Phần 1: Cốt Tủy Của Đạo Phật

08/07/20204:50 SA(Xem: 7562)
Phần 1: Cốt Tủy Của Đạo Phật

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM BẠCH MÃ
THÍCH TÂM HẠNH
ĐẶC TRƯNG TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ 
CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


PHẦN 1:
CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT

01 Cot tuy dao Phat

 

 Chương 1:

TRI VỌNG THƯỢNG THỪA

 

Bản chất “Pháp Tri vọng” vốn là phương pháp hành trì của Thiền Tối Thượng Thừa. Nhưng chúng ta phải thực hành như thế nào để không bị sai lầm, để đúng với bản chất vốn có của nó là Thiền Tối Thượng Thừa?

Chọn “Pháp Tri vọng” để nói, bởi đây là phương pháp phổ cập. Bất kỳ căn cơ nào cũng có thể ứng dụng thực hành được.

 

 Phần 1: CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT

 

 1. MỤC ĐÍCH CỦA ĐẠO PHẬT.

Mục đích của Đạo Phậtgiác ngộ, giải thoát sanh tửtừ bi hóa độ chúng sinh.

Sau khi đức Phật nhập diệt 100 năm. Đạo Phật được chia ra làm nhiều tông phái khác nhau. Hiện nay, đạo Phật có mười tông phái. Như: Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Thiền tông, Mật tôngTịnh Độ tông v.v... Tuy có nhiều tông phái như thế, nhưng vẫn không ngoài ba mục đích chính, đó là: “Giác ngộ - Giải thoát sanh tửtừ bi hóa độ chúng sinh”.

1.1.    Giác ngộ.

a)    Cuộc đời vô thường, khổ, không, vô ngã.

Cuộc đời vốn vô thường biến đổi sanh diệt. Tuy có khổ có vui, nhưng niềm vui ấy không bền chắc. Sau niềm vui thì đổi lại là lắm khổ não. Vui ít khổ nhiều cho nên nó cũng chỉ mang tính chất đau khổ. Cuộc thế là không, bởi tạm có rồi vụt tan. Khi đang có cũng như ánh trăng trong nước, không thật có. Cuộc đờivô ngã bởi tất cả đều do nhiều nhân duyên, nhiều yếu tố hợp lại mà thành; không có một thứ duy nhất (chủ tể) tạo nên. Vô thường, khổ, không, vô ngã là bốn chân lý, là tứ pháp ấn của đạo Phật. Sự thật của nhân gian là như thế. Hiểu ngược lại là thấy biết sai với lẽ thật, không đúng chân lý, là mê lầm và tất yếu phải chịu khổ đau. Người nhận ra đúng bản chất thật là thấy đúng chân lý, là giác ngộ.

b)   Thân, tâm sanh diệt, các pháp là duyên hợp, huyễn hóa.

Cuộc đời là nói bao quát, nói chung, mà tồn tại trong đờicon người và mọi thứ chung quanh (ngã và ngã sở). Con người thì có thân và tâm phân biệt. Cuộc đời đã huyễn hóa thì mọi thứ trong đời, mà cụ thể là thân, tâm sanh diệt và các pháp (muôn sự muôn vật) không thể nương vào đâu để chắc thật được. Thử tĩnh lặng tâm lại, trí sẽ sáng ra. Sẽ thấy sâu thân này, tâm khởi nghĩ này và muôn sự muôn vật đều do duyên hợp, huyễn hóa, không thật. Thấu suốt tột cùng sẽ không còn các mê lầm do chấp thật mà có. Để sống trên các pháp mà tâm tự lìa các pháp. Sẽ ngay đây nhận ra tự tánh sáng biết chưa từng thiếu vắng. Lâu nay đang sống trên nó nhưng lại bận theo cảnh duyênbỏ sót nó, phải chịu khổ đau một cách oan uổng vô cùng. Mới biết giá trị giác ngộ của đạo Phậttrước mắt, nhưng chúng sinh tự lầm qua.

c)  Tỏ sáng, đạt ngộ bản tâm chân thật chính mình.

