Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
LUẬT HỌC TINH YẾU
Hoà Thượng Thích Phước Sơn
Nhà xuất bản Phương Đông 2006 – PL 2550
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1
GIỚI BẢN CỦA ĐẠI TỲ-KHEO THUỘC LUẬT MA-HA-TĂNG-KỲ
(Đ 22, tr. 549A)
Tam Tạng Phật-đà-bạt-đà-la
(Buddha-bhadra) người Thiên Trúc dịch (từ Phạn sang Hán) vào đời Đông Tấn
(415-419). Thích Phước Sơn dịch từ Hán sang Việt.
Sáu pháp cần ghi nhớ:
- Phải biết số ngày trong tháng, như ngày mồng một, mồng
hai, cho đến ngày 14, 15, hoặc tháng đủ hay tháng thiếu, đều phải biết.
- Sáng sớm phải tính toán việc thí thực: “Nếu hôm nay
được thức ăn thì ta nên cúng dường cho thầy A; nếu thầy A không bằng lòng nhận
thì ta sẽ ăn” (nói 3 lần như vậy).
- Hằng ngày phải ghi nhớ về số hạ lạp của mình là bao
nhiêu.
- Phải ghi nhớ số y mà mình phải gìn giữ và số y mà mình
đã tịnh thí.
- Phải nhớ là không được ăn với một chúng riêng (một nhóm
người riêng ngoài chúng Tăng).
- Phải nhớ là mình có bệnh hay không có bệnh.
Vị Yết-ma bắt đầu nói:
- Xin Đại đức Tăng lắng nghe! Một tháng của mùa Đông đã
trôi qua, thiếu một đêm, nhưng thừa một đêm đối với 3 tháng còn lại. Sự già
chết đã đến gần, Phật pháp sắp hủy diệt. Các Đại đức vì sự đạt đạo cần phải một
lòng tinh tấn. Vì sao vậy? Vì chư Phật nhờ một lòng tinh tấn mà đạt được Vô
thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống gì là các pháp trợ đạo khác.
Những
người chưa thọ giới Cụ túc đã ra rồi, vậy Tăng nay hội họp trước hết là để làm
gì?
- (Một người đáp:) Để Bố-tát tụng giới.
Các Đại đức nào không đến thì Tỳ-kheo (nhận dục của họ) hãy
trình bày sự gởi dục và thanh tịnh (của họ với đại chúng).
Có ai nhận sự chúc thỉnh của Tỳ-kheo-ni không?
(Nếu không thì đáp): Không có Tỳ-kheo-ni chúc thỉnh.
Chắp đôi bàn tay lại,
Đảnh lễ đức Thế Tôn
Giờ tôi sắp tụng giới,
Tăng hãy lắng lòng nghe.
Dù cho phạm tội nhỏ,
Phải cực kỳ lo sợ.
(549b) Có tội quyết sám hối,
Về sau đừng tái phạm.
Tâm như ngựa ruổi dong,
Phóng dật khó kiềm chế.
Phật dạy giữ giới hạnh,
Như nắm dây cương chắc.
Lời này từ kim khẩu,
Người thiện cần phải
tin.
Lòng tin như ngựa thuần,
Phá được quân phiền não.
Nếu ai chẳng vâng lời,
Cũng không ưa thích
giới.
Người ấy như ngựa chứng,
Chết trong quân phiền
não.
Người giữ giới kiên cố,
Như trâu mao giữ đuôi.
Cột tâm không phóng dật,
Như khỉ bị xích xiềng.
Ngày đêm thường tinh tấn,
Cầu trí huệ chân thật,
Thì đời sống người này,
Sống trong sự thanh tịnh.
Xin
Đại đức Tăng lắng nghe! Hôm nay là ngày rằm, Bố-tát tụng giới. Nếu thời gian
của Tăng đã đến, thì Tăng hãy nhất tâm lắng nghe, cùng nhau Bố-tát tụng giới.
Đây là lời tác bạch.
Thưa
các Đại đức! Hôm nay là ngày Bố-tát tụng giới. Tăng hãy nhất tâm lắng nghe. Nếu
ai có tội thì phải phát lồ, không có tội thì im lặng. Vì im lặng mà biết các
Đại đức thanh tịnh; như một Tỳ-kheo được ai hỏi điều gì thì phải như thật trả
lời. Cũng vậy, Tỳ-kheo nào ở trong chúng sau khi được hỏi ba lần, nhớ biết mình
có tội mà không phát lồ thì phạm tội cố ý vọng ngữ. Thưa các Đại đức! Phật dạy,
cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Thế nên, Tỳ-kheo nào muốn được thanh tịnh thì
khi nhớ mình có tội cần phải phát lồ. Vì phát lồ thì an ổn, không phát lồ thì
tội càng thêm nặng.
Thưa
các Đại đức, tôi đã tụng xong bài tựa của giới kinh, giờ xin hỏi các Đại đức
trong đây có thanh tịnh không? (hỏi ba lần như vậy).
Vì
các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
GIỚI BA-LA-DI
Thưa các Đại đức, đây là 4 giới Ba-la-di cứ mỗi nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo đã thọ giới Cụ túc ở giữa chúng
Tăng hòa hợp, không trả giới, giới sa sút, không rời khỏi Tăng đoàn mà hành dâm
với người khác, thậm chí với cả loài súc sinh, thì Tỳ-kheo ấy phạm tội
Ba-la-di, không được sống chung (với Tăng chúng).
(549c) Bấy giờ Phật an trú tại thành Tỳ-xá-li
(Vesali), nhằm ngày 27 tháng 11 của mùa Đông, năm thứ năm sau khi thành Phật.
Sau bữa cơm, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, lúc bóng xế độ một người rưỡi,
vì Trưởng lão Da-xá con của Ca-lan-đà (Yasa-Kalandaka-putta) mà chế ra giới
này.
Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là
pháp tùy thuận.
2. Nếu
Tỳ-kheo lấy trộm vật của người khác trong thôn xóm hay chỗ đất trống, rồi tùy
theo vật lấy trộm mà nhà vua hoặc bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc trục xuất,
khiển trách: “Ôi, kẻ nam tử! Ngươi là quân trộm cướp, là kẻ ngu si”, thì
Tỳ-kheo ăn trộm ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng.
Bấy
giờ Phật an trú tại thành Vương Xá, vào ngày mồng mười tháng mười của mùa Đông,
năm thứ sáu sau khi thành đạo. Sau bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông,
lúc bóng chiều độ một người rưỡi, vì Trưởng lão Đạt-nị-già (Dhaniya) con của
người thợ gốm - có việc liên quan đến vua Bình-sa (Bimbisara) và Tỳ-kheo mặc y
phấn tảo - mà chế ra giới này. Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp
hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
3. Nếu
Tỳ-kheo tự tay mình giết người, hoặc đi tìm dao đưa cho người ta tự sát, khuyến
khích chết, ca ngợi sự chết, nói: “Ôi! Làm người sống mà khốn khổ thì thà chết
còn tốt hơn”, trong tâm suy nghĩ tìm đủ mọi cách ca ngợi rằng chết là khoái
trá, nhân đó mà người kia chết chứ không có lý do nào khác, thì Tỳ-kheo ấy phạm
tội Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng.
Bấy
giờ, Phật an trú tại thành Tỳ-xá-li (Vesali), vào ngày 24 tháng 10 của mùa
Đông, năm thứ sáu sau khi thành Phật. Trước bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng
Bắc, lúc bóng mặt trời độ một người rưỡi, vì các Tỳ-kheo nuôi bệnh liên quan
đến việc Lộc Trượng (Miga-Dandika) ngoại đạo (sát hại các Tỳ-kheo) mà chế ra
giới này. Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy
thuận.
