hạnh gì!"
Các Tỉ-kheo nghe thế,
liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo đi gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến.
Khi họ tới rồi, Phật liền hỏi:
- Này các Tỉ-kheo, các
ông có việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta không
cho phép thoa hương, mang vòng hoa.
Hương: Như loại hương
chiên đàn trầm thủy, và các loại hương tương tự như thế đều không được dùng.
Nhưng nếu mắc bệnh nhiệt, mà thầy thuốc bảo: "Cần phải dùng hương chiên đàn
để thoa" thì khi ấy được dùng để thoa. Nhưng trước khi thoa, phải cúng
dường tháp Phật rồi mới đem thoa vào mình. Khi thoa vào mình không được ở trong
chúng mà phải ở tại chỗ vắng vẻ. Đến khi lành bệnh, phải tắm rửa thân thể sạch
sẽ rồi mới vào trong chúng.
Hoa: Như hoa Ưu-bát-la,
hoa Chiêm-bặc, hoa Tu-ma-đầu, tất cả các loại hoa như thế không nên mang.
Nếu Tỉ-kheo bị bệnh đau
mắt, đau đầu, rồi thầy thuốc bảo phải mang vòng hoa trên đầu bệnh mới lành, thì
được phép mang. Nhưng khi muốn mang thì nên đem cúng tháp Phật trước rồi mới
mang. Khi đã mang thì không được tới chỗ đông người mà phải ở chỗ thanh vắng,
và khi bệnh lành thì phải bỏ.
Nếu thoa hương mà không
mang hoa thì phạm một tội Việt tì-ni.
Nếu mang hoa mà không
thoa hương thì phạm một tội Việt-tì-ni.
Nếu dùng cả hai thì
phạm hai tội,
Nếu cả hai đều không
dùng thì không có tội.
Đó gọi là thoa hương,
mang hoa.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, ở tinh xá Kỳ-hoàn, có đàn việt đến cúng dường trai phạn cho chúng
tăng. Khi đánh kiền chùy thì Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đang soi gương, hồi lâu không
đến, nên bị đàn việt chê trách rằng: "Ta bỏ cả việc nhà, đến đây cúng
dường trai phạn cho Tăng, mà đến giờ ăn, các Tỉ-kheo không chịu tập họp".
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi
họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép soi gương. Gương chỉ cho các loại như dầu, nước, kính; không
được vì thích đẹp mà đến soi mặt vào các thứ đó.
Nếu vừa bớt bệnh, đến
gương soi mặt xem bệnh đã bớt hay chưa, hoặc vừa mới cạo đầu đến soi xem có
sạch hay không sạch, hoặc đầu mặt bị ghẻ góc, đến soi xem, thì không có tội.
Nếu vì thích đẹp mà soi
gương thì phạm tội Việt-tì-ni.
Đó gọi là soi gương.
Khi Phật an trú tại
tinh xá Khoáng-dã, bấy giờ thầy Tỉ-kheo doanh sự gánh vác gạch ngói, đất cát,
bị người đời đàm tiếu rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ nô
bộc, người làm công, gánh vác đất cát? Đây là hạng người bại hoại, có đạo nào
như thế!"
Các Tỉ-kheo đem sự việc
ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo doanh sự đến. Khi thầy tới rồi,
Phật liền hỏi:
- Này Tỉ-kheo, ông có
việc đó thật không?
- Có thật (494c) như
vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép gánh vác.
Gánh vác: Như gánh vác
các thứ giỏ dây, lồng.
Nếu vác đòn gánh mà
không có giỏ thì phạm tội Việt-tì-ni tâm hối.
Nếu vác giỏ, không có
đòn gánh thì phạm tội Việt-tì-ni tâm hối.
Nếu gánh vác cả hai thì
phạm tội Việt-tì-ni.
Nếu tại Tinh xá, Thiền
viện có đá, tre, gỗ nặng thì được gánh vác.
Nếu được tăng phân công
làm công việc phải dùng bình, lu lấy nước, thì được dùng dây buộc lại rồi gánh.
Nếu gánh túi xách y ở
đàng trước, đàng sau, hay gánh túi đựng bát ở đàng trước đàng sau, đều phạm tội
Việt tì-ni.
Nếu túi y dài lòng
thòng nên phải cuộn lên vai rồi đặt bát lên trên thì không có tội,
Đó gọi là gánh vác.
Khi Phật an trú tại
tinh xá Khoáng-dã, lúc ấy thầy Tỉ-kheo doanh sự xăn y áo để chuyên chở gạch đá,
đất cát, bị người đời đàm tiếu rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ
nô bộc người ta, xăn áo để làm việc? Đây là hạng người bại hoại, có đạo nào như
thế?".
Các Tỉ-kheo nghe thế,
bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo doanh sự
đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:
- Này Tỉ-kheo, ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép xăn y áo.
Xăn: Nghĩa là xăn một
bên, hai bên, đều không được phép. Nếu nhồi đất để đổ trên mái nhà hoặc tô
tường thì được xăn nội y.
Đó gọi là xăn quần áo.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ, đức Thế Tôn đến xứ Uất-đơn-việt khất thực. Lúc ấy, các
Tỉ-kheo suy nghĩ: "Khi Thế Tôn trở về chắc chắn sẽ dùng thần túc mà
đi". Thế nên, có người leo lên cây, người leo lên tường để trông ngóng Thế
Tôn. Thế Tôn biết tâm niệm các Tỉ-kheo như vậy nên ẩn thân, trở về ngồi an ổn
trong phòng. Rồi Phật hỏi: "Các Tỉ-kheo đi đâu cả?". Một Tỉ-kheo bèn
đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật dạy: "Từ nay về sau, Ta
không cho phép leo cây".
Cây: Nếu cây cao ngang
đầu người thì không được leo.
Nếu làm lễ kỷ niệm cây
Bồ đề mà một chân trèo lên cây, một chân trèo lên tường, thì phạm tội Việt
tì-ni tâm hối.
Nếu cả hai chân đều leo
lên cây thì phạm tội Việt tì-ni.
Nếu cả hai chân đều leo
lên tường thì không có tội.
Trường hợp leo lên
thang cũng như thế.
Nếu đang đi bị lạc
đường không rõ phương hướng, phải leo lên cây nhìn phương hướng thì không có
tội.
Nếu bị cọp, sói, sư tử
v.v..., các loại tương tự như thế uy hiếp, thì được trèo lên cây, không có tội.
