Phần 2: Phương Pháp Hành Trì Của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Hiện Nay

08/07/20204:51 SA(Xem: 7603)
Phần 2: Phương Pháp Hành Trì Của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Hiện Nay

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM BẠCH MÃ
THÍCH TÂM HẠNH
ĐẶC TRƯNG TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ 
CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


PHẦN 2:

PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ
CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM HIỆN NAY.

 

1. VÌ SAO GỌI LÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM HIỆN NAY? (Thiền Phái Trúc Lâm Đương Đại).

Hiện nay, Hòa thượng Tông chủ (Thiền sư Thích Thanh Từ) đã tiếp nốiphục hưng thành công Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong sách “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi”, Ngài nói kế thừa có phát huy. Những gì của chư vị Tổ Sư ngày xưa mà người thời nay có thể áp dụng được thì Hòa thượng kế thừa, tiếp nối. Những gì cần thiết để phù hợp cho quý vị hiện nay thì Hòa thượng phát huy.

Nếu không theo cái cũ thì không được gọi là tiếp nối. Nếu không có cái mới thì không được gọi là hiện nay. Nếu quá khứ và hiện nay chỉ là một thì không thể nói là đương đại. Thực tế, sự sáng tạo bao giờ cũng dựa trên nền tảng tái tạo. Gốc thì không mất cho nên gọi là tiếp nối, phục hưng. Mà cái mới thì phải có sự sáng tạo; kế thừa phải có sự phát huy thì mới gọi là đương đại; mới phù hợp và đem lại lợi ích cho con ngườixã hội thời nay. Vì thế, Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam hiện nay còn được gọi là Thiền phái Trúc Lâm Đương Đại.

Thiền vốn là tâm thể sẵn vậy nơi mỗi người. Do đó, thiền là thiền, không có cổ đại hay đương đại. Cổ đại hay đương đại cũng chỉ là một tâm thiền. Cho nên thiền thì đồng nhau, không khác. Có khác chăng chỉ là phương pháp dụng công (yếu tố khế cơ). Sở dĩ phương pháp dụng công có khác là do ba yếu tố“Sở trường công phu, yếu tố con người và môi trường hoàn cảnh”.

Sở trường công phu.

Ví dụ, vị Thiền sư nào từ tánh thấyngộ nhập thì khi ra khai thị người học, Ngài thường triển khai về tánh thấy, như là giương cung, đưa phất tử... Nếu quý ngài ngộ từ tánh nghe thì triển khai tánh nghe nhiều hơn... Đây gọi là sở trường công phu.

Do yếu tố con ngườiCăn cơ của con người đương thời.

Ví dụ, thời xưa con người còn bình dị, chất phác thì nói khác. Bây giờ mọi người văn minhthực tiễn thì phải có cách lập luận, triển khai vấn đề khác hơn. Xưa kia thiền khách có đến tham vấn hỏi đạo lý, vị thầy bảo “Tu đi rồi biết”, Thiền giả liền bặt tâm, dứt tưởng, một bề sống chết để công phu, tỏ sáng đạo lý chân thật. Nhưng hiện nay bảo như thế thì quý vị trẻ sẽ không thỏa mãn, không thực hành.

Môi trường hoàn cảnh.

Ví dụ, thời xưa chỉ cần một tiếng hét thì thiền nhân liền ngộ. Nhưng bây giờ có khi phải khéo lý luận khóa chặt các đường khiến cho kiến thức không còn giải quyết được, để chặn đứng thức hiểu thì mới nhận ra thể đạo vô sanh.

Tuy có vô vàn uyển chuyển sai khác như vậy, nhưng tất cả đều chung một mục đích đưa hành giả trực ngộ tâm thiền.

 

02 Phuong phap hanh tri hien nay2.  PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM HIỆN NAY.

2.1.  Sổ tức.

Khi mới thực tập thiền, do thân, tâm và hơi thở còn thô phù cho nên hành giả cần thực tập sổ tức (đếm hơi thở) để thuần thục từ từ. Phương pháp này chỉ ứng dụng khi tọa thiền hoặc ngồi yên tĩnh; không vận hành, hoạt động hay sinh hoạt gì.

a)   Cách thực hành.

