THẤY BIẾT CÁI GÌ THÌ ĐƯỢC COI LÀ
THẤY BIẾT ‘NHƯ THẬT’, ‘NHƯ NÓ ĐANG LÀ’
KHI THỰC HÀNH TU TẬP MINH SÁT TỨ NIỆM XỨ VIPASSNĀ SATIPAṬṬHĀNĀ?
Tỳ Khưu Sumangala Viên Phúc
Nếu chỉ thực hành giữ sự hay biết xuông với ảo tưởng về “cái tâm tự nhiên trong sáng” của mình thì sự hay biết này ai cũng có, con bò nó cũng có sự hay biết “tự nhiên trong sáng” của nó theo cách này, đó chỉ là cái hay biết ở mức độ tưởng tri và thức tri của cái tâm chưa được đào luyện tu tập, hoặc tu tập chưa đủ tinh tấn, hoặc tu tập sai Minh Sát Vipassnā, không phải ở mức độ tuệ tri.
Cái hay biết như vậy chỉ là sự hay biết về các sự vật, hiện tượng theo khái niệm tục đế, không có thật của vô minh dẫn đến sự hay biết sự vật ‘không như thật’, ‘không như nó đang là’: cho vô thường là thường, cho khổ là lạc, cho vô ngã là có ngã.
Đó chính là hay biết với tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo dẫn đến khổ đau vĩnh viễn trong luân hồi [1].
Đó không phải là cái hay biết đúng như thật về bản chất thực tính vô thường khổ, vô ngã của người có minh sát tuệ khi nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm quán sát liên tục sự sinh diệt trên thân / thọ / tâm / pháp [2].
Hãy như lý tác ý khi quán sát để chú tâm ngay vào bản chất sinh, diệt để vun bồi trí tuệ về vô thường, khổ, vô ngã thông qua thực chứng, kinh nghiệm, tức Tu tuệ: ví dụ khi quán sát tâm tham, tâm sân (thức uẩn trong ngũ uẩn) thì phải để ý quán sát và ghi nhận xem các hình ảnh, các lời nói trong tâm, các cảm thọ trên thân liên hệ đến tâm tham, tâm sân ấy đến rồi đi, sinh rồi diệt như thế nào.
Cùng thế ấy, mọi hiện tượng trên thân, thọ, tâm, pháp đều phải quán sát với như lý tác ý về sinh, diệt, cũng tức là như lý tác ý về khổ vô thường vô ngã [3], cũng tức là như lý tác ý về bốn sự thật Khổ, Tập, Diệt, Đạo [4].
Đầu tiên thì không thể thấy rõ ràng sự sinh, diệt ấy ngay đúng lúc đó, chỉ biết khi nó đã qua đi thậm chí rất lâu rồi; hoặc chỉ thấy nó sinh mà quên mất (thất niệm) khi nó diệt (vì bị cuốn chìm vào trong dòng lũ suy tư, phóng dật); hoặc ngược lại thấy được sự diệt mà chưa thấy được sự sinh khởi (vì chánh niệm tỉnh giác chưa sắc bén, liên tục).
Khi hành giả thực chứng sự sinh khởi thì sẽ không “chấp Không”, tức không chấp nhận thế giới (ngũ uẩn) là không có [5]: được thoát khỏi “Đoạn kiến” ucchedadiṭṭhi – là Tà kiến cho rằng có một tự ngã (Ngã kiến) sau khi chết là diệt hết, không có quả của nghiệp … v. v….