4. Nếu
Tỳ-kheo chưa biết, chưa thấy mà tự xưng rằng: “Tôi đã được thánh pháp hơn
người, có tri kiến thù thắng, tôi biết như vậy, thấy như vậy”, sau đó, hoặc bị
kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra về việc phạm tội, mà vì muốn mình thanh tịnh
nên nói như sau: “Thưa Trưởng lão, tôi không biết mà nói rằng biêt, không thấy
mà nói rằng thấy, đó là những lời hư dối không thật”, thì Tỳ-kheo này phạm tội
Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng, trừ Tăng thượng mạn.
Bấy giờ, Phật an trú tại thành Xá Vệ (Sàvatthi), vào ngày 13
tháng 11 của mùa Đông, năm thứ sáu sau khi thành Phật. Sau bữa ăn, Ngài ngồi
quay mặt về hướng Đông, lúc bóng chiều độ 3 người rưỡi, vì các Tỳ-kheo ở thôn
xóm và các Tỳ-kheo tăng thượng mạn mà chế ra giới này. Những gì Phật đã chế thì
phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 4 giới Ba-la-di, giờ đây
xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi nhận
việc này như vậy.
Thưa các Đại đức, sau đây là 13 giới Tăng-già-bà-thi-sa (Sanghadisesa), cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc
lại một lần vào dịp tụng giới.
- 1. Nếu Tỳ-kheo
cố ý làm xuất tinh - ngoại trừ trong giấc mộng - thì phạm tội
Tăng-già-bà-thi-sa.
- 2. Nếu Tỳ-kheo,
bị tâm dâm dục kích thích, bèn dùng thân mình cọ xát với thân người nữ, hoặc
nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc nắm các bộ phận khác nơi cơ thể của họ cọ xát để
tìm lạc thú, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 3. Nếu Tỳ-kheo
bị tâm dâm dục kích thích, nên nói với người nữ bằng những lời bẩn thỉu, bảo họ
tùy thuận hành dâm với mình như bọn nam nữ trẻ tuổi, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 4. Nếu Tỳ-kheo,
vì dục tâm kích thích, ở trước người nữ khen ngợi việc họ tự hiến thân cho
mình, nói rằng: “Này chị (hay em), nếu chị hiến dâng sự dâm dục cho vị Sa-môn
giữ giới thanh tịnh, hành thiện pháp, tu phạm hạnh như tôi, đó là sự dâng hiến
bậc nhất”, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 5. Nếu Tỳ-kheo
nhận làm sứ giả để tác hợp cho nam nữ thành vợ chồng, hay tư thông với nhau
trong chốc lát, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 6. Nếu Tỳ-kheo
tự đi xin vật liệu về làm phòng, không có thân chủ giúp đỡ thì phải trù tính
làm phòng chiều dài 12 gang tay Phật, chiều rộng 7 gang tay Phật. Đồng thời
phải mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ làm phòng, nơi ấy không có tai nạn, không có
phương hại. Nếu Tỳ-kheo tự đi xin vật liệu về làm phòng, không có thân chủ giúp
đỡ, mà làm chỗ có tai nạn, có phương hại, cũng không mời các Tỳ-kheo đến chỉ
chỗ để làm phòng, lại làm quá quy định, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 7. Nếu Tỳ-kheo
muốn làm phòng lớn có thân chủ giúp đỡ, cũng phải dẫn các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ
để làm phòng, nơi ấy không có tai nạn, không có phương hại. Nếu Tỳ-kheo làm
phòng lớn có thân chủ giúp đỡ mà làm ở chỗ có tai nạn, có phương hại, cũng
không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ làm phòng, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 8. Nếu Tỳ-kheo
vì tức giận không vui mà vu khống Tỳ-kheo thanh tịnh vô tội là phạm tội
Ba-la-di một cách vô căn cứ, muốn phá hoại hạnh thanh tịnh của Tỳ-kheo ấy, rồi
sau đó hoặc bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra, Tỳ-kheo này bèn nói rằng:
“Việc ấy không có căn cứ, vì tức giận nên tôi nói (như vậy)”, thì phạm tội
Tăng-già-bà-thi-sa.
- 9. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui, rồi dùng một
việc nhỏ thuộc lĩnh vực khác không phải Ba-la-di để vu cáo Tỳ-kheo khác phạm
tội Ba-la-di, nhằm phá hoại phạm hạnh của vị ấy, rồi sau đó, hoặc bị kiểm tra,
hoặc không bị kiểm tra, bèn nói: “Vì tức giận nên tôi đem một việc nhỏ thuộc
lĩnh vực khác để vu cáo”, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 10. Nếu Tỳ-kheo vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng,
nên cố gắng tìm mọi cách để phá việc của Tăng, gây nên tranh chấp lẫn nhau, thì
các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Trưởng lão đừng vì mục đích phá sự hòa hợp của
Tăng mà tìm đủ mọi cách để gây ra tranh chấp lẫn nhau. Trưởng lão nên hợp tác
với Tăng (cùng làm việc với Tăng). Vì sao vậy? Vì Tăng có hòa hợp, hoan hỷ
không tranh chấp, giống như nước hòa với sữa, cùng học một giáo pháp, điều gì
đúng pháp thì bảo là đúng pháp một cách rõ ràng, thì mới sống an lạc”. Khi can
gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phải can gián đến lần thứ hai, thứ
ba. Bấy giờ bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 11. Nếu
một, hai, hoặc nhiều Tỳ-kheo đồng ý tương trợ Tỳ-kheo khác, cùng nói, cùng ý
kiến muốn phá sự hòa hợp của chúng Tăng, lúc ấy có các Tỳ-kheo can gián, rồi vị
Tỳ-kheo đồng lõa này nói: “Trưởng lão, đừng nói việc tốt xấu của Tỳ-kheo ấy. Vì
sao vậy? Vì vị ấy là Tỳ-kheo nói đúng pháp, nói đúng luật. Những gì vị ấy thấy
và nói ra đều có thể chấp nhận được. Chúng tôi cũng có thể chấp nhận. Vị
Tỳ-kheo ấy biết mới nói, chứ không phải không biết mà nói”, thì các Tỳ-kheo nên
can gián rằng: “Trưởng lão đừng nói rằng vị Tỳ-kheo đó nói đúng pháp, nói đúng
luật. Vì sao vậy? Vì vị này không phải là Tỳ-kheo nói đúng pháp, nói đúng luật.
Này Trưởng lão, thầy đừng hỗ trợ việc phá Tăng mà phải vui vẻ hỗ trợ việc Tăng
hòa hợp. Vì sao vậy? Vì Tăng có hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp nhau, như nước hòa với sữa, cùng học một giáo pháp, điều gì
đúng pháp thì bảo là đúng pháp một cách rõ ràng, thì mới sống an lạc”. Khi can
gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên can gián đến lần thứ hai, thứ
ba. Bấy giờ nếu bỏ việc ấy thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội
Tăng-già-bà-thi-sa.
- 12. Nếu có Tỳ-kheo nói năng ngang ngạnh, rồi
được các Tỳ-kheo cùng sống chung trong giới pháp chỉ bảo đúng pháp, đúng luật
mà lại ngoan cố nói rằng: “Trưởng lão, thầy đừng nói về việc tốt xấu của tôi.