Khi đã ngồi ngay ngắn và đúng tư thế, hành giả hít sâu, thở sạch 3 lần để xả sạch và lưu thông hơi thở. Cụ thể, hít thật sâu vào bằng mũi, há miệng và thở sạch ra bằng miệng. Hít thở 3 lần như thế.

Kế đến, ngậm miệng lại, hít vào bằng mũi và thở ra cũng bằng mũi; nghĩa là hít thở bình thường. Hít vào bình thường, thở ra bình thường, đếm 1; hít vào thở ra đếm 2, hít thở bình thường như thế đếm 3, ... đếm đến 10 thì bỏ và bắt đầu đếm lại từ 1 cho đến 10... Trong khi đếm, nếu bị nhầm hoặc quên số thì bỏ qua, bắt đầu đếm lại từ số 1. Trong suốt thời gian tọa thiền, chỉ có đếm số hơi thở như là máy móc, đơn điệu, không khởi tưởng làm thêm gì. Chỉ lưu ý là phải luôn tỉnh sáng và rõ biết; không theo niệm tưởng, không mê mờ.

b)   Sổ tức thành công.

Khi ngồi cảm thấy trong người thanh thản, hơi thở nhẹ mà suốt thông, vọng tưởng thưa và bớt chi phối, tâm khinh an. Hơi thở và số đếm tự lưu thông, không lẫn lộn số đếm. Như vậy là đã có vốn, có nền tảng căn bản để tiến lên phương pháp tùy tức. Nếu thời khóa ngồi thiền ổn định theo từng ngày, không bỏ công phu thì giai đoạn này thực tập khoảng từ sáu tháng đến một năm.

Khi sổ tức, rất dễ đạt được định mất thân, bặt niệm tưởng, mất hơi thở nhưng suốt thông hơn bình thường. Hành giả không nên chấp vào đó lấy làm sở đắc, phải khéo léo điều hòa thì sẽ có những bước tiến tốt và đặc biệt hơn. Nếu chấp chặt vào đó rồi cho là sở đắc, thời gian sau sẽ bị bệnh, không thể tiếp tục công phu được nữa. Hoặc có đạt được định sâu hơn cũng chưa khỏi rơi vào tà kiến (kiến giải sai lệch). Nếu trình được với vị Thầy sáng đạo và có kinh nghiệm để được chỉ dạy thì công phu sẽ tốt và tiến bộ nhanh hơn.

2.2. Tùy tức.

Tuy sổ tức đã thành thục, nhưng tâm chưa thực sự thuần thục cho nên cần có thêm thời gian thực hành phương pháp tùy tức.

a)   Cách thực hành.

Hơi thở ngắn hay dài, đến đâu, hành giả nhận biết rõ ràng. Có hai phương cách:

Tâm còn thô, hơi thở còn nặng nề, vọng tưởng còn nhiều:

Thực hành theo cách hơi thở đến đâu, biết đến đó. Gần như là còn biết về, biết theo hơi thở, nhưng phải buông thư, không kềm hoặc đè nén. Nếu chằm chằm biết theo hơi thở đến mức độ kềm, đè, cố gắng quá mức sẽ có tác dụng phụ như ran ngực, căng đầu...

Khi tâm đã an, thân tâm đều an ổn, nhẹ nhàng:

Khi tọa thiền, hơi thở nhẹ một cách tự nhiên, bình thường, không tác ý hay làm thêm gì. Hành giả chỉ an ngay chỗ đang thông suốt, tự sáng biết rõ ràng. Cùng một lúc biết hết tất cả một cách rành rẽ, chủ động nhưng không động. Việc biết hơi thở lúc này cũng như thế. Như đứng trên lầu cao nhìn xuống, cùng lúc đồng thời thấy biết hết muôn vật. Lúc này chỉ thông suốt và biết rõ như thế chứ không cần biết về hay biết theo hơi thở nữa.

b)  Tùy tức cho đến khi nào mới dừng?