Đó gọi là leo cây.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, đến giờ khất thực, Thế Tôn khoác y, cầm bát vào thành tuần
tự khất thực. Sau khi khất thực trở về, Thế Tôn thu dọn giường nệm, không nói
với thị giả và Tỉ-kheo tăng, Ngài đi đến nước Câu-tát-la, vào rừng
Ba-lợi-da-bà-la, an trú dưới cây Hiền thiện, (495a) nhận sự cúng dường của con
voi chúa trong ba tháng. Đoạn nói về việc trời lạnh, tuyết rơi lúc phi thời, các
Tỉ-kheo nhóm lửa để sưởi, bị người đời dị nghị rằng: "Sa-môn Cù-Đàm dùng
vô lượng phương tiện khiển trách sự sát sinh, khen ngợi không sát sinh, thế mà
giờ đây, Tỉ-kheo đốt lửa làm cháy đất, hại đến gốc cây".
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Thế rồi, Phật dạy: "Từ nay về sau, Ta không cho phép nhóm lửa". Lửa gồm có các thứ
như: lửa củi, lửa cỏ, lửa phân bò, lửa trấu, lửa dăm bào. Không được đốt
chỗ đất chưa bị cháy. Nếu đến phiên mình coi sóc nhà sưởi, hoặc đến phiên trực
nguyệt, phiên hun bát, thì nên sai tịnh nhân nhóm lửa trước, rồi mình mới chụm
lửa thì không có tội.
Khi cầm đuốc đi, muốn
dụi tắt đuốc, thì không được dụi ở chỗ đất sống mà nên dụi trên đống tro, hoặc
trên ngói gạch. Nếu tàn đuốc rơi xuống đất, rồi mình đập cho tắt, thì không có
tội.
Nếu nhóm lửa ở chỗ đất
chưa bị cháy thì phạm tội Việt tì-ni.
Đó gọi là nhóm lửa.
Khi Phật an trú tại
thành Vương-xá, bấy giờ cư sĩ Uất-Kiệt mở cuộc đại thí, bố thí 500 con voi, 500
con ngựa, 500 con bò, 500 con trâu, 500 tì nữ, 500 nô bộc, trong các thứ bố thí
có cả chén đồng. Các Tỉ-kheo tâm sinh nghi, liền đến hỏi Thế Tôn rằng đó là vật
thanh tịnh (hợp pháp), hay không thanh tịnh, nên nhận hay không nên nhận. Phật
dạy: "Tất cả chén đồng Ta đều không cho phép nhận. Nếu đàn việt cúng dường
Tăng vật thanh tịnh thì nên chú nguyện rồi mới nhận. Nếu ai cất riêng chén đồng
thì phạm tội Việt tì-ni, nhưng được đem nó cho tịnh nhân, rồi mượn sử dụng thì
không có tội".
Đó gọi là chén đồng.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, được chư thiên, người đời có lòng tin tôn trọng, đem các thực phẩm
đến cúng dường Phật, Tỉ-kheo Tăng, tôn giả Xá-lợi-phất, Đại-mục-liên và các
Tỉ-kheo khác. Lúc ấy, nhóm 6 Tỉ-kheo sáng sớm ra đứng trước cổng tinh xá, thấy
người ta mang thức ăn đến, liền hỏi:
- Thức ăn này cúng
dường cho ai vậy?
- Cúng dường cho Thế
Tôn.
- Thế Tôn nên cúng
dường. Thế còn thức ăn này cúng dường cho ai?
- Cúng dường cho chúng
Tăng.
- Chúng Tăng nên cúng
dường. Thế còn thức ăn này cúng dường cho ai?
- Cúng dường cho tôn
giả Xá-lợi-phất và Đại-mục-liên.
- Những người này nên
cúng dường. Còn thức ăn này cúng dường cho ai?
- Cúng dường cho
Tỉ-kheo mỗ giáp.
- Mỗ giáp già bệnh,
không thể ăn được, chỉ phí đồ cúng dường của ngươi thôi; nên cúng dường cho ta,
ta sẽ chú nguyện cho ngươi để ngươi được công đức cúng dường.
Khi ấy, người kia vì có
niềm tin liền cúng dường. Thế nhưng, gặp kẻ có trí không chịu cúng, mà nói:
"Vì sao ta lại cúng dường cho kẻ không biết hổ thẹn này?".
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, (495b) cho đến Phật hỏi nhóm 6 Tỉ-kheo:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Đó là việc ác. Vì sao
các ông biết phẩm vật đó thí chủ định cúng dường cho người khác mà bảo họ cúng
dường cho mình? Từ nay về sau, Ta không cho phép khi biết vật thí chủ định cúng
dường cho người khác mà bảo cúng cho mình.
Vật: Gồm có tám thứ:
thức ăn đúng giờ, cho đến các vật hợp lệ không hợp lệ, như trên đã nói rõ.
Nếu người ta hỏi:
"Thưa tôn giả, con muốn cúng dường, vậy nên cúng dường nơi nào?", thì
nên đáp: "Cúng dường cho chúng Tăng".
Nếu thí
chủ hỏi: "Nơi nào có chư Tăng trì giới?", thì nên nói: "Không có
vị Tăng nào lại phạm giới; ngươi chỉ lo việc cúng dường mà thôi".
Nếu thí chủ hỏi:
"Nơi nào có Tỉ-kheo thường ở yên một chỗ tu tập hạnh nghiệp, để vật cúng
dường còn mãi tại đó con được thấy luôn?", thì khi ấy hãy nói: "Nên
cúng dường cho Tỉ-kheo mỗ giáp".
Nếu biết vật đó thí chủ
định cúng cho Tăng mà bảo họ cúng cho mình, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
Nếu biết vật đó họ định
cúng cho Tăng, mà bảo họ cúng cho người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu biết vật đó họ định
cúng cho nhóm người này mà bảo họ cúng cho nhóm người khác, hoặc biết họ định
cúng cho một người này mà bảo họ cúng cho một người khác, thì phạm tội Việt
tì-ni.
Cuối cùng, nếu biết vật
đó họ bố thí cho súc sinh này mà bảo họ bố thí cho súc sinh khác thì phạm tội
Việt tì-ni tâm hối.
Đó gọi là chuyển hướng
vật cúng dường.
Kệ tóm tắt:
"Hủy báng, xem
tấu nhạc,
Mang vòng hoa, soi gương.
Gánh vác, xăn áo quần,
Trèo cây, tự nhóm lửa.
Chén đồng, chuyển hướng vật,
Hết phần thứ mười một".
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, bấy giờ cư sĩ Uất Kiệt mở hội đại thí 500 con voi, cho đến 500
nô tì. Các Tỉ-kheo tâm sinh nghi, đi đến hỏi Phật xem thanh tịnh hay không
thanh tịnh, nên nhận hay không nên nhận. Phật dạy: "Tất cả chúng sinh đều
không cho phép nhận. Chúng sinh như: voi, ngựa, bò, trâu, lừa, dê, chương, nai,
heo, nô tì và tất cả chúng sinh khác đều không nên nhận.