Khi hành giả thực chứng sự hoại diệt thì sẽ không “chấp Có”, tức không chấp nhận thế giới (ngũ uẩn) là có [5]: được thoát khỏi “Thường kiến” sassatadiṭṭhi – là Tà kiến cho rằng có một linh hồn hay tự ngã (Ngã kiến) thường còn, bất biến, cố định không bao giờ bị hoại diệt, đi tái sinh đi từ kiếp này sang kiếp khác, hay Tà kiến cho rằng có đấng thượng đế vĩnh cửu (Tha ngã kiến) sáng tạo và chi phối muôn loài chúng sinh … v. v…
Khi thực chứng sự sinh và diệt, hành giả xa lìa hai cực đoan ‘chấp Có’, ‘chấp Không’, thấy sự vật, hiện tượng ‘như chúng đang là’, ‘như thật’ chúng chỉ là những pháp hữu vi có mặt và biến mất theo Lý Duyên Sinh [5]: có cái này thì có cái kia, không có cái này thì không có cái kia – hoàn toàn trống rỗng, vô ngã, vô thường, khổ sở (khổ khổ), luôn biến đổi (hành khổ) và luôn bị bức bách hoại diệt (hoại khổ), không ai có quyền điều khiển, chỉ huy, ra lệnh được cả. Hành giả thoát khỏi “Ngã kiến” là Tà kiến cho rằng có ta, của ta, tự ngã của ta trong ngũ uẩn hoặc chính là ngũ uẩn.
Sau khi bền bỉ, kiên trì thực hành, lặp đi lặp lại sự quán sát với như lý tác ý thì sự sinh diệt ngày càng trở lên rõ ràng hơn, dày đặc hơn, liên tục hơn. Trong Phật Pháp không có món “mì ăn liền” cho những hành giả lười biếng, không muốn làm mà lại muốn ăn ngon ngay lập tức, không chịu đi mà lại muốn đến.
Khi đó, kể cả sự sinh lên, diệt đi của các loại suy nghĩ, các loại thắc mắc, nghi ngờ, phấn khởi, lo lắng, ví dụ: câu hỏi “ô sao hay vậy ta” … v. v…… cũng cần được quán sát và ghi nhận kịp thời ngay khi nó có mặt thì mới không bị đồng hóa, không bị nhấn chìm vào nội dung suy nghĩ, không bị đồng hóa, bị nhấn chìm trong ‘cái tôi đang suy nghĩ’ … v. v…….
Tuy nhiên việc này không hề dễ dàng vì tâm chưa được rèn luyện đúng cách nên chưa sắc bén, chưa nhanh nhạy, chưa kịp thời, cần kiên nhẫn lặp đi lặp lại việc ghi nhận với như lý tác ý. Kiên nhẫn dẫn đến Niết Bàn.
Trong thực hành Vipassnā phải ngay lập tức chú tâm vào bản chất sinh, diệt để trực tiếp kinh nghiệm, để thực chứng bản chất sinh diệt của mọi hiện tượng, và chỉ chú tâm vào đó mà thôi.
Tuy cùng là các Pháp thuộc phần Minh, nhưng ⑴ Chỉ samatha là phương pháp vun bồi tâm, tức vun bồi Định samādhi để đoạn tận tham (sân), đạt được TÂM GIẢI THOÁT, còn ⑵ Quán Vipassnā là phương pháp giúp vun bồi Tuệ paññā để đoạn tận vô minh, đạt được TUỆ GIẢI THOÁT.[6]
Được gọi là Vipassanā bởi các Pháp thuộc Khổ Thánh Đế và Khổ Tập Thánh Đế được quán chiếu, liễu ngộ dưới ánh sáng của Tam Tướng – tức là ba đặc tính Vô thường (anicca), Khổ (dukkha), Vô ngã (anatta).