Thông thường thực hành phương pháp tùy tức rất dễ khiến cho hành giả cảm thấy an ổnbuồn ngủ, hôn trầm, vô ký... Do đó, chỉ ứng dụng phương pháp này trong một thời gian ngắn khoảng 3 – 6 tháng thì chuyển sang pháp Tri vọng (Biết vọng không theo).

c)  Tóm lại.

Sổ tức và tùy tức là hai phương pháp vì người sơ cơ. Hai pháp này chú trọng vào điều thân nhiều hơn chứ chưa dụng tâm. Đồng thời, đây là hai phương pháp mang tính bổ trợ chứ không phải là công phu chính của Thiền tông. Khi chuyển qua Pháp Tri vọng mới bắt đầu đi vào công phu chính.

- Nói thêm: Đi ngang qua hay đi sâu vào?

Không có một pháp nào cố định là của một dòng thiền nào cả. Chỉ do cách hành trì và đích hướng đến có khác mà phương pháp ấy mang màu sắc riêng của từng dòng thiền khác nhau. Đối với pháp Sổ tức và Tùy tức cũng vậy.

Ví như việc tập Yoga.

Nếu khi chưa biết Thiền Phật giáo thì sẽ ngỡ yoga chính là thiền của đạo Phật. Nhưng đã thông hiểu Thiền Phật giáo rồi thì dù có tập yoga, nhưng biết đây chỉ là môn tập thể dục, cho nên không bị nhầm lẫn để phải đưa đến kết quả không tốt.

Đối với pháp Sổ tức và Tùy tức cũng tương tự.

Nếu xem pháp Sổ tức và Tùy tức là một pháp tu chính, từ đó chấp vào công phu, có tạo tác đối trị, có diệt trừ vọng tưởng phiền não... Đó là đi vào con đường của các pháp thiền khác, không phải Thiền tông Việt Nam.

Ngược lại, nếu xem đây là phương pháp hỗ trợ chứ không phải pháp tu chính (như việc tập Yoga). Không đối trị, không tạo tác, thực hành chỉ để hỗ trợ điều thân cho buổi ban đầu thôi. Khéo thấu suốt và ứng dụng như thế là chỉ đi ngang qua chứ không đi sâu vào. Đó là không rơi vào con đường của các pháp thiền khác.

2.3. Tri vọng (Biết vọng không theo).

Thiền sinh sau thời gian trải qua quá trình điều thân, điều tức thuần thục, Hòa thượng Tông chủ mới chỉ dạy đi thẳng vào công phu tu tập thiền. Ngài đã viết: “Đây là phần trọng yếu của pháp tu ở các thiền viện. Tùy theo căn cơ của hành giả, đến đây có hai cách thực tập...”:

a)   Pháp tri vọng.

Hòa thượng Tông chủ dạy: “Tâm an nhiên, không duyên không trụ vào đâu, chỉ chăm chỉ với “cái biết”, tâm vọng khởi lên liền biết, không theo, vọng tự nhiên mất. Cứ theo dõi quá trình sinh diệt của vọng tưởng. Sau nhiều năm tháng vọng sẽ thưa dần, còn “cái biết” ngày một thường trực, không thiếu không vắng”.

Đây là phương pháp dụng công tu tập nhắm đến điều phục tâm. Nhưng nhắm thẳng đến bản tâm, hướng đến “Tánh tri vọng”, chứ không an trú, không chấp vào pháp tri vọng này để lấy làm công phu chính.

Có tri vọng, không theo vọng, là đang tu. Nhưng không chấp vào công phu cho nên coi như không tu gì cả. Đây là “tu mà không tu”. Đồng thời, không an trụ, không dừng ở công phu, do đó như là không tu. Nhưng vẫn lặng sáng, biết rõ vọng tưởng và không theo thì vẫn là đang công phu tu tập. Đây là “không tu mà tu”. Như vậy, “Tu mà không tu. Không tu mà tu”, mới thực sự là tu, mới đạt đến “Chân thật tu hành”.

b)  Tánh tri vọng.

Hòa thượng Tông chủ dạy: “Đến đây, hành giả biết vọng tâm và chân tâm chỉ là hai mặt của một thực thể, như sóng biển và nước biển đều là nước. Đây là lúc ‘thấy dấu biết trâu’ hay ‘kiến sắc minh tâm’. Tu trong giai đoạn này không căng thẳng mà luôn khéo tỉnh sáng, nhẹ nhàng bảo nhậm công phu... cho đến lúc không còn một niệm thì tâm thênh thang và còn mãi”.