Thấy rõ bản chất thật của cuộc đời, con người và muôn sự muôn vật vốn là huyễn hóa, không thật. Thấu suốt tột cùng như thế là giác ngộ chân lý thật, nhưng vẫn chỉ là sự giác ngộ bên ngoài và của buổi đầu mới học đạo. Bởi lẽ, dù rằng rõ ràng sự thật bản chất của thân, tâm và mọi thứ trên đời là huyễn hóa, không thật, ai cũng từng nghe biết. Nhưng có người không giác ngộ để sống đúng, vẫn như chưa từng nghe biết gì. Và cũng có người nghe qua thì cuộc sống từ đây bắt đầu thay đổi theo hướng tích cực, không còn lầm chấp để đưa đến khổ đau. Mới thấy, người đủ duyên thấu suốt, thấy tột, nhận ra, thấy rõ được chân lý huyễn hóa của cuộc thế này là do bản tâm giác ngộ sẵn đủ bên trong của họ nhắc thức. Và thấy tột mọi thứ huyễn hóa để không lầm chấp, để tu tập thì mới có cơ hội nhận ra bản tâm giác ngộ nơi chính mình. Do đó, muốn đạt đến cội nguồn giác ngộ thì phải tu hành tỏ sáng, đạt ngộ bản tâm chân thật nơi chính mỗi người, mới có đầy đủ lực dụng và trí tuệ suốt thông tất cả.

1.2. Giải thoát sanh tử.

Bằng vào tâm tánh đã tỏ ngộ, sức sống định tuệ tròn đầy, an lạc vô biên, các pháp không còn đủ sức chi phối, ngay đây được tự tại giải thoát. Tuy nhiên, tinh thần giải thoát trong đạo Phật vẫn có hai hướng tiến khác nhau, cho nên sự giải thoát cũng có hai kết quả không đồng. Hai tinh thần ấy có ra từ Phật giáo Nguyên Thủy (Nam truyền) và Phật giáo Phát Triển (Bắc truyền).

Với Phật giáo Nguyên Thủy (Nam truyền) thì giải thoát là phải tránh sanh tử, bỏ tam giới, an trú vào trong Niết-bàn tịch tịnh để chấm dứt sanh tử.

Với Phật giáo Phát Triển (Bắc truyền) thì giác ngộ nhận lại và sống trọn vẹn bằng bản tâm chân thật nơi chính mình, sẽ đầy đủ lực dụng làm chủ và tự tại trong sanh tử, nơi nơi đều Niết-bàn. Không có sanh tử thật đáng sợ, không có một nơi Niết-bàn cố định tịch diệt để an trú.

1.3. Từ bi hóa độ chúng sinh.

Độ sanhhạnh nguyện cao cả của đạo Phật. Nhưng thật hơn cả là bất kỳ ai sống bằng tự tâm giác ngộ, đại lực dụng được phát huy, có vô biên lực thì giáo hóa độ sanh như là một điều hiển nhiên sau đó. Như người đang đi thì sẵn đó hai tay tự đánh đồng xa (phẩy tay) vậy thôi. Chủ động, rõ ràng mà vẫn vô tâm, không phải tác ý. Đến điền địa này, hành giả sẽ như thế mà phát đại bi tâm, tùy duyên hóa độ chúng sinh đạt đến giác ngộ, chấm dứt khổ lớn sanh tử, an lạc giải thoát như mình.

1.4.    Tóm lại.

Mục đích của đạo Phật là “Giác ngộ - Giải thoát sanh tửTừ bi hóa độ chúng sinh”. Tất cả các pháp môn tu Phật đều là của đạo Phật. Đồng hướng đến một mục đích như nhau, không khác.

 

2. CỐT LÕI TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA ĐẠO PHẬT.

Pháp Phật như tùy bệnh cho thuốc. Tâm bệnh chúng sinh đa dạng, rất nhiều cho nên thuốc cũng nhiều. Do đó nói có vô lượng hay tám vạn bốn ngàn pháp môn tu. Tuy vậy, tựu trung chỉ nằm trong hai trọng tâm“Đoạn trừ phiền nãogiác ngộ bản tâm”.

2.1.    Đoạn trừ phiền nãoCó hai tư tưởng:

a)   Tinh thần Phật giáo Nguyên thủy.

-     Thấy sanh tử có thật, phiền não thật, cuộc đời thật, cho nên có sanh tử đáng sợ.