Nếu người ta nói:
"Con cúng tì nữ này cho chúng Tăng", thì không được nhận.
Nếu họ nói: "Con
cúng cho chúng Tăng người đàn bà làm vườn này", thì không được nhận.
Nếu họ nói: "Con
cúng cho chúng Tăng tên nô bộc này", thì không được phép nhận.
Nếu họ nói: "Con
cúng cho chúng Tăng người giúp việc này", thì không nên nhận.
Nếu họ nói: "Con
cung cấp cho Tăng nam tịnh nhân này", thì được phép nhận.
Nếu họ đem một tì nữ
cho một Tỉ-kheo, thì không được phép nhận. Hoặc họ cho một người nô bộc, một
người giúp việc, một người làm vườn đều không được phép nhận.
Nếu họ cho tịnh nhân để
giúp việc cho chư Tăng thì được nhận.
Nếu họ cho nô bộc cho
Ni tăng thì không được phép nhận.
Nếu họ cho người làm
vườn cũng không được phép nhận. Hoặc họ cho tì nữ cũng không được phép nhận.
Nếu họ nói: "Con
cung cấp cho Ni tăng nữ tịnh nhân này", thì được phép nhận.
Nếu họ cho riêng một
Tỉ-kheo-ni một người nô bộc, thì không được phép nhận. Hoặc họ cho người làm
vườn cũng không được phép nhận.
Nếu họ cho nữ tịnh nhân
để giúp việc cho Tăng, thì được phép nhận.
(495c) Nếu đàn việt tổ
chức lễ Đản sinh của Phật, lễ Phật thành đạo, lễ kỷ niệm Chuyển pháp luân, lễ
kỷ niệm La-hầu-la, lễ kỷ niệm A-nan hay đại hội 5 năm một lần, rồi đàn việt có
lòng tin hoan hỷ trang sức voi, ngựa đem cúng dường cho chúng Tăng, thì không
được phép nhận.
Nếu đàn việt đem chim
oanh vũ, chim công, gà, dê, chương, nai đến cúng dường, thì không được nhận.
Nếu họ nói: "Thầy
không nhận thì con sẽ giết nó", thì nên bảo: "Ông nên tự tay thả nó
đi". Khi họ thả rồi, thì nên cung cấp thức ăn, nước uống, giữ gìn, đừng để
chúng bị thương tổn. Không được cắt lông cánh rồi nhốt nó trong lồng. Nếu nó có
thể bay, đi tự nuôi sống được, thì nên thả nó đi, không nên nhốt lại.
Nếu nhận chúng sinh thì
phạm tội Việt tì-ni.
Đó gọi là chúng sinh.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ có đàn việt trồng xoài trong vườn của chư Tăng, rồi một
Tỉ-kheo chặt cây ấy để làm phòng cho một cư sĩ. Khi làm phòng xong, họ tổ chức
bố thí giường nệm, mời chư Tăng đến cúng dường. Lúc ấy, người đàn việt trồng
xoài trước kia cũng có mặt nơi đây. Ông ta thấy thế, liền hỏi Tỉ-kheo đốn cây:
- Thưa tôn giả, đây là
phòng của ai thế?
- Đây là phòng của cư
sĩ mỗ giáp.
- Thưa tôn giả, vì sao
lại lấy cây của con trồng đem làm phòng cho người khác? Phòng này phải là phòng
của con.
Do thế, lòng ông không
vui, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi đứng qua một bên, đem
sự việc trên trình bày lại đầy đủ với Thế Tôn. Phật bèn thuyết pháp dạy bảo,
khiến ông được lợi ích, hoan hỷ, bèn đảnh lễ chân Phật rồi ra đi trong niềm hân
hoan. Đoạn, Phật bảo gọi Tỉ-kheo kia đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:
- Này Tỉ-kheo, ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Vì
sao ông đốn cây có hoa trái để làm phòng? Từ nay về sau, Ta không cho phép chặt
cây có hoa trái. Cây có hoa trái như các loại: cây xoài, cây dâm bụt, cây
tì-la, cây ca-tì-đà, cây phả-na-ta, cây dừa, cây vô ưu, cây chiêm bà, cây
chỉ-tát-la, cây a-đề-mục-đa, đại loại tất cả các cây có hoa quả tương tự như
vậy đều không được chặt để làm phòng.
Nếu cây già, không có
hoa trái thì nên nói với đàn việt rằng: "Này lão trượng, cây này đã già
rồi, nên dùng làm phòng cho Tăng ở sẽ được phước đức". Nếu chủ nhân đồng ý
thì được lấy. Nếu họ không đồng ý thì không được lấy. Nếu cần dùng cây mà làm
phương hại đến đất, thì nên bảo tịnh nhân lấy xương cá trám xuống, hoặc dùng
nước tro rưới xuống.
Nếu cây đã chết thì nên
nói với đàn việt: "Cây này đã khô rồi, tôi cần dùng đến nó". Nếu họ
đồng ý thì được phép lấy dùng.
Nếu Tỉ-kheo chặt cây có
hoa trái thì phạm tội Việt tì-ni.
Đó gọi là cây.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có một tinh xá ở ven thôn, (469a) rồi một Tỉ-kheo khách đến
đó chặt củi. Cựu Tỉ-kheo thấy thế, nói: "Vì sao thầy chặt phá cây cối mà
chúng tôi đã trồng một cách khó nhọc? Thầy là khách, khi đến đây chỉ nên tìm
chỗ bóng râm mát mẻ mà ngồi; thầy đã không biết thương tiếc giữ gìn mà còn chặt
phá bừa bãi, không biết nỗi khổ của tôi, ngày mai hãy đi đi". Nói thế rồi,
thầy đi khất thực. Sau khi thầy đi rồi, Tỉ-kheo khách bèn chặt cả củi khô, củi
tươi chất một đống trước phòng rồi đốt. Cựu Tỉ-kheo sau khi khất thực trở về, thấy
thế liền nói: "Vì sao thầy chặt cả củi khô, củi tươi chất đống rồi
đốt?". Khách Tỉ-kheo nói: "Vì sao thầy tự lấy củi đốt được mà lại
ngăn cản tôi?". Hai Tỉ-kheo tranh cãi nhau như thế. Đoạn, họ dẫn nhau đến
chỗ Phật, cúi đầu, đảnh lễ chân Phật, rồi trình bày đầy đủ sự việc trên. Phật
liền nói với hai Tỉ-kheo: "Các ông không nên tự cho phép mình lấy mà ngăn
cản người khác, đồng thời cũng không được chặt cả củi khô, củi tươi chất đống
trước phòng rồi đốt mà phải biết giữ gìn
chung. Phép đốt củi phải có chuẩn mực: chừng ấy để đốt trong phòng sưởi,
chừng ấy để chụm dưới bếp, chừng ấy để dùng trong phòng tắm, chừng ấy để dùng
trong phòng riêng, phải chia ra có chừng mực, không được lấy quá mức. Nếu không
phân chia trước thì đốt nhiều không có tội. Ta không cho phép chặt cây ướt mà phải
chặt cây khô. Không được đốn những cây trông đẹp mắt ở xung quanh tăng viện.