Lúc này vọng tưởng đã yếu, thưa và lặng, chỉ còn bản tánh tự sáng biết. Không cần phải khởi biết mà tự biết. Không cần biết theo, biết về vọng tưởng. Chỉ là không mê thì toàn thể đang tự sáng biết. Có vọng niệm hay không có vọng niệm, mình vẫn đang sáng biết rõ ràng mà không động. Hằng sống bằng bản tâm lóng lặng mà sáng biết như thế thì công phu sẽ đắc lực.

Sống bằng tâm lặng mà sáng biết, là đang tu. Nhưng không khởi tâm tạo tác hay làm gì cả, thì như là không tu. Đồng thời, công phu đến đây rồi chỉ là không mê thì đang sáng, thảnh thơi, như là không làm gì cả, do đó giống như là không tu. Tuy nhiên, tâm vẫn lặng sáng, hiện tiền cho nên cũng là đang tu. Như vậy, “Tu mà không tu. Không tu mà tu”; đây là công phukhông chấp dụng công, dụng nhưng không có chỗ dụng, đạt đến vô tướng, vô tác, vô trụ như thế mới đắc lực, mới đạt đến “Chân thật tu hành”. Theo Tổ Pháp Loa dạy: “Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền Thượng Thừa”. Cho thấy, dụng công “Tri vọng” như vừa nêu trên là đúng nguyên lý dụng công tu tập Thiền Tối Thượng Thừa mà Nhị Tổ Pháp Loa đã dạy. (Sẽ nói đầy đủ tại mục 3 và 4, trong phần 3, ở sau chương 1 này).

03 Biet la chan tam2.4.  Biết là chân tâm.

a)  Pháp tu thiền Biết có chân tâm.

Bằng tâm trong lặng sáng biết, hành giả nhận ra rõ ràng, mắt biết thấy là chân tâm, tai biết nghe là chân tâm… Tóm lại, ngay mọi thứ đang đối diện, chúng ta đang lặng sáng, thấy biết rõ ràng mà không động, mỗi mỗi thấy, nghe, biết..., chân tâm đang hiển hiện rõ ràng.

Sách Chơn Tâm Trực Thuyết, Thiền sư Phổ Chiếu nói: “Biết không sanh tử chẳng bằng Thể không sanh tử. Thể không sanh tử chẳng bằng Khế không sanh tử. Khế không sanh tử chẳng bằng Dụng không sanh tử”. Cho thấy, “Biết không sanh tử” cũng đã được Thiền sư Phổ Chiếu chứng minh xếp vào hàng tỏ sáng được chỗ không còn sanh tử, tức là bản tâm, tự tánh chính mình. Và “Biết có chân tâm” cũng vậy. Còn từ chân tâm mà thấy biết thì tiến sâu hơn nữa. Hòa thượng Tông chủ đã dạy ở phần: “Chân tâm hiện tiền”.

b) Chân tâm hiện tiền.

Hòa thượng Tông chủ dạy: Khi đã thuần thục, cái biết chân tâm hiện tiền thì chuyển qua giai đoạn “thể nhập chân tâm”.

Đến đây hành giả thể nhận rõ chân tâm“Vốn tự không động, thường biết rõ ràng mà không cần khởi niệm phân biệt. Thênh thang còn mãi, vốn tự như vậy”.

c)  Tóm lại.

- Phần a, Pháp tu thiền Biết có chân tâm.

Ngay thấy biết là chân tâm. Vì sống bằng cái thấy biết của chân tâm cho nên đang tu. Nhưng không làm gì thêm cả, do đó như là không tu. Đây là “Tu mà không tu”.

- Phần b, Chân tâm hiện tiền.

Hằng sống bằng chân tâm hiện tiền chứ không làm thêm gì cả, do đó như là không tu. Nhưng không phải mê, mà là đang giác sáng, rạng ngời cho nên vẫn là đang tu. Đây là “Không tu mà tu”.