-     Thấy có một pháp (sanh tử) thật để đoạn trừ, để tránh.

-     Có đoạn dứt sạch, tức là đoạn dứt sanh tử thật.

-     Có một cõi Niết-bàn tịch tĩnh để an trú vào đó.

b)   Tinh thần Phật giáo Phát triển.

-     Thấy phiền não, sanh tử không thật, cho nên không sợ phiền não, sanh tử.

-     Không cần đoạn trừ hay dứt sạch. Chỉ dùng Trí tuệ Bát nhã để thấu suốt, thấy tột và hàng phục.

-     Vượt trên CÓ và KHÔNG. Làm chủ, tự tại trong sanh tử.

-     Ngộ ra và sống thẳng bằng tự tánh thanh tịnh, nơi nơi đều Niết-bàn.

c)    Minh chứng.

Bậc bất hồi tâm độn A-la-hán.

Là bậc A-la-hán trụ hẳn trong Niết-bàn, không vào đời giáo hóa độ sanh.

Bậc hồi tâm đại A-la-hán.

Quý ngài không trụ trong Niết-bàn tịch tĩnhhồi tâm phát nguyện giáo hóa độ sanh, thực hành hạnh Bồ-tát để viên thành Phật đạo. Cho nên Kinh nói, Bồ tát đóng cửa các đường ác mà hay vào đời độ thoát chúng sinh.

Ngay khi giáo hóa cũng chính là lúc đang làm công hạnh Bồ-tát của mình. Tinh thần Phật giáo phát triển không thấy có phiền não thật đáng sợ. Phiền nãohuyễn hóa. Không thấy có vọng tưởng thật đáng sợ. Tu cũng chỉ là phương pháp tạm thời, chứ không có một pháp thật để chấp trong đó. Khi ngộ tự tánh thì làm chủ, tự tại trong sanh tử. Phiền não sanh tử không còn đủ sức chi phối nữa.

Ở trong sanh tử hay tránh bỏ sanh tử để được giải thoátlời nói của hai đầu (nhị biên). Còn tâm phân hai như thế là chưa rời sanh tử để bàn nói, cái thấy biết này chưa thể vượt thoát sanh tử. Mà ở bất cứ nơi đâu, tự tánh này cho chúng ta có khả năng ngay đây tự vượt thoát, tự tại giải thoát sanh tử. Không có một cõi Niết-bàn để an trụ, mà “Vô trụ xứ Niết-bàn”. Nghĩa là nơi nào cũng đều là Niết-bàn. Đời Lý ở Việt Nam, Thiền sư Thường Chiếu nói:

“Đạo vốn không  nhan sắc,

  Ngày ngày lại mới tươi.

  Trong ba ngàn thế giới,

  Đâu chẳng phải là nhà.”

Đạo không có hình tướng, nhưng mỗi sáng tọa thiền thấy có phấn khởi hơn. Đó là “mới tươi”. Bản tánh vốn rỗng lặng, sáng biết, không động. Nhưng tự tại tùy duyên hay sanh muôn pháp. Đó là “mới tươi”. Lúc nào chúng ta cũng tươi mới bởi tâm sống đạo của mình. Sống với tâm đạo đó thì đâu đâu cũng lạc an, sáng rỡ. Nơi nao cũng là nhà mình chứ không phải bỏ nơi này để đi tìm kiếm nơi khác. Còn tâm lấy bỏ thì đạo này chưa thênh thang trùm khắp như bản chất vốn có của nó. Đó chính là “Vô trụ xứ Niết-bàn”, khắp nơi đều Niết-bàn.

2.2. Giác ngộ và sống bằng bản tâm chân thật.

Ngộ ra và sống bằng bản tâm chân thật chính mình. Khéo léo tùy duyên tiêu dung tập khí. Làm chủ sanh tử, không còn bị sanh tử chi phối. Ngay trong sanh tử mà tự vượt thoát. Đây là con đường của Thiền Phát Triển. Các pháp thiền khác không nhắc đến phương pháp hành trì này.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 188948)
01/04/2012(Xem: 34455)
08/11/2018(Xem: 13373)
08/02/2015(Xem: 51500)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.