Còn những cây trong rừng núi không có người giữ gìn thì chặt không có tội. Đó
gọi là vấn đề đốt củi.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có một Tỉ-kheo khách đến một tăng-già-lam ở bên thôn hái
hoa. Cựu Tỉ-kheo nói: "Vì sao thầy hái hoa? Tôi đã nhọc nhằn trồng nó, rồi
chăm sóc tưới bón. Thầy là khách tới đây chỉ cần tìm bóng mát mà ngồi, không
nên tùy tiện bẻ phá làm theo ý mình, rồi ngày mai ra đi không hiểu đến nổi khổ
của tôi". Cựu Tỉ-kheo nói như vậy rồi đi khất thực. Sau khi thầy đi, khách
Tỉ-kheo bèn bẻ những cành đã ra hoa và những cành chưa ra hoa một cách bừa bãi,
rồi đem chất thành đống trước phòng. Khi khất thực trở về, cựu Tỉ-kheo thấy
đống hoa liền nói: "Vì sao thầy bẻ hoa?".
Tỉ-kheo khách hỏi lại:
"Vì sao thầy có thể bẻ được mà lại ngăn cản tôi?"
Hai người cãi nhau xong
rồi cùng nhau đi đến chỗ Phật bạch đầy đủ sự việc trên. Phật liền nói với cựu
Tỉ-kheo: "Ông không nên tự bẻ hoa mà lại ngăn cản người khác, mà cần phải
thương tiếc giữ gìn. Còn khách Tỉ-kheo cũng không được tùy tiện bẻ cả những
cành đã ra hoa và những cành chưa ra hoa rồi đem chất đống trước phòng. Người
nào hội đủ 5 điều kiện sau đây thì nên cử họ chia hoa. Năm điều đó là: không thiên
vị, không giận giữ, không ngu si, không sợ hãi và biết ai đã được hoa rồi, ai
chưa được. Đó gọi là 5 điều kiện. Đoạn, người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin đại đức Tăng lắng
nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp, nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng
cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia hoa. Đây là lời tác bạch.
(496b) Bạch xong, làm
một lần Yết-ma, cho đến "Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc này cứ như
thế mà thi hành".
Vị Tỉ-kheo nhận pháp
Yết-ma rồi nên bảo tịnh nhân chăm sóc hoa. Nếu hoa nhỏ thì nên dùng chén đong
để chia, hoặc dùng tay ước lượng để chia. Nếu các loại hoa lớn như hoa
Ưu-bát-la, hoa Chiêm-bặc, hoa Bát-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi thì nên đếm mà chia.
Nếu phần hoa của Phật thì nên dâng lên Phật. Nếu hoa của Tăng thì tùy ý cúng
dường, hoặc trao đổi nhau. Nếu hoa quá nhiều thì nên đưa cho cửa hàng bán hoa
và bảo họ: "Mỗi ngày bà phải đưa cho tôi chừng ấy vòng hoa, số còn lại bà
hãy trả cho tôi chừng ấy tiền". Khi được tiền bán hoa có thể dùng sắm y
cho phòng riêng, hoặc sắm thức ăn trước, thức ăn sau. Nếu số tiền lớn thì nên
bỏ vào ngân quĩ của chùa.
Đó gọi là nguyên tắc sử
dụng hoa.
Vấn đề trái tương tự
như cách sử dụng hoa đã nói ở trên, cho đến sau khi làm Yết-ma xong phải bảo
tịnh nhân chăm sóc. Nếu trái nhỏ thì nên dùng vật gì đong để chia, hoặc dùng tay
ước lượng để chia. Nếu trái lớn như các loại trái đa-la, trái tì-la, trái dừa,
trái ta-na-sa, trái xoài thì nên đếm mà chia. Nếu trái nhiều thì nên đưa cho
người bán trái cây rồi bảo họ hằng ngày phải đưa cho mình chừng ấy trái, số còn
lại thì phải trả chừng ấy tiền. Số tiền ấy nên sắm thức ăn trước, thức ăn sau.
Nếu còn dư thì nên bỏ vào ngân quĩ của chùa. Đó gọi là phép sử dụng trái.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có một Tỉ-kheo trồng xoài trong đất của Tăng, rồi chăm sóc
cho lớn, tự hái trái mà không cho người khác hái. Các Tỉ-kheo nói: "Vì sao
thầy tự hái được mà ngăn cản người khác?". Thầy đáp: "Vì cây này tôi
trồng và chăm sóc cho đến khi lớn".
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Người trồng cây này có công
đức, nên cho họ hưởng một năm. Phép hưởng một năm là: Nếu Tỉ-kheo trồng các
loại cây ăn quả như xoài, Diêm-phù-đề và các loại tương tự như thế thì cho hái
trái một cây trong một năm. Nhưng nếu cây lớn không muốn cho hái quả một cây cả
năm thì nên cho hằng năm hái quả một cành. Nếu cành cây ấy bị gãy hoặc khô thì
chấm dứt. Nếu vị ấy trồng cả vườn cây thì nên cho hưởng trọn một năm. Nếu vị ấy
muốn hái quả hằng năm của một cây thì cũng chuẩn thuận.
Nếu ai trồng cải, hành,
hoặc các loại rau tương tự như thế thì cho họ được cắt một bó. Nếu trồng dưa,
bầu thì cho hưởng một kỳ ra trái.
Đó gọi là phép tắc
trồng cây.
Có người do thân hành
động, miệng nói năng, thân miệng hành động; hoặc do thân không thu nhiếp, miệng
không thu nhiếp, thân miệng không thu nhiếp nên phạm tội; nói chung, do thân gây
ra, miệng gây ra và cả thân miệng cùng gây ra tội lỗi. Trái lại, trường hợp
không có tội là: Thân không hành động, miệng không nói năng, thân miệng không
hành động. Hoặc thân được thu nhiếp nên không phạm tội, miệng được thu nhiếp nên
không phạm tội, thân miệng được thu nhiếp nên không phạm tội. Nói chung, thân
không (496c) gây ra, miệng không gây ra, thân miệng không gây ra các hành vi
sai trái, nên không có tội.
Hỏi: Nếu có người phạm
tội Ba-la-di thì phải trị phạt bằng cách nào?
Đáp: Hoặc cho họ trở về
làm người thế tục; hoặc cho họ học làm Sa-di; hoặc trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.
Hỏi: Nếu có người phạm
tội Tăng-già-bà-thi-sa thì phải trị phạt bằng cách nào?