Tôi cũng không nói về việc tốt xấu của thầy”, thì các Tỳ-kheo nên can gián
rằng: “Trưởng lão, khi các Tỳ-kheo cùng sống chung trong giáo pháp chỉ bảo đúng
pháp, đúng luật, thì thầy không nên không công nhận, mà trái lại thầy cũng phải
chỉ bảo các Tỳ-kheo khác đúng pháp, đúng luật. Vì sao vậy? Vì các đệ tử của đức
Như Lai có chỉ bảo lẫn nhau, can gián lẫn nhau, cùng xuất tội cho nhau, thì
thiện pháp mới tăng trưởng”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ
thì nên can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ, nếu bỏ việc ấy thì tốt; nếu
không bỏ, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
- 13. Nếu Tỳ-kheo sống nương tựa vào thành ấp xóm
làng mà làm hoen ố nhà người ta, làm những việc xấu, làm hoen ố nhà người ta ai
cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy cũng nghe, thì các Tỳ-kheo
nên can gián rằng: “Trưởng lão, thầy đã làm hoen ố nhà người ta, làm những việc
xấu; làm hoen ố nhà người ta ai cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng
thấy cũng nghe, thầy hãy đi đi, không nên ở đây nữa”. Nếu khi ấy Tỳ-kheo này
nói: “Tăng thiên vị, thù hận, sợ hãi và ngu si. Vì sao vậy? Vì có các Tỳ-kheo
đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi”, thì các Tỳ-kheo
nên can gián rằng: “Này Trưởng lão, thầy đừng nói rằng: “Tăng thiên vị, thù
hận, sợ hãi và ngu si. Có các Tỳ-kheo đồng tội như nhau mà có người bị đuổi, có
người không bị đuổi”. Vì sao vậy? Vì Tăng không thiên vị, thù hận, sợ hãi và
ngu si. Này Trưởng lão, thầy đã làm hoen ố nhà người ta, làm những việc xấu,
làm hoen ố nhà người ta ai cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy
cũng nghe. Thầy hãy đi đi, đừng ở đây nữa”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt,
nếu không bỏ thì can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ, nếu bỏ việc ấy thì
tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
Này
các Đại đức, tôi đã tụng xong 13 pháp Tăng-già-bà-thi-sa. Chín pháp đầu hễ làm
là phạm tội, còn bốn pháp sau phải đến ba lần can gián mà không bỏ mới có tội.
Nếu Tỳ-kheo phạm một tội nào, thì tùy theo thời gian che giấu, (Tăng) nên cho
hành pháp Ba-lợi-bà-sa (biệt trú). Khi hành pháp Ba-lợi-bà-sa xong, phải hành
pháp Ma-na-đỏa (ý hỷ) sáu ngày, sáu đêm giữa Tăng. Khi hành pháp Ma-na-đỏa
xong, phải xuất tội ở giữa 20 vị Tăng. Nếu Tăng không đủ 20 người, thì tội của
Tỳ-kheo ấy không được giải trừ mà các Tỳ-kheo khác còn bị khiển trách. Việc đó
theo nguyên tắc là như vậy.
Nay
xin hỏi các Đại đức, ở trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì
các Đại đức ở trong đây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi nhận việc này là như
vậy.
(Hết
13 việc)
Thưa
các Đại đức, đây là hai pháp Bất định
cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
- 1. Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ
che khuất, chỗ có thể hành dâm được, rồi một Ưu-bà-di đáng tin cậy trình bày
lại chính xác một trong ba pháp: hoặc Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc
Ba-dật-đề; đồng thời vị Tỳ-kheo ấy tự nói: “Tôi ngồi chỗ ấy”, thì Tăng nên căn
cứ vào lời trình bày chính xác của Ưu-bà-di đáng tin cậy kia mà trừng trị vị
Tỳ-kheo ấy một trong ba pháp: hoặc Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc
Ba-dật-đề. Đây là pháp Bất định thứ nhất.
- 2. (551a) Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ trống trải, không thể
hành dâm được, rồi có một Ưu-bà-di đáng tin cậy trình bày lại đúng sự thật một
trong hai pháp: hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề, đồng thời vị Tỳ-kheo
ấy tự nói: “Tôi ngồi chỗ ấy”, thì Tăng nên tùy theo lời trình bày đúng sự thật
của Ưu-bà-di đáng tin cậy ấy mà trị phạt thích đáng một trong hai pháp: hoặc
Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề. Đây là pháp Bất định thứ hai.
Này các Đại đức, tôi đã tụng xong hai pháp Bất định, giờ xin
hỏi các Đại đức ở trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Vì các Đại đức ở trong dây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi
nhận việc này là như vậy.
(Hết hai pháp Bất định).
Thưa các Đại đức, đây là 30 pháp Ni-tát-kì-ba-dạ-đề cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc lại một lần vào
dịp tụng giới:
- 1. Nếu thời gian
sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả mà Tỳ-kheo nhận được y thừa (ngoài 3 cái
pháp định) thì được phép cất giữ trong vòng 10 ngày. Nếu cất giữ quá thời gian
ấy thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 2. Nếu thời gian
sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả, mà Tỳ-kheo rời một trong 3 y ngủ tại chỗ
khác, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
- 3. Nếu thời gian
sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả, khi ấy được vải phi thời mà Tỳ-kheo cần
dùng thì nên lấy, rồi tức tốc may thành y để mặc. Nếu chưa đủ mà có chỗ hy vọng
(tìm được thêm) thì được phép cất trong vòng một tháng, để đợi cho đủ. Nếu quá
thời gian ấy thì dù đủ hay không đủ đều phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 4. Nếu Tỳ-kheo
lấy y của Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề,
ngoại trừ trao đổi.
- 5. Nếu Tỳ-kheo
sai Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc đập giũ, thì
phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 6. Nếu Tỳ-kheo
theo cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến xin y, thì phạm tội
Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là
trường hợp bị mất y.
- 7. Nếu Tỳ-kheo
bị mất y thì khi ấy được theo cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến xin y.
Nếu họ cho một cách hào phóng thì được lấy tối đa là hai cái (y trên và y
dưới). Nếu lấy quá giới hạn thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 8. Nếu cư sĩ hay
vợ cư sĩ chuẩn bị giá tiền sắm y cúng cho Tỳ-kheo mỗ giáp, rồi tự nhủ: “Ta
chuẩn bị số tiền như thế để mua y như thế cúng cho Tỳ-kheo mỗ giáp” mà không
cho Tỳ-kheo ấy biết (551b), nhưng khi nghe được tin, Tỳ-kheo ấy bèn đến
nhà cư sĩ khuyên: “Lành thay cư sĩ! Ông (bà) hãy dùng số tiền sắm y như thế mua
chiếc y màu sắc như thế cho tôi”, thì khi được y, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 9. Nếu cư sĩ, vợ
cư sĩ vì Tỳ-kheo, mỗi người chuẩn bị một số tiền sắm y như thế, rồi bàn nhau:
“Chúng ta chuẩn bị số tiền sắm y như thế để mua chiếc y như thế cho Tỳ-kheo mỗ
giáp”, mà không cho Tỳ-kheo ấy biết (551b), nhưng khi nghe được tin, Tỳ-kheo ấy
bèn đến nhà cư sĩ, khuyên: “Lành thay các cư sĩ! Mỗi người hãy chuẩn bị tiền
sắm y như thế, rồi cùng chung lại mua một chiếc y màu sắc như thế cho tôi”, thì
khi được y phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 10. Nếu vua hay đại thần sai sứ giả đem tiền sắm
y đến cúng cho Tỳ-kheo, và nói: “Số tiền sắm y này là của vua, của đại thần (mỗ
giáp) đưa đến cho Tôn giả, xin Tôn giả nhận cho”, thì bấy giờ, Tỳ-kheo nên nói:
“Tôi không được nhận tiền sắm y. Nếu đưa y thích hợp thì tôi mới nhận được”.