Chân thật tu hành Tối Thượng Thừa.

“Tu mà không tu. Không tu mà tu” như thế không rơi vào dấu vết, tạo tác, sanh diệt. Áp dụng công phu như vậy mới chân thật tu hành theo tinh thần Thiền Tối Thượng Thừa.

2.5. Phương tiện chung tạm lập bày.

Ngoài bốn bước hành trì cơ bản trên, Hòa thượng Tông chủ có nói thêm “Bốn phương tiện chung tạm lập bày”. Trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, ngài đã viết:

2.5.1. Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là những tâm niệm hư ảo.

2.5.2.  Đối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp giả dối tạm bợ.

2.5.3.  Không kẹt hai bên, vì đối đãikhông thật.

2.5.4.  Hằng sống với cái thật, không theo cái giả, vì giả là luân hồi, thật là giải thoát.

Đây là bốn phương tiện chúng tôi (Hòa thượng Tông chủ) tạm lập để hướng dẫn người tu. Tùy theo căn cơ trình độ nhanh chậm, cao thấp của hành giả mà lối ứng dụng có khác. Cũng có thể bốn lối tu này, hành giả linh động ứng dụng theo thứ tự từ pháp thứ nhất đến pháp thứ tư để tu hành cũng tốt.

Tùy căn cơ, tùy lúc, tùy vào từng hoàn cảnh để ứng dụng:

-    Khi tọa thiền có thể áp dụng phương pháp số 1 và số 4.

-    Khi sinh hoạt, đối duyên xúc cảnh thì khéo léo ứng dụng các phương pháp số 2, số 3 hoặc số 4.

-    Làm sao có kết quả tốt, không bị trở ngại thì đúng pháp.

Có khi thu nhiếp nơi mình mà không cần ở cảnh. Có khi không dừng trụ, suốt qua các cảnh mà không cần thu nhiếp nơi mình. Có khi cần thu nhiếp cả hai. Có lúc trong không trụ căn bản, ngoài không dừng trụ các cảnh duyên mà hay suốt qua tất cả; tâm thể hiện tiền. Kinh Viên Giác, Phật dạy: “Vì huyễn thân diệt cho nên huyễn tâm diệt; vì huyễn tâm diệt cho nên huyễn trần diệt; do huyễn trần diệt cho nên huyễn diệt diệt; vì huyễn diệt diệt cho nên phi huyễn hiện tiền”.

Tùy vào căn cơ của từng hành giả thích hợp cách nào thì khéo léo ứng dụng theo cách ấy. Cũng có khi đối với một hành giả, nhưng tùy lúc, tùy thời, tùy hoàn cảnh để khéo léo vận dụng sao cho nội tâm an định mà sáng rỡ; làm chủ thân, tâm và các cảnh duyên. Khéo vận dụng để công phu một cách miên mật như thế, khi thời tiết nhân duyên chín muồi, bản tâm tự bừng sáng, tỏ ngộ tự tánh chính mình.

 

3.   HÒA THƯỢNG TÔNG CHỦ NÓI PHƯƠNG PHÁP DỤNG CÔNG TU HÀNH QUA BA GIAI ĐOẠN, CÓ Ý CHỈ GÌ?

Hòa thượng Tông chủ đã nói phương pháp hành trì qua thời kỳ:

- Ban đầu, vào năm 1968, lúc mới thành lập Tu viện Chơn không, Hòa thượng chỉ bày phương pháp “Tri vọng”.

- Chặng giữa, vào năm 1992, Hòa thượng nói thêm “Bốn phương tiện tạm lập bày”.

- Rốt sau, vào năm 2005, Hòa thượng chỉ thẳng “Biết là chân tâm”.

Như vậy là có ý chỉ gì? Vì sao Hòa thượng phải nói phương pháp hành trì qua ba thời kỳ (giai đoạn) như thế?