Đáp: Nếu không che giấu
thì cho hành pháp Ma-na-đỏa, rồi cho xuất tội. Nếu có che giấu thì cho hành
Biệt trú, Ma-na-đỏa, rồi cho xuất tội.
Hỏi: Nếu có người phạm
tội Ni-tát-kì thì phải trị phạt bằng cách nào?
Đáp: Nên đem vật đã vi
phạm đến xả giữa Tăng - nếu là Thượng tọa - rồi cúi đầu, đảnh lễ ôm chân vị chủ
sám. Nếu là Hạ tọa thì nên quì gối chắp tay, nói như sau: "Thưa trưởng lão,
tôi phạm giới cất y lâu ngày, đã đem xả giữa chúng Tăng, nay xin sám hối tội
Ba-dạ-đề". Vị chủ sám nên hỏi:
- Thầy có thấy tội ấy
không?
- Dạ thưa thấy.
- Đừng tái phạm nhé!
- Xin cúi đầu vâng giữ.
Ngoài ra, phạm các tội
Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Việt tì-ni, thì chỉ có tên tội sai khác, nhưng cách
trị phạt cũng thế.
Đó gọi là phép trị tội.
Kệ tóm tắt:
"Chúng sinh và
trồng cây,
Đốn củi cùng hoa trái.
Người trồng hưởng một năm,
Phép trị phạt các tội.
Hết phần thứ mười hai".
Pháp này gồm có 7, đó
là: 1- Hiện tiền tì-ni; 2- Ức niệm tì-ni; 3- Bất si tì-ni; 4- Tự ngôn tì-ni; 5-
Mích tội tướng tì-ni; 6- Đa mích tì-ni; 7- Thảo bố địa tì-ni. Đó gọi là pháp diệt
tránh (những nguyên tắc dùng để dập tắt sự tranh cãi).
Gồm có 4 trường hợp, đó
là: 1- Tướng ngôn tránh; 2- Phỉ báng tránh; 3- Tội tránh; 4- Thường sở hành sự
tránh. Đó là 4 trường hợp nảy sinh tranh cãi.
Gồm có: 1- Yết-ma chiết
phục; 2- Yết-ma bất ngữ; 3- Yết-ma khu xuất; 4- Yết-ma phát hỉ; 5- Yết-ma cử
(tội); 6- Yết-ma biệt trú. Đó gọi là điều phục.
Các việc cần điều phục.
Thuộc về 5 nhóm tội: 1-
Ba-la-di; 2- Tăng-già-bà-thi-sa; 3- Ba-dạ-đề; 4- Ba-la-đề-đề-xá-ni; 5- Việt
tì-ni. Đó gọi là các việc cần điều phục.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có cho
phép chúng con làm nhà tranh không?
- Cho phép.
- Bạch Thế Tôn! Có cho
phép xây vách, làm cánh cửa, làm ngưỡng cửa, trét đất, vẽ 5 loại hình ảnh không?
- Cho phép. Này các
Tỉ-kheo! Như trong thời quá khứ có vị vua tên là Cát-lợi làm tinh xá cho Phật
Ca-diếp một tầng, hai tầng cho đến bảy tầng. Thế rồi, ông cho chạm khắc các hình
tượng và cho vẽ các thứ chỉ trừ hình tượng nam nữ giao hợp. Các loại hình tượng
(497a) đó là: Tượng Tỉ-kheo trưởng lão; chùm trái nho; hình cá ma-kiệt; hình
con ngỗng; tượng tử thi; hình núi rừng. Các loại tương tự như thế gọi là năm
loại hình vẽ.
Khi Phật ở tại thành
Xá-vệ cho phép làm phòng; lúc ở thành Tì-xá-li cho phép dùng sữa, sữa chua, sữa
đóng váng; lúc ở tinh xá Khoáng Dã cho phép dùng cá, thịt. Ngài cho phép dùng các
thứ như thế, chế định các thứ như thế đều tại 8 thành phố lớn sau đây:
1- Thành Xá-vệ;
2- Sa-kì;
3- Chiêm-bà;
4- Ba-la-nại;
5- Câu-diệm-di;
6- Tì-xá-ly;
7- Vương Xá;
8- Ca-tì-la-vệ.
Đối với 9 bộ kinh, nếu
có quên nơi thuyết giảng thì có thể kể tên một trong 8 thành phố lớn ở trên,
chính là nơi mà Thế Tôn đã tuyên thuyết.
Đó gọi là nghe pháp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ có đàn việt đến tinh xá cúng dường trai phạn cho chúng Tăng;
lúc nghe tiếng kiền chùy đánh thì Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà còn đang thoa dầu vào
mặt, không đến đúng giờ, nên bị đàn việt chê trách. Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy
đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi 2 Tỉ-kheo ấy đến. Khi họ đến rồi, Phật liền
hỏi:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép bôi dầu vào mặt. Dầu gồm có các loại: dầu mè; dầu đại ma; dầu
hoa a-đề-mục-đa; dầu hoa chiêm-bà... Nếu ai vì trang sức mà thoa các loại dầu thơm
như thế lên mặt thì phạm tội Việt tì-ni. Nhưng khi tắm rửa thì được dùng dầu,
hoặc khi gội đầu thì được dùng bột, dầu thoa chân đổ trong bàn tay rồi xoa lên
mặt thì không có tội.
Đó gọi là phép dùng dầu
thoa mặt.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ có đàn việt đến tinh xá Kỳ Hoàn cúng dường trai phạn cho
chúng Tăng. Lúc nghe tiếng bảng đánh thì nhóm sáu Tỉ-kheo còn đang thoa phấn lên
mặt không đến đúng giờ nên bị đàn việt chê trách. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc
đó đến bạch lên Thế Tôn, cho đến câu Phật dạy: "Từ nay về sau, Ta không
cho phép các Tỉ-kheo dùng phấn bôi lên mặt. Phấn có các thứ như phấn ma-na-thạch,
phấn diên tích, đại loại các thứ như thế. Nếu Tỉ-kheo vì thích đẹp, thậm chí
bôi đất đỏ lên mặt, thì phạm tội Việt tì-ni. Nhưng nếu trên mặt bị mọc mụt nhọt,
sảy thì bôi phấn không có tội, khi thoa không được ở giữa mọi người, mà nên ở
chỗ vắng. Đó gọi là phép dùng phấn".
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, cho đến nhóm 6 Tỉ-kheo đang bận chải đầu không đến đúng giờ nên bị
đàn việt chê trách. Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Thế rồi, Phật nói: "Ta không cho phép
Tỉ-kheo dùng bàn chải chải đầu. Bàn chải gồm các thứ như bàn chải bằng lông,
bằng rễ cỏ, đại loại các thứ tương tự như thế. Thậm chí nếu vì thích đẹp mà
dùng tay vuốt đầu thì phạm tội Việt tì-ni. (497b) Nhưng khi cạo đầu xong, dùng
tay xoa trên đầu thì không có tội. Đó gọi là phép dùng bàn chải".