Rồi sứ giả hỏi: “Tôn giả có người giúp việc không?”, mà Tỳ-kheo thấy cần y, thì
nên chỉ người làm vườn, hoặc Ưu-bà-tắc cho sứ giả, và nói: “Người đó thường hay
giúp việc cho Tỳ-kheo”. Sứ giả khi ấy nên đến người đó khuyến dụ: “Lành thay vị
chấp sự! Nhờ ông nhận số tiền sắm y này để mua y như thế cho Tỳ-kheo mỗ giáp.
Khi nào Tỳ-kheo ấy đến lấy y, thì ông đưa giúp cho”. Gởi gắm xong, sứ giả nên
trở lại chỗ Tỳ-kheo, nói: “Tôi đã khuyến dụ người giúp việc mà tôn giả đã chỉ
sắm y giúp rồi, khi nào cần y, thì đến đó lấy”. Thế thì khi cần y, Tỳ-kheo nên
đến chỗ người giúp việc nói: “Tôi cần y, tôi cần y”, lần thứ hai, thứ ba cũng
nói như thế. Nếu được y thì tốt, nếu không được thì lần thứ tư, thứ năm, thứ
sáu nên đến đứng im lặng trước người giúp việc. Nếu được thì tốt, nếu không
được mà đến đòi quá giới hạn ấy, thì khi được y phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
Trong trường hợp không lấy được, thì Tỳ-kheo hoặc tự đi, hoặc nhờ người khác
đến chỗ người xuất tiền sắm y, nói: “Ông (bà) đã vì Tỳ-kheo mỗ giáp đưa tiền
sắm y, nhưng chung cục Tỳ-kheo ấy không lấy được số tiền sắm y do ông cúng, vậy
xin báo cho ông biết, đừng để mất tiền”. Vấn đề này nguyên tắc là như vậy. (hết
10 việc)
- 11. Nếu Tỳ-kheo dùng lông dê toàn màu đen làm phu cụ
mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 12. Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ mới thì nên dùng hai
phần lông dê thuần màu đen, một phần màu trắng và một phần màu lẫn lộn. Nếu quá
số phần ấy thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 13. Nếu Tỳ-kheo dùng tơ tằm trộn với lông dê
thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 14. (551c) Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ mới thì nên sử dụng đến 6 năm. Nếu phu cụ chưa
đủ 6 năm mà bỏ, hoặc không bỏ, làm phu cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề;
ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
- 15. Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ hay tọa cụ mới thì
nên dùng một miếng phu cụ cũ chừng một gang tay Phật may chồng lên phu cụ mới
để cho hoại sắc. Nếu không dùng một miếng cũ may chồng lên phu cụ hay tọa cụ
mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 16. Nếu Tỳ-kheo đi đường được lông dê mà mình
thấy cần, thì có thể lấy mang đi trong vòng 3 do tuần. Nếu mang đi quá giới hạn
ấy, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 17. Nếu
Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến giặt, nhuộm, chải lông dê, thì
phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 18. Nếu Tỳ-kheo tự tay cầm vàng, bạc, hoặc sai
người khác cầm săm soi với tâm tham luyến, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 19. Nếu Tỳ-kheo mua bán các thứ hàng hóa thì
phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 20. Nếu Tỳ-kheo mua bán đổi chác các loại vàng,
bạc, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. (Hết 20 giới).
- 21. Nếu Tỳ-kheo có bát thừa (ngoài cái pháp
định) thì được cất trong 10 hôm. Nếu cất quá 10 hôm, thì phạm tội
Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 22. Nếu Tỳ-kheo dùng bát chưa vá đủ năm chỗ, mà vì
thích đẹp, xin bát mới, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. Cái bát này phải xả
giữa chúng Tăng. Rồi Tăng nên đem cái bát kém nhất đưa cho người ấy, nói:
“Trưởng lão! Thầy phải sử dụng cái bát này cho đến khi vỡ”. Việc này nguyên tắc
là như vậy.
- 23. Nếu Tỳ-kheo bị bệnh cần uống sữa chua, dầu,
mật, đường phèn, sữa tươi và mỡ, thì nên nhận một lần để uống 7 ngày. Nếu quá 7
ngày mà những thứ còn thừa không bỏ, vẫn cứ uống, thì phạm tội
Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 24. Nếu Tỳ-kheo cho y cho Tỳ-kheo khác, rồi sau
đó tức giận không vui, hoặc tự mình, hoặc sai người đọat lại y ấy, thì khi được
y, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 25. Trong vòng một tháng cuối mùa xuân, Tỳ-kheo
nên tìm vải may áo tắm mưa, rồi trong nửa tháng còn lại nên may thành áo để
dùng. Nếu chưa đến thời gian đó mà đi tìm vải may áo tắm mưa rồi may thành áo
để dùng, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 26. Nếu Tỳ-kheo tự đi xin chỉ sợi, rồi nhờ thợ
dệt không phải bà con dệt thành vải, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 27. (552a) Nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ sai thợ dệt dệt vải để may y cho Tỳ-kheo, nhưng
Tỳ-kheo trước đó không được mời, mà vì thích đẹp, nên đến khuyên thợ dệt: “Lành
thay cư sĩ! Tấm vải này dệt cho tôi đó. Ông nên dệt cho thật đẹp, dày, dài và
rộng, rồi tôi sẽ trả công cho ông bằng tiền hoặc bằng thực phẩm”, thì khi nhận
được vải, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 28. Nếu còn 10 hôm nữa mới đến ngày Tự tứ, mà
thí chủ cúng dường y cấp thời, thì Tỳ-kheo nào cần dùng được phép nhận, rồi cất
cho đến thời gian của y. Nếu cất quá thời gian ấy thì phạm tội
Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
- 29. Nếu Tỳ-kheo sống tại A-luyện-nhã trong ba
tháng hạ, chưa đến tháng cuối mùa hạ mà gặp những việc đáng nghi ngờ lo sợ thì
có thể gởi một trong ba y tại nhà dân, sống cách ly với y trong 6 hôm. Nếu quá
6 hôm thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề; ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
- 30. Nếu Tỳ-kheo biết vật đó thí chủ định cúng
cho Tăng, mà vận động họ cúng cho mình, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. (Hết
30 việc)
Thưa
các Đại đức, tôi đã tụng xong 30 pháp Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, giờ xin hỏi các Đại
đức ở trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì
các Đại đức ở trong đây thanh tịnh nên im lặng; tôi ghi nhận việc này như vậy.
Thưa
các Đại đức! Đây là 92 pháp Ba-dạ-đề
cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc lại một lần vào dịp tụng giới.
- 1. Nếu Tỳ-kheo
biết mà cố ý nói dối thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 2. Nếu Tỳ-kheo
đem chủng tộc tướng mạo của Tỳ-kheo khác ra châm chọc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 3. Nếu Tỳ-kheo
nói 2 lưỡi thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 4. Nếu Tỳ-kheo
biết Tăng đã dập tắt sự tranh chấp đúng như pháp, như luật mà muốn làm phát
sinh trở lại, nói: “Việc Yết-ma này chưa xong, phải làm lại”, làm như vậy là
nhằm gây rối chứ không gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 5. Nếu Tỳ-kheo
thuyết pháp cho người nữ quá 5, 6 lời, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ có
người đàn ông trí thức tham dự.