3.1.  Yếu tố khế cơ.

Thiền là bản tâm vốn tự đầy đủ nơi mỗi người, ai ai cũng sẵn có. Ngộ ra bản tâm này là ngộ thiền. Tâm ấy vượt không gianthời gian, vì thế không có ba thời: Ban đầu – Chặng giữa và Rốt sau. Người đã ngộ thiền và sống bằng sức sống thiền thì có nói ra ba thời kỳ khác nhau cũng chỉ từ một tâm thiền. Sự sai khác ở đây chỉ là phương pháp dụng công. Sở dĩ phương pháp dụng công có khác là do sở trường công phu, do yếu tố con người và môi trường hoàn cảnh. Tuy nhiên, tất cả đều chung một mục đích đưa hành giả nhận lại tâm thiền. Với tinh thần đó, từ trí tuệ giác ngộ của mình để quán xét căn cơ, Hòa Thượng Tông chủ đã tùy vào từng thời kỳ để uyển chuyển lập bày phương tiện, nói ra phương pháp thích hợp để giúp hành giả tu hành đắc lực, đạt đến giác ngộ.

3.2.   Không ba, không một.

Cụ thể:

a)   Ban đầu, năm 1968: Tri vọng.

Đây là buổi ban sơ, Hòa thượng Tông chủ mới khởi đầu việc tiếp nốiphục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Mọi người chưa biết gì về thiền. Lúc này Thiền tôngViệt Nam gần như mất hút, không còn ai biết rõ và tin tưởng để tu tập. Có người còn đả kích, bài bác thiền. Đến nỗi còn cho rằng thiền là quái thai của đạo Phật, tu thiền coi chừng bị điên… Hòa thượng đã viết rõ trong sách “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi”. Trong hoàn cảnh căn cơ chúng sinh như thế, nếu một bề nói thẳng, chỉ thẳng tâm tánh thì làm sao mọi người dễ dàng tin đến được chỗ rốt ráo chân thật ấy? Do đó, Hòa thượng chỉ dạy pháp tu “Tri vọng” để hành giả tu tập rồi thâm nhập dần. Ai cũng có vọng tưởng và đang bị nó hoành hành làm cho mình bị loạn động, căng thẳng. Vì vậy, pháp tu tri vọng này thực tế nơi mỗi người, dễ cảm nhận và tin tưởng để áp dụng hạ thủ công phu được.

b)   Chặng giữa, năm 1992: Nói ra “Bốn phương tiện tạm lập bày”.

Sau 24 năm giáo hóa (1968 – 1992), rất nhiều người đã thấu suốt và thâm nhập được thiền. Nhiều vị có công phu tiến bộ đáng kể. Trong điều kiện hoàn cảnh thuận duyên, căn cơ con người đã thuần thục, Hòa thượng đã nói ra “Bốn phương tiện tạm lập bày”. Mục đích muốn cho hành giả tu hành thâm nhập sâu hơn. Đồng thời có nhiều phương pháp ứng dụng thích hợp cho nhiều căn cơ lúc bấy giờ.

c)    Rốt sau, năm 2005: Biết là chân tâm.

Đến sau này (năm 2005), Hòa thượng nhận thấy thiền được phổ cập đến quần chúng rộng rãi. Có rất nhiều người nghiên cứu và hiểu thiền. Nhiều vị thâm nhập thiền, tỏ ngộ tâm thiền. Do đó, ngài nói thẳng ngay biết thấy, biết nghe … là chân tâm biết.

d)   Tóm lại.

Đứng về phương tiện lập bày phương pháp hành trì thì thấy có khác. Nhưng tất cả đều phát xuất từ tâm thiền giác ngộ của Hòa thượng, nhằm đưa hành giả quay về tỏ ngộ bản tâm. Mới biết, phương tiện đối với người học thì có “Ba thời kỳ, ba pháp”. Nhưng trong tâm thiền của Hòa thượng Tông chủ thì “Không ba, không một”.

Nếu bằng tâm vọng động để hiểu biết, phân biệt thì sẽ khó thấy ra. Nhưng ai đã sống thẳng bằng tâm thể rạng ngời không động nơi chính mình thì mới thấu suốt tâm lão bà tha thiết của Hòa thượng Tôn sư đối với con cháu hậu học.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 188948)
01/04/2012(Xem: 34455)
08/11/2018(Xem: 13373)
08/02/2015(Xem: 51500)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.