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, sau khi Ngài chế giới không cho phép dùng bàn chải, rồi một hôm
đàn việt cúng dường cơm cho chúng Tăng; đến lúc nghe bảng đánh thì Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà còn dùng lược chải đầu, không tới đúng giờ nên bị đàn việt chê
trách. Thế rồi, Phật dạy: "Ta không cho phép dùng lược. Lược gồm có các
loại như lược bằng răng, lược bằng xương, lược bằng sừng, lược bằng cây. Đại
loại tất cả các thứ lược tương tự như thế đều không được phép dùng; thậm chí
nếu vì thích đẹp mà dùng tay vuốt đầu thì phạm tội Việt tì-ni. Đó gọi là phép
dùng lược".
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, sau khi Thế Tôn chế giới không cho phép dùng lược, cho đến nhóm
sáu Tỉ-kheo dùng trâm cài lên đầu, không đến đúng giờ, nên bị đàn việt chê
trách, và cuối cùng Phật dạy: "Ta không cho phép dùng trâm. Trâm có các
loại như: vàng, bạc, đồng, sắt, kim cương, đá, răng, xương, sừng, tre, gỗ. Nói
chung, tất cả các loại tương tự như thế đều không được phép dùng. Thậm chí, nếu
vì thích đẹp mà dùng nanh heo chải đầu thì phạm tội Việt tì-ni. Nhưng nếu khi
đầu ngứa thì được dùng tay sạch cầm một vật gì đó cào lên đầu. Đó gọi là pháp
dùng trâm".
Kệ tóm tắt:
"Tranh cãi và dập
tắt,
Điều phục, việc điều phục.
Nghe pháp, dầu thoa mặt,
Phấn, lược, trâm, bàn chải.
Hết phần thứ mười ba".
Khi Phật du hành đến
nước Câu-tát-la, có người Bà-la-môn đang cày đất, trông thấy Thế Tôn đi qua,
ông ta bèn dừng cày đến lễ Phật. Thế Tôn thấy vậy liền mỉm cười. Các Tỉ-kheo
liền bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân
duyên gì mà Thế Tôn cười? Chúng con muốn được biết.
- Hôm nay ông Bà-la-môn
này đảnh lễ hai đức Phật.
- Thế nào là hai đức
Phật, bạch Thế Tôn!
- Đó là đảnh lễ Ta và
đảnh lễ tháp Phật Ca-diếp dưới chỗ bắp cày kia.
- Chúng con muốn được
thấy tháp Phật Ca-diếp, bạch Thế Tôn!
- Các ông hãy đến xin
ông Bà-la-môn này một nắm đất tại chỗ ấy.
Thế rồi, các Tỉ-kheo
bèn đến hỏi xin, ông Bà-la-môn liền cho nắm đất. Khi ấy, Thế Tôn bèn làm ngôi
tháp thất bảo của Phật Ca-diếp xuất hiện, cao một do-diên, bề mặt rộng nửa do-diên.
Ông Bà-la-môn thấy thế liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Họ của con là
Ca-diếp, và đây là ngôi tháp của đức Phật Ca-diếp".
Bấy giờ, đức Thế Tôn
bèn xây ngôi tháp của đức Phật Ca-diếp tại nơi ấy. Các Tỉ-kheo liền bạch với
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chúng
con được đắp đất vào không?
- (497c) Được.
Đoạn, Phật đọc kệ:
"Dùng trăm ngàn
gánh vàng,
Đem làm việc bố thí,
Không bằng dùng tâm lành,
Cung kính lễ tháp Phật".
Khi ấy, đức Thế Tôn bèn
xây tháp Phật Ca-diếp, dưới nền làm thành hình vuông, xung quanh đặt lan can,
rồi xây lên hai tầng hình tròn, dựng bốn trụ ở bốn góc, bên trên trang trí bảo
cái, để biểu hiện tướng bánh xe. Rồi Phật dạy: "Nguyên tắc làm tháp phải
như thế". Khi tháp hoàn thành, vì tôn kính Phật quá khứ nên Thế Tôn tự
đảnh lễ. Các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Chúng con được
phép đảnh lễ không?". Phật dạy: "Được". Đoạn, Ngài đọc kệ:
"Ai dùng trăm
ngàn vàng,
Đem làm việc bố thí,
Không bằng dùng tâm lành,
Cung kính lễ tháp Phật".
Bấy giờ người đời nghe
Thế Tôn xây tháp liền mang hương hoa đến dâng cho Thế Tôn. Vì lòng tôn kính
Phật quá khứ nên Thế Tôn nhận hương hoa ấy rồi đem cúng dường tháp. Các Tỉ-kheo
liền bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, chúng con được cúng dường tháp hay
không?". Phật dạy: "Được". Thế rồi, Phật đọc kệ:
"Dùng trăm ngàn
xe vàng,
Đem làm việc bố thí,
Không bằng dùng tâm lành,
Đem hương hoa cúng tháp".
Khi ấy, đại chúng vân
tập, Phật liền bảo Xá-lợi-phất thuyết pháp cho mọi người nghe, rồi Phật đọc kệ:
"Trăm ngàn cõi
Diêm-phù,
Chứa đầy vàng bố thí,
Không bằng bố thí pháp,
Tùy nguyện khiến tu hành".
Lúc bấy giờ, trong số
cử tọa có người đắc đạo, nên Phật liền đọc kệ:
"Đem vàng ròng
chứa đầy,
Trăm ngàn thế giới thí,
Không bằng bố thí pháp,
Tùy nguyện thấy chân đế".
Khi ấy, Bà-la-môn đạt
được niềm tin bất hoại, liền cúng dường trai phạn cho Phật và chúng Tăng ngay
trước tháp. Đồng thời, vua Ba-tư-nặc nghe đức Thế Tôn xây tháp cho Phật
Ca-diếp, bèn truyền lệnh quân sĩ chở 700 xe gạch đến chỗ Phật, và vua đi đến
nơi, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con
muốn mở rộng thêm ngôi tháp này có được không?
- Được, thưa Đại vương.
Này Đại vương, trong thời quá khứ khi Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn, có vị vua tên
Cát-lợi muốn xây tháp thất bảo, rồi có viên quan tâu với vua: "Trong đời
vị lai sẽ có kẻ phi pháp xuất hiện, rồi hắn sẽ phá ngôi tháp này, vì thế mà
mang trọng tội. Xin Đại vương hãy dùng gạch xây tháp, rồi dùng vàng bạc mà lợp
lên trên. (498a) Nếu kẻ ấy gỡ lấy thứ vàng bạc đó thì ngôi tháp sẽ còn nguyên
vẹn". Nhà vua nghe theo lời viên quan nói, bèn dùng gạch xây tháp, rồi
dùng vàng, lợp một lớp mỏng lên trên, cao một do-diên, bề mặt rộng nửa do-diên,
lại dùng đồng làm lan can, trải qua 7 năm, 7 tháng, 7 ngày tháp mới hoàn thành.