- 6. Nếu Tỳ-kheo
dạy người chưa thọ giới Cụ túc đọc những câu, những bài pháp, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 7. Nếu Tỳ-kheo
nói với người chưa thọ giới Cụ túc rằng mình đã được pháp hơn người như sau:
“Tôi biết như vậy, thấy như vậy”, thì dù nói thật cũng phạm tội Ba-dạ-đề.
- 8. Nếu Tỳ-kheo
biết tội thô ác của Tỳ-kheo khác mà đem nói với người chưa thọ giới Cụ túc, thì
phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
- 9. (552b) Nếu Tỳ-kheo nào lúc đầu đã đồng ý đem vật
dùng để chia cho Tăng cho người khác, nhưng sau đó ngăn cản, nói: “Trưởng lão,
thầy có ý thiên vị nên đem vật của Tăng cho người ấy”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 10. Nếu vào dịp tụng giới của mỗi nửa tháng mà
Tỳ-kheo nào nói: “Trưởng lão, thầy tụng làm chi ba cái giới lặt vặt ấy khiến
cho các Tỳ-kheo sinh ra nghi ngờ, hối hận!”, nói như thế là nhằm khinh chê giới
luật chứ không gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 10 việc)
- 11. Nếu Tỳ-kheo hủy họai mầm sống của cây, phá hỏng
chỗ ở của quỷ, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 12. Nếu Tỳ-kheo nói những vấn đề khác làm não
loạn người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 13. Nếu Tỳ-kheo chê trách chức sự của Tăng, thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
- 14. Nếu Tỳ-kheo tự mình hay sai người khác đem
bày biện giường nằm, ghế ngồi, mền gối ở chỗ đất trống nơi trú xứ của Tăng, rồi
lúc ra đi không tự mình cất hay sai người đem cất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 15. Nếu Tỳ-kheo tự mình hay sai người khác trải
giường nệm trong phòng của chúng Tăng, rồi lúc ra đi không tự mình hay sai
người khác đem cất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 16. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui mà tự mình
hay sai người lôi Tỳ-kheo khác ra khỏi phòng của Tăng, dù chỉ nói: “Ông hãy đi
đi!”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 17. Nếu Tỳ-kheo biết trong phòng của Tăng đã có
Tỳ-kheo khác trải giường nệm trước rồi, mình đến sau cũng trải đồ đạc ra, với ý
định làm nhiễu loạn, để người kia bỏ đi chứ không có gì khác, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 18. Nếu Tỳ-kheo đặt giường có chân nhọn trên
lầu, trên gác của Tăng để ngồi, hoặc nằm, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 19. Nếu Tỳ-kheo biết nước có sinh trùng mà tự
mình hoặc sai người đem tưới trên cỏ, trên đất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 20. Nếu Tỳ-kheo tự kinh doanh làm phòng lớn có
cửa lớn, cửa sổ, thì nên làm ở chỗ đất ít cỏ, rồi sai người lợp chừng 3 lớp là
vừa. Nếu lợp quá 3 lớp, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (hết 20 việc)
- 21. Nếu Tỳ-kheo nào không được Tăng sai mà tự đi
giáo giới Tỳ-kheo-ni, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 22. Nếu Tỳ-kheo nào được Tăng sai đi giáo giới
Tỳ-kheo-ni mà ở lại từ lúc mặt trời lặn cho đến trước bình minh hôm sau, thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
- 23. Nếu Tỳ-kheo nào đến trú xứ của Ni giáo giới
mà không bạch với thiện Tỳ-kheo, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trường hợp
đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là khi bị bệnh.
- 24. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Trưởng
lão vì việc ăn uống mà giáo giới Tỳ-kheo-ni”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 25. Nếu Tỳ-kheo ngồi với một Tỳ-kheo-ni ở chỗ
trống vắng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 26. (552c) Nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung đường với Tỳ-kheo-ni, dù chỉ đi qua một làng,
thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 27. Nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung thuyền với
Tỳ-kheo-ni, ngược dòng hay xuôi dòng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ đi đò
ngang qua sông.
- 28. Nếu Tỳ-kheo cho y cho Tỳ-kheo-ni không phải
thân quyến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 29. Nếu Tỳ-kheo may y cho Tỳ-kheo-ni không phải
thân quyến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 30. Nếu Tỳ-kheo biết bữa ăn ấy do Tỳ-kheo-ni vận động
mới có, mà ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 31. Nếu gia đình nào chỉ cúng dường một bữa ăn
mà Tỳ-kheo không bệnh ăn hơn một bữa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 32. Nếu Tỳ-kheo ăn nhiều chỗ (trong ngày), thì
phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ khi có bệnh, khi sắm y.
- 33. Nếu Tỳ-kheo ăn no rồi, rời khỏi chỗ ngồi,
không làm phép tàn thực mà ăn lại, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 34. Nếu Tỳ-kheo nào biết vị Tỳ-kheo khác ăn no
rồi, rời khỏi chỗ ngồi, không làm phép tàn thực, mà muốn làm não loạn, nên mời:
“Trưởng lão, hãy ăn món này”, rồi vị ấy ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 35. Nếu thức ăn người ta không cho, thì Tỳ-kheo
không được lấy bỏ vào miệng. Nếu bỏ vào miệng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ
nước và tăm xỉa răng.
- 36. Nếu Tỳ-kheo ăn phi thời, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 37. Nếu Tỳ-kheo để dành thức ăn mà ăn, thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
- 38. Nếu Tỳ-kheo đến nhà bạch y, mà họ cúng dường
bánh bún một cách hào phóng, thì nên nhận chừng ba bát, rồi ra ngoài cùng ăn
với Tỳ-kheo không bệnh. Nếu nhận quá số ấy và không cùng ăn với người khác, thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
- 39. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà vì muốn sướng thân
đi xin các thức mỹ vị như sữa tươi, sữa chua, sữa đóng váng, dầu, mật, đường
phèn, cá, thịt để ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 40. Nếu Tỳ-kheo ăn với một nhóm riêng, thì phạm
tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ khi bệnh, khi sắm y, khi đi đường, khi ở trên thuyền,
khi đại chúng đại hội, khi ngoại đạo bố thí ẩm thực. (Hết 40 việc).
- 41. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà vì bản thân, hoặc tự
mình, hoặc sai người đốt cỏ, cây, phân bò, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ có
lý do chính đáng.
- 42. Nếu Tỳ-kheo ngủ chung một phòng với người
chưa thọ giới Cụ túc quá 3 đêm, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 43. Nếu Tỳ-kheo gởi dục yết ma rồi, sau đó tức
giận không vui, nói thế này: “Tôi không gởi dục (về việc) không tốt ấy. Pháp
Yết-ma đó không thành tựu. Tôi không gởi dục trong trường hợp này”, thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
- 44. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Trưởng
lão, thầy đi với tôi vào xóm làng, tới nhà kia, rồi tôi sẽ đưa hoặc bảo người
khác đưa thức ăn cho thầy”, nhưng sau đó muốn đuổi người ấy đi, bèn nói: “Ông
hãy đi đi, tôi ngồi với ông không vui, tôi ngồi một mình vui hơn”, làm như thế
(là để cho người kia mất ăn chứ không có gì khác), thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 45. Nếu Tỳ-kheo nói thế này: “Trưởng lão, tôi
biết đức Thế Tôn nói về pháp chướng ngại đạo, nhưng khi thực hành pháp ấy thì
không có gì là chướng ngại hết”, thì các Tỳ-kheo nên khuyên can rằng: “Trưởng
lão! Thầy đừng hủy báng đức Thế Tôn. Hủy báng đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế
Tôn không nói như thế. Đức Thế Tôn nói pháp chướng ngại đạo thì quả thực là
chướng ngại đạo. Thầy hãy bỏ việc ác này đi”. Khi khuyên can như thế mà vẫn kiên
trì không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba (cho bỏ việc ấy). Nếu
bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Tăng nên làm Yết-ma cử tội
Tỳ-kheo ấy.