Khi tháp hoàn thành, vua bèn dùng hương hoa cúng dường tháp, đồng thời cúng
dường chư Tăng".
Vua Ba-tư-nặc liền bạch
với Phật:
- Bạch Thế Tôn, vị vua
ấy có phước đức nên được nhiều châu báu, nay con làm tháp đương nhiên không
bằng vị ấy.
Đoạn, vua cho kiến tạo,
trải qua 7 tháng, 7 ngày thì ngôi tháp hoàn thành. Sau khi ngôi tháp hoàn
thành, vua bèn cúng dường Phật và Tỉ-kheo tăng.
Phương pháp làm tháp
thì ở dưới chân xây hình vuông, xung quanh làm lan can, xây lên hai tầng hình
tròn, dựng bốn trụ ở bốn góc, bên trên trang trí bảo cái để biểu tượng cho tướng
pháp luân.
Nếu ai nói: "Đức
Thế Tôn đã đoạn trừ tham dục, sân hận, ngu si, vậy thì còn xây tháp để làm gì
nữa?", thì phạm tội Việt-tì-ni, phải chịu quả báo nặng nề.
Đó gọi là phương pháp
xây tháp.
Khi cất Thiền viện,
trước hết phải quy định một chỗ đất tốt để làm tháp. Tháp không được xây ở phía
Nam, không được xây ở phía Tây (Thiền viện) mà nên xây ở hướng Đông và hướng
Bắc. Không được để cho đất của tăng xâm lấn đất của Phật, đất của Phật cũng
không được xâm lấn đất của Tăng. Nếu tháp ở gần rừng tử thi, rồi chó ăn đồ thừa
tha đến bỏ làm dơ đất tháp, thì nên xây tường chung quanh. Đồng thời nên xây
Tăng phòng ở phía Tây hoặc phía Nam. Không được để cho nước ở chỗ đất của Tăng
chảy vào chỗ đất của Phật, nhưng nước ở chỗ đất của Phật có thể chảy vào đất
của Tăng. Tháp nên xây ở chỗ cao ráo. Không được giặt, nhuộm, phơi y phục, treo
giày dép, vắt khăn trùm đầu, khăn choàng vai, hoặc khạc nhổ trong tháp viện.
Nếu ai nói: "Đức
Thế Tôn đã đoạn trừ tham dục, sân hận, ngu si mà còn xây tháp để làm gì?",
thì phạm tội Việt tì-ni. Người ấy sẽ mắc tội báo nặng nề.
Đó gọi là sự việc liên
quan đến tháp.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc
đi đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi bạch với Phật: "Bạch Thế
Tôn, chúng con đã xây tháp cho Phật Ca-diếp, vậy có được làm trang thờ hay
không?".
Phật dạy:
"Được". Rồi Ngài tiếp: "Trong thời quá khứ, sau khi đức Phật
Ca-diếp nhập Niết-bàn, vua Cát-lợi bèn xây tháp cho Phật, rồi làm trang thờ ở
bốn phía, bên trên đặt hình sư tử và vẽ các thứ khác, ở đàng trước đặt lan can để
trang trí hoa, còn trong trang thờ treo các bức họa và tràng phan, bảo cái.
Nếu ai nói: "Đức
Thế Tôn đã đoạn trừ tham dục, sân hận, ngu si, chỉ cần lấy đó làm vật trang sức
để mà thọ lạc", thì phạm tội Việt tì-ni. Người ấy sẽ chuốc lấy nghiệp báo
nặng nề. Đó gọi là cách làm trang thờ ở nơi tháp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, con
đượcmở khu vườn ở nơi tháp Phật Ca-diếp hay không?".
Phật dạy: "Được
mở". Rồi Ngài tiếp: "Trong thời quá khứ, có vị vua tên Cát-lợi, sau
khi Phật Ca-diếp Niết-bàn, vua đã xây tháp, rồi mở các hoa viên ở bốn phía.
(498c) Hoa viên nơi tháp trồng các loại cây hoa như cây Am-bà-la, cây Diêm-phù,
cây Phả-na-ta, cây Chiêm-bà, cây A-đề-mục-đa, cây Tư-ma-na, cây Long-hoa, cây
Vô-ưu, chúng ra hoa tất cả mọi lúc.
Trong vườn này, khi cây
ra hoa thì nên hái cúng dường tháp. Nếu đàn-việt nói: "Thưa tôn giả, trong
đây hoa thì để cúng dường Phật, còn trái thì cúng dường cho Tăng", thì nên
theo lời đề nghị của đàn-việt. Nếu hoa nhiều thì nên đem đưa cho nhà xâu hoa,
nói: "Bà xâu chừng này hoa thành vòng đưa cho tôi, số còn lại bà hãy đưa
cho tôi chừng ấy tiền".
Nếu được tiền thì nên
dùng để mua dầu thắp đèn, hương cúng dường Phật và dùng để sửa chữa tháp. Nếu
số tiền nhiều thì nên nhập vào ngân khoản dùng để làm việc Phật.
Nếu ai nói: "Phật
không còn dâm, nộ, si mà dùng vườn hoa trái này để làm gì?", thì phạm tội
Việt tì-ni, sẽ chuốc lấy quả báo nặng nề.
Đó gọi là phép trồng
vườn hoa xung quanh tháp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, cho đến Phật nói: "Này Đại vương, trong thời quá khứ, sau khi
Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn, vua Cát-lợi xây tháp cho Phật, bốn phía đào ao,
trồng các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa
Phân-đà-lợi. Nay Đại vương cũng nên đào ao. Ao được đào ở bốn phía tháp, trong
ao nên trồng các loại tạp hoa để cúng dường tháp Phật. Nếu còn dư thì nên đem
bán cho người xâu hoa, rồi lấy tiền. Nếu số tiền ấy dùng không hết thì nên bỏ
vào ngân quỹ của Tam-bảo. Không được giặt y, rửa tay, rửa mặt, rửa bát trong
ao. Nhưng ở cuối đường nước từ ao chảy ra thì tùy ý dùng, không có tội. Đó gọi
là phép đào ao ở cạnh tháp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, cho đến Phật nói: "Này Đại vương, Đại vương được làm chi-đề.
Trong thời quá khứ, sau khi Phật Ca-diếp Niết-bàn, vua Cát-lợi bèn xây tháp cho
Phật, rồi kiến lập chi-đề ở bốn phía tháp, đồng thời cho chạm khắc và vẽ các
hình ảnh. Nay Đại vương cũng nên làm chi-đề. Nơi nào có thờ xá lợi thì gọi là
tháp; nơi nào không có xá lợi thì chỉ gọi là chi-đề. Các chi-đề (tháp) ở những
nơi Phật đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn, hoặc tượng
Bồ-tát, hang Phật Bích-chi, dấu chân Phật, nên dâng hoa và các phẩm vật cúng
dường.
Nếu có ai nói:
"Phật đã đoạn trừ hết tham dục, sân hận, ngu si mà còn xây chi-đề để cúng
dường làm chi", thì phạm tội Việt tì-ni, sẽ chuốc lấy nghiệp báo nặng nề.
Đó gọi là làm chi-đề ở cạnh tháp.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, cho đến các Tỉ-kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, có được
dùng phẩm vật cúng dường tháp để cúng dường chi-đề không?"
Phật dạy: "Được.
Nếu vào các ngày Phật đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, năm năm đại hội
một lần, mà nhận được các phẩm vật cúng dường, thì nên chọn những thứ tốt nhất
đem cúng dường tháp Phật, còn những thứ kém hơn đem cúng dường chi-đề".
(498c) Nếu có người
nói: "Phật đã dứt sạch dâm, nộ, si mà còn dùng tràng phan, bảo cái cúng
dường làm gì", thì phạm tội Việt tì-ni, sẽ chuốc lấy nghiệp báo nặng nề.
Đó gọi là phẩm vật cúng dường.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy vua Ba-tư-nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân,
đứng sang một bên, rồi bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, có thể dùng kỹ nhạc
để cúng dường tháp Phật được không?"
Phật đáp: "Được.
Sau khi Phật Ca-diếp Niết-bàn, vua Cát-lợi dùng ca múa, kỹ nhạc cúng dường tháp
Phật, nay Đại vương cũng nên cúng dường. Khi Như Lai tại thế, hoặc sau khi nhập
Niết-bàn đều có thể dùng hương hoa, kỹ nhạc, các thứ y phục, ẩm thực để cúng
dường, vì lợi ích cho cuộc đời, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc lâu
dài".
Nếu ai nói: "Đức
Thế Tôn không còn dâm, nộ, si mà dùng các thứ kỹ nhạc này cúng dường làm chi
nữa", thì phạm tội Việt tì-ni, sẽ chuốc lấy quả báo nặng nề. Đó gọi là
cách dùng kỹ nhạc để cúng dường.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, bấy giờ các Tỉ-kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, chúng con
được phép thu vật dụng cúng dường chi-đề hay không?'
Phật đáp: "Được.
Thu dọn trong các dịp: ngày Phật đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, năm năm
đại hội một lần. Khi đem tràng phan, bảo cái ra cúng dường chi-đề trong các dịp
ấy mà gặp mưa gió bất ngờ ập đến, thì tất cả Tăng chúng phải cùng nhau thu dọn.
Không ai được nói: "Tôi là Thượng tọa, là người sống ở A-luyện-nhã, là
người khất thực, là người mặc y phấn tảo, là người có đức lớn, còn các ông nhờ
vào đó mà sống thì phải tự thu lấy". Nếu mưa gió xảy đến bất ngờ thì phải
cùng nhau thu dọn, tùy theo phòng nào ở gần thì cất tạm nơi ấy. Không ai được phép,
vì giữ phòng mình mà nói: "Để ở phía trước đó". Nếu bị ướt thì nên
đem phơi khô, hoặc bị bụi bặm thì nên đập giũ cho sạch rồi chất đống lại. Nếu
ai nói: "Tôi là thượng tọa, là người sống ở A-luyện-nhã, là người khất
thực, là người mặc y phấn tảo, là người có đức lớn", thì phạm tội Việt
tì-ni. Đó gọi là thu dọn dụng cụ cúng dường.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, tôn giả Ưu-ba-li đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới
chân, rồi bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, nếu gặp tai nạn bất ngờ xảy đến
thì đối với vật của tháp, của Tăng phải làm sao?".
Phật dạy: "Nếu bọn
giặc yếu thế, thì nên đến xin vua che chở. Nếu vua nói: "Tôn giả cứ ở yên
đó, đừng sợ, khi nào tôi không tảo trừ được bọn chúng thì tùy ý tôn giả", thì
khi ấy nên cân nhắc xem thế lực của vua mạnh hay yếu, nếu thấy thế lực của giặc
mạnh hơn, thì nên ngầm sai người tín cẩn đến chỗ lãnh tụ của giặc xin chúng bảo
vệ. Còn nếu như vua nói:"Nay tôi còn phải sợ giặc, thì làm sao che chở cho
các vị được. Tôn giả hãy đến bọn giặc mà xin chúng bảo vệ", thì nên xem
xét bọn giặc (499a) Nếu chúng có tà kiến không tin Phật pháp, không thể theo đường
chính, thì không được bỏ vật đó rồi đi, mà nên sai người tín cẩn đem giấu vật
của Phật, của Tăng, rồi để ý theo dõi bọn giặc, đừng đểû chúng đến bất ngờ. Nếu
bọn giặc đến gấp, chưa cất giấu kịp, thì vật của Phật nên đem trang hoàng tượng
Phật, còn tọa cụ của tăng thì nên đem trải ra, dọn các thức ăn lên đó, để cho
bọn giặc thấy rõ. Đoạn, sai một Tỉ-kheo trẻ tuổi núp ở chỗ khuất trông chừng
bọn giặc. Nếu bọn giặc đến, thấy các dụng cụ cúng dường rồi, chúng khởi từ tâm
hỏi như sau: "Có Tỉ-kheo trong đó hay không? Đừng sợ, hãy ra cả đây".
Khi ấy, Tỉ-kheo trẻ tuổi nên xem xét, nếu trường hợp bọn giặc đến đột ngột chưa
cất giấu các vật được, thì nên nói: "Tất cả các hành đều vô thường",
rồi bỏ đi. Đó gọi là trường hợp gặp nạn".
Kệ tóm tắt:
"Xây tháp, việc
của tháp
Trang thờ tháp, vườn tháp.
Ao tháp và chi-đề,
Kỹ nhạc, vật cúng dường.
Thu dọn, hương hoa, nạn,
Hết phần thứ mười bốn.
(Tóm tắt toàn bộ phần
tạp tụng):
Thọ cụ túc,
Yết-ma,
Cử tội và Bố tát.
Bị bệnh, việc tì ni,
Vật nặng và ăn tỏi.
Giết vật cúng, đao trị,
Phương tiện thọ chúng sinh.
Diệt thâu-bà cuối cùng".
LUẬT MA
HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ ba mươi ba