- 46. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác không bỏ ác
kiến, Tăng đã làm Yết-ma cử tội đúng pháp, đúng luật, nhưng vị ấy chưa làm đúng
pháp, đúng luật mà cùng ăn chung, ở chung một phòng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 47. Nếu Sa-di nói thế này: “Đức Như Lai nói rằng
dâm dục là pháp chướng ngại đạo, nhưng tôi biết rằng khi thực hiện dâm dục
không phải là chướng ngại đạo”, thì các Tỳ-kheo nên khuyên can rằng: “Này Sa-di
kia, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn. Hủy báng Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn
không nói như thế. Đức Thế Tôn nói rằng dâm dục quả thật là pháp chướng đạo.
Ngươi hãy bỏ việc ác này đi”. Khi khuyên can như vậy mà kiên trì không bỏ thì
nên khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phải
đuổi đi, nói: “Từ nay về sau, ngươi không được nói rằng Phật là thầy của tôi,
cũng không được ngủ với Tỳ-kheo 3 đêm. Ngươi đi đi, không được ở đây nữa”. Nếu
Tỳ-kheo biết Sa di không bỏ ác kiến, bị đuổi đi, chưa làm đúng pháp mà dụ dỗ
đem về nuôi dưỡng, cùng ăn chung, sống chung, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 48. Nếu Tỳ-kheo được y mới thì nên dùng 3 màu:
xanh, đen, mộc lan, hoặc một trong 3 màu nhuộm cho hoại sắc. Nếu không làm cho
hoại sắc mà mặc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 49. Nếu Tỳ-kheo tự mình, hoặc bảo người lấy
những vật báu hoặc những bảo vật có giá trị tại trú xứ của Tăng, thì phạm tội
Ba-dạ-đề; ngoại trừ tự lấy cất đợi chủ đến tìm mà trả lại.
- 50. Nếu Tỳ-kheo chưa đủ nửa tháng mà tắm một lần
thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trong hai tháng rưỡi đặc biệt, tức một tháng
rưỡi cuối mùa xuân, một tháng đầu mùa hạ, và những khi trời nóng, khi bệnh, khi
gió, khi mưa, khi làm việc và khi đi đường. (Hết 50 việc)
- 51. (553a) Nếu Tỳ-kheo biết nước có sinh trùng mà uống thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 52. Nếu Tỳ-kheo tự tay đưa thức ăn cho nam nữ
đạo sĩ lõa thể thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 53. Nếu Tỳ-kheo biết nơi đó là chỗ để hành dâm
của nhà mình thọ trai, mà ngồi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 54. Nếu Tỳ-kheo biết nơi đó là chỗ kín đáo của
nhà mình thọ trai, mà ngồi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 55. Nếu Tỳ-kheo xem quân sĩ xuất trận thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
- 56. Nếu Tỳ-kheo có lý do chính đáng thì được đến
ở lại trong quân trại 3 đêm. Nếu ở quá 3 đêm thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 57. Nếu Tỳ-kheo có lý do chính đáng thì được ở
lại trong quân trại 3 đêm. Nhưng nếu xem quân sĩ xuất trận, phất cờ, nghinh
chiến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 58. Nếu Tỳ-kheo giận dữ không vui, đánh Tỳ-kheo
khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 59. Nếu Tỳ-kheo tức giận không vui dơ tay dọa
đánh Tỳ-kheo khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 60. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác phạm tội thô
ác mà che giấu, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 60 việc).
- 61. Nếu Tỳ-kheo cố ý sát hại mạng sống của súc
sinh thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 62. Nếu Tỳ-kheo cố ý làm cho Tỳ-kheo khác sinh
hoang mang, nghi ngờ, không vui trong giây lát, nhằm để chơi đùa chứ không có
gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 63. Nếu Tỳ-kheo đã tịnh thí y cho 5 chúng (xuất gia),
sau đó còn lấy dùng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 64. Nếu Tỳ-kheo vì chơi đùa mà tự mình hoặc sai
người đem giấu y, bát, tọa cụ, ống đựng kim của Tỳ-kheo khác, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 65. Nếu Tỳ-kheo làm cho Tỳ-kheo khác sợ hãi, thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
- 66. Nếu Tỳ-kheo đùa giỡn trong nước, thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
- 67. Nếu Tỳ-kheo dùng tay chỉ chỏ nhau, thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
- 68. Nếu Tỳ-kheo hẹn ước cùng đi chung đường với
người nữ, dù chỉ đi qua một làng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 69. Nếu Tỳ-kheo cùng ngủ chung một nhà với người
nữ, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 70. Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ
kín đáo, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (hết 70 việc).
- 71. Nếu Tỳ-kheo biết người kia chưa đủ 20 tuổi
mà cho thọ giới Cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Người ấy đã không được gọi là
thọ giới Cụ túc, mà các Tỳ-kheo còn đáng bị khiển trách.
- 72. Nếu Tỳ-kheo biết những kẻ ấy là quân trộm
cướp mà hẹn đi chung đường với chúng, dù chỉ đi qua một làng, thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 73. (553c) Nếu Tỳ-kheo tự tay đào đất, hoặc chỉ bảo người khác, nói: “Đào chỗ đất
này”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 74. Nếu có thí chủ xin cúng dường cho Tỳ-kheo 4
tháng thì Tỳ-kheo được nhận. Nhưng nếu nhận quá thời gian ấy, thì phạm tội
Ba-dạ-đề; ngoại trừ họ mời lại, hay mời lâu dài.
- 75. Nếu Tỳ-kheo được các Tỳ-kheo khuyên: “Trưởng
lão, thầy phải học, đừng phạm 5 thiên tội”, mà nói: “Tôi không nghe lời thầy.
Nếu có vị Trưởng lão nào các căn tịch tịnh, nghe nhiều, giữ giới, hiểu rộng thì
tôi sẽ theo học hỏi, và vị ấy có chỉ bảo điều gì thì tôi sẽ tuân hành”, thì
phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trường hợp đặc biệt là khi vị Tỳ-kheo ấy muốn được
lợi ích của chánh pháp và muốn hỏi Tỳ-kheo khác.
- 76. Nếu Tỳ-kheo uống các thứ rượu thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
- 77. Nếu Tỳ-kheo khinh thường Tỳ-kheo khác thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
- 78. Khi các Tỳ-kheo tranh cãi nhau mà Tỳ-kheo
nào đứng im lặng lắng nghe, với suy nghĩ: “Họ có nói điều gì ta hãy ghi nhớ”,
chỉ vì mục đích như thế chứ không có gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 79. Khi Tăng họp giải quyết công việc mà Tỳ-kheo
nào không gởi dục, đứng dậy bỏ đi không bạch với Tăng thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 80. Nếu Tỳ-kheo ở nơi A-luyện-nhã đi vào thôn
xóm lúc phi thời mà không bạch với thiện Tỳ-kheo thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại
trừ có việc gấp. (Hết 80 việc)
- 81. Nếu Tỳ-kheo ăn ở cùng một chỗ với Tỳ-kheo
khác mà trước bữa ăn, sau bữa ăn không bạch với thiện Tỳ-kheo, đi đến nơi khác,
thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ thời gian của y.
- 82. Nếu Tỳ-kheo đi vào cung vua khi phu nhân
(của vua) chưa cất bảo vật, dù chỉ bước vào khỏi cửa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 83. Nếu Tỳ-kheo đục khoét xương, răng, sừng làm
ống đựng kim thì phải phá bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
- 84. Nếu Tỳ-kheo làm chân giường thì phải làm cao
chừng 8 ngón tay Phật, trừ chỗ tra vào thành giường. Nếu cao quá mức ấy thì
phải cắt bỏ (rồi sám hối) tội Ba-dạ-đề.
- 85. Nếu Tỳ-kheo dùng bông vải làm nệm để ngồi
hoặc nằm, thì phải moi bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
- 86. Nếu Tỳ-kheo làm tọa cụ thì phải làm đúng mức
quy định: chiều dài 2 gang tay Phật, chiều rộng một gang tay rưỡi, rồi may thêm
(mỗi chiều) một gang tay rưỡi. Nếu làm quá mức quy định thì phải cắt bỏ rồi sám
hối tội Ba-dạ-đề.
- 87. Nếu Tỳ-kheo may áo che ghẻ thì phải may
chiều dài 4 gang tay Phật, chiều rộng 2 gang tay. (554a) Nếu quá mức quy
định thì phải cắt bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
- 88. Nếu Tỳ-kheo may áo tắm mưa thì phải may
chiều dài 6 gang tay Phật, chiều rộng 2 gang tay rưỡi. Nếu may quá giới hạn thì
phải cắt bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
- 89. Nếu Tỳ-kheo may y thì phải may theo kích
thước y của đức Như Lai. Y của Như Lai chiều dài 9 gang tay Phật, chiều rộng 6
gang tay Phật. Nếu may quá giới hạn ấy thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 90. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui mà vô cớ
vu khống Tỳ-kheo khác phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 91. Nếu Tỳ-kheo biết vật đó thí chủ định cúng
cho Tăng, mà vận động cúng cho người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
- 92. Khi Tăng tụng giới vào mỗi nửa tháng mà
Tỳ-kheo nào nói rằng: “Trưởng lão, nay tôi mới biết pháp ấy được đưa vào giới
kinh để đọc vào dịp tụng giới của mỗi nửa tháng”, nhưng các Tỳ-kheo biết
Tỳ-kheo ấy không những đã ngồi trong chỗ tụng giới 2, 3 lần mà còn nhiều hơn
nữa, thì Tỳ-kheo ấy không thể lấy lý do không biết để mà chạy tội. Khi ấy Tăng
phải tùy theo vị ấy phạm tội nào mà trị tội ấy đúng pháp, đồng thời nên khiển trách:
“Trưởng lão, thầy đã để mất lợi ích. Khi tụng giới vào mỗi nửa tháng, thầy
không tôn trọng, không chú tâm lắng tai nghe giới”. Khiển trách xong, Tỳ-kheo
ấy phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 92 việc)
Thưa
các Đại đức, tôi đã tụng xong 92 pháp Ba-dạ-đề. Giờ xin hỏi các Đại đức trong
đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần).
Vì
các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng; việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa
các Đại đức, đây là 4 pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni
cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
- 1. Nếu Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã không có bệnh,
không thông tri trước (với người bên ngoài), người bên ngoài không hay biết mà
ở ngay trong trú xứ nhận lấy thức ăn, rồi nhai, hoặc nuốt, thì phải đến Tỳ-kheo
khác hối lỗi rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là
cách hối quá.
- 2. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà nhận lấy thức ăn
của Tỳ-kheo-ni không phải bà con tại nhà bạch y, thì phải đến Tỳ-kheo khác sám
hối rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối
quá.
- 3. Nếu Tỳ-kheo được bạch y mời đến nhà thọ
trai, mà khi ấy có Tỳ-kheo-ni đứng trước (bàn ăn) chỉ bảo (bạch y), nói: “Hãy
bưng cơm cho Tỳ-kheo này, bưng canh cho Tỳ-kheo kia, hoặc dọn cá, dọn thịt
v.v…”, thì các (554b) Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Này chị
em, hãy đứng yên trong chốc lát, đợi các Tỳ-kheo ăn xong đã”. Nếu không có một
Tỳ-kheo nào khiển trách Tỳ-kheo-ni ấy, thì các Tỳ-kheo phải đến Tỳ-kheo khác
sám hối rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối
quá.
- 4. Nếu có học gia nào Tăng đã làm pháp Yết-ma
học gia, mà Tỳ-kheo nào không được mời trước lại đến đó tự tay nhận lấy thức ăn
rồi nhai hoặc ăn, thì Tỳ-kheo ấy phải đến Tỳ-kheo khác sám hối rằng: “Thưa
Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối quá.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 4 pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni.
Giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi
ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là các pháp chúng học cứ nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
- Cần phải học: mặc nội y tề chỉnh.
- Cần phải học: mặc 3 y tề chỉnh.
- Cần phải học: khéo che thân kín đáo khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: nhìn thẳng phía trước khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: nói nhỏ nhẹ khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: không được cười khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: không được trùm đầu khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: không được lật trái y khi vào nhà bạch y.
- Cần phải học: không được đi nhón gót khi vào nhà bạch
y.
- Cần phải học: không được chống nạnh khi vào nhà bạch y.
(10 việc)
- Cần phải học: không được đi lắc lư cái thân khi vào nhà
bạch y.
- Cần phải học: không được lúc lắc cái đầu khi vào nhà
bạch y.
- Cần phải học: không được đánh đàng xa khi vào nhà bạch
y.
- Cần phải học: che thân kín đáo khi ngồi trong nhà bạch y.
- Cần phải học: nhìn thẳng phía trước khi ngồi trong nhà
bạch y.
- Cần phải học: nói nhỏ nhẹ khi ngồi trong nhà bạch y.
- Cần phải học: không được cười khi ngồi trong nhà bạch
y.
- Cần phải học: không được trùm đầu khi ngồi trong nhà
bạch y.
- (554c)
Cần phải học: không được lật trái y khi ngồi trong nhà bạch y.
- Cần phải học: không được ngồi bó gối trong nhà bạch y
(20 việc).
- Cần phải học: không được ngồi tréo chân trong nhà bạch
y.
- Cần phải học: không được ngồi chống nạnh trong nhà bạch
y.
- Cần phải học: không được múa máy tay chân khi ngồi
trong nhà bạch y.
- Cần phải học: chú tâm khi nhận thức ăn.
- Cần phải học: ăn cơm và canh bằng nhau.
- Cần phải học: không được moi xung quanh bát mà ăn.
- Cần phải học: không được ngậm cơm búng má mà ăn.
- Cần phải học: không được le lưỡi mà ăn.
- Cần phải học: không được ăn cơm lớn miếng.
- Cần phải học: không được hả miệng chờ cơm mà ăn. (30
việc)
- Cần phải học: không được chọn thức ăn mà ăn.
- Cần phải học: không được cắn một nửa món ăn mà ăn.
- Cần phải học: không được ngậm cơm mà nói.
- Cần phải học: không được dùng tay vét bát mà ăn.
- Cần phải học: không được liếm tay mà ăn.
- Cần phải học: không được mút ngón tay mà ăn.
- Cần phải học: không được nhai thức ăn ra tiếng.
- Cần phải học: không được hút thức ăn mà ăn.
- Cần phải học: không được nuốt nguyên vẹn thức ăn.
- Cần phải học: không được làm đổ tháo cơm trong khi ăn.
(40 việc)
- Cần phải học: không được vung tay khi ăn.
- Cần phải học: không được ngó thức ăn trong bát của
người bên cạnh với tâm so sánh.
- Cần phải học:
chú tâm nhìn vào bát mà ăn.
- Cần phải học: khi không bệnh không được đòi thức ăn
ngon cho mình.
- Cần phải học: không được lấy cơm phủ trên canh để mong
được thêm canh nữa.
- Cần phải học: không được dùng tay dơ bẩn cầm bát đựng
cơm.
- Cần phải học: không được đem thức ăn thừa trong bát đổ
xuống đất.
- (555a) Cần phải học: không được đứng
thuyết pháp cho người ngồi nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được ngồi thuyết pháp cho người nằm
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được ngồi dưới thấp thuyết pháp cho
người ngồi trên giường cao nghe, ngoại trừ khi bệnh. (50 việc)
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người mang
giày da nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người mang
guốc nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người trùm đầu
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người quấn đầu
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người ngồi
chòm hỏm bó gối nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người đứng
nhón gót nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm đao
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm cung
tên nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm gậy
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm dù
nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được đi sau thuyết pháp cho người
đi trước mình nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được thuyết pháp cho người ngồi
trên ngựa, trên xe nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: mình ở ngoài lề đường, không được thuyết
pháp cho người ở giữa đường nghe, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên
cỏ tươi, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được đại tiểu tiện và khạc nhổ
trong nước, ngoại trừ khi bệnh.
- Cần phải học: không được đứng đại tiểu tiện, ngoại trừ
khi bệnh.
(Hết 66 pháp chúng học)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong các pháp chúng học, giờ
xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi
ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là 7 pháp Diệt tránh cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng
giới.
- Tùy theo việc nào, tùy theo người nào nên cho pháp Tỳ-ni
Hiện tiền, thì cho pháp Tỳ-ni Hiện tiền.
- Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Ức niệm, thì cho pháp
Tỳ-ni Ức niệm.
- (555b) Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Bất
si, thì cho pháp Tỳ-ni Bất si.
- Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Tự ngôn trị, thì cho pháp
Tỳ-ni Tự ngôn trị.
- Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Mích tội tướng thì cho
pháp Tỳ-ni Mích tội tướng.
- Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Đa nhơn mích tội tướng,
thì cho pháp Tỳ-ni Đa nhơn mích tội tướng.
- Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Như thảo phú địa, thì cho
pháp Tỳ-ni Như thảo phú địa.
(Hết 7 pháp Diệt tránh)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 7 pháp Diệt tránh, giờ xin
hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi
ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là pháp tùy thuận cứ mỗi nửa tháng, nửa
tháng đọc một lần vào dịp tụng giới. Tùy thuận hành trì pháp này tức là tùy
thuận hai bộ Tỳ-ni vậy.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong pháp tùy thuận, giờ xin hỏi
các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi
ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng bài tựa của giới kinh, đã tụng 4
pháp Ba-la-di, đã tụng 13 pháp Tăng-già-bà-thi-sa, đã tụng 2 pháp Bất định, đã
tụng 30 pháp Ni-tát-kì-Ba-dạ-đề, đã tụng 92 pháp Ba-dạ-đề, đã tụng 4 pháp
Ba-la-đề-đề-xá-ni, đã tụng các pháp chúng học, đã tụng 7 pháp Diệt tránh, đã
tụng pháp tùy thuận. Đó là giới luật của đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri
được đưa vào trong giới kinh. Pháp này là pháp Tùy thuận, tất cả đều phải học,
không được vi phạm.
Phật dạy (về 7 bài kệ
của 7 đức Phật):
1. Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng
Tăng tịch tĩnh, mà nói giới tóm tắt như sau:
“Nhẫn nhục đạo bậc nhất,
Niết-bàn đích tối thượng.
Xuất gia não hại người,
Không đáng gọi Sa-môn”.
2.
Đức Thi-khí Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói
giới tóm tắt như sau:
“Cũng như người sáng mắt,
Tránh được đường nguy hiểm.
Bậc thông minh trong đời,
Tránh xa mọi điều ác”.
3.
Đức Tỳ-diệp-bà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói
giới tóm tắt như sau:
“Không bới móc, tật đố,
Tuân hành các học giới,
Ăn uống có điều độ,
Thường ở chỗ thanh vắng.
Tâm tịnh vui tinh tấn,
Là lời chư Phật dạy”.
4.
Đức Câu-lưu-tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói
giới tóm tắt như sau:
“Tỳ-kheo vào xóm làng,
Như ong đi tìm hoa
Hút mật rồi bay đi,
Chẳng hại gì hương sắc.
Không phá hoại việc
người,
Không xem làm hay
không;
Chỉ xét hành vi mình,
Có tốt hay không tốt”.
5. Đức Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì
chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Muốn tâm mình tốt chớ
buông lung,
Thiện pháp Thánh nhân
luôn gắng học.
Những người trí tuệ tâm
chuyên chú,
Phiền não ưu sầu đoạn
tuyệt ngay”.
6. Đức Ca-diếp Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng
tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Chớ làm mọi điều ác,
Tuân hành các hạnh
lành,
Giữ tâm chí trong sạch,
Là lời chư Phật dạy”.
7.
Đức Thích-ca-mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà
nói giới tóm tắt như sau:
“Lành thay phòng hộ thân,
Khéo giữ gìn lời nói.
Lành thay phòng hộ tâm,
Tất cả đều khéo giữ.
Tỳ-kheo giữ tất cả,
Sẽ xa lìa thống khổ.
Tỳ-kheo giữ miệng ý,
Giữ thân không làm ác,
Ba nghiệp đều thanh tịnh,
Chắc chắn được Thánh quả.
Ai đánh mắng mình, không trả đũa.
Ai oán hận ta vẫn tự nhiên.
Với người sân hận, lòng thanh thản
Mặc ai làm ác, ta không làm.
Bảy đức Phật Thế Tôn,
Thường cứu độ thế gian,
(556a) Từng thuyết giới kinh này,
Giờ tôi đã tụng xong.
Chư Phật và đệ tử,
Đều tôn kính giới này.
Vừa tôn kính giới kinh,
Vừa kính trọng lẫn nhau,
Ai đầy đủ tàm quý,
Sẽ được đạo vô vi”.
Tôi
đã tụng xong giới kinh. Tăng đã nhất tâm Bố-tát hoàn mãn. Sau đây là tóm tắt
giới Ma-ha-tăng-kỳ:
“Giữ thân miệng trong sạch,
Nhiếp tâm luôn ghi nhớ.
Nghe nhiều trí huệ sinh,
Đều lấy giới làm gốc.
Giới là kho châu báu,
Cũng là bảy thánh tài.
Giới là vị thuyền trưởng,
Chèo qua biển sinh tử.
Giới là ao nước trong,
Tẩy rửa mọi phiền não.
Giới là thuật vô úy,
Tiêu trừ các độc hại.
Giới là người bạn lành,
Dắt mình qua nẻo ác.
Giới là vị cam lồ,
Chư Thánh đều nhờ giới.
Giữ giới tâm bất động,
Chuyên tinh không phóng dật.
Không hủy hoại giới tướng,
Tâm cũng không tà vạy,
Mới gọi là tịnh giới.
Được chư Phật tán dương.
Thế nên hãy hoan hỷ,
Giữ giới thân thanh tịnh”.
Giới bản của Đại Tỳ-kheo thuộc
Luật Ma-ha-tăng-kỳ đến đây là hết.