Thực hành Minh Sát Tứ Niệm Xứ (Vipassnā satipaṭṭhānā) chính là quán sát thấy (passnā) bằng nhiều cách (vi) khác nhau (Vipassnā), một cách liên tục và tỉ mỉ tam tướng Vô Thường – Khổ – Vô Ngã của các hiện tượng khi ‘an trú Niệm trên Tứ Niệm Xứ’ (satipaṭṭhānā) với Nhiệt tâm – Tỉnh Giác – Niệm (ātāpī sampajāno satimā) nhằm đạt được mục đích rốt ráo “① đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, ② vượt khỏi sầu, ③ vượt khỏi bi, ④ diệt trừ khổ, ⑤ diệt trừ ưu, ⑥ thành tựu chánh lý, ⑦ chứng ngộ Niết bàn.” (Trường Bộ Kinh – 22. Đại kinh Tứ Niệm Xứ)
Ở đây ⑴ nhiệt tâm ātāpī chính là tinh tấn đoạn trừ các dục và các bất thiện pháp là 5 triền cái gồm tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối tiếc, hoài nghi nhờ định lực samādhi;
⑵ tỉnh giác sampajāno là vô si tỉnh giác nổi trội – tức trí tuệ minh sát hay biết về vô thường khổ vô ngã nhờ Như Lý Tác Ý;
⑶ niệm satimā ở đây là liên tục chú tâm, không quên vào sinh và diệt trên thân, thọ, tâm, pháp.
Nhờ Như Lý Tác Ý và Chánh Tinh tấn, Chánh niệm liên tục trên sự sinh diệt của đề mục nên Chánh định sinh khởi giúp thấy rõ như thật [7] được sự sinh diệt ấy trong từng khoảng khắc khi nó vừa xảy ra, tức là thấy rõ thực tánh Vô thường Anicca; khì thấy rõ Vô thường tức là thấy rõ thực tánh Khổ Dukkha; khi thấy rõ Khổ tức là thấy rõ thực tánh Vô ngã Anatta [8]
Khi thấy rõ sự thật Khổ (Khổ Thánh Đế) thì thấy rõ ba sự thật còn lại trong Tứ Thánh Đế tức là thấy rõ Tập đế (Nguyên nhân của Khổ), thấy rõ Diệt đế (sự chấm dứt Khổ, đoạn tận tham sân si không còn dư sót, Niết bàn), thấy rõ Đạo đế (Con đường Bát Thánh Đạo dẫn đến Diệt Khổ). [9]
Và với sự thấy biết như vậy mọi sự vật, hiện tượng trong tam giới, tức ngũ uẩn, đều hiển lộ, hiện hữu thuần khiết ‘như nó đang là’, ‘như thật’: tức là chúng lộ rõ nguyên trạng trong bản chất vô thường – khổ vô – ngã dưới ánh sáng của Tứ Thánh Đế.
THẤY RÕ BỐN SỰ THẬT CAO CẢ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO NHƯ VẬY LÀ THẤY ‘NHƯ THẬT’, ‘NHƯ NÓ ĐANG LÀ’. Đây chính là lời Phật dạy trong kinh tạng về việc “thấy được cái gì?” thì được coi là “thấy như thật” trong khi thực hành tu tập tuệ minh sát Vipassnā [10]:
… Vị ấy biết như thật: “Đây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là Khổ diệt”, biết như thật: “Đây là Con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là các lậu hoặc diệt”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt”.
…
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa”.
Trung Bộ Kinh – 27. Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, Web Link
Không nên tự mình suy diễn, hoặc tin theo các lời hý luận, các câu trích dẫn tùy tiện trên các diễn đàn của các thực tập sinh không được sự hướng dẫn hoặc thực hành sai lời hướng dẫn của vị thầy thiện tri thức, rồi tu tập theo sự suy diễn hoặc hý luận đó, sẽ tu tập sai lạc, mà hãy bám sát vào lời hướng dẫn trong khóa thiền của các Thiền sư, những vị theo sát lời Phật dạy ghi trong Kinh tạng. Chớ tin theo, hành theo những lời dạy trái lời Phật dạy “không cần cố gắng, không cần tu thiền, chỉ cần trở về tâm tự nhiên trong sáng, … v. v…… “: Trong Tam Tạng kinh điển Pali Đức Phật không có bất cứ lời dạy nào như vậy.
Kiên nhẫn thực hành đúng đắn theo lời Đức Phật đã chỉ dạy thông qua các chỉ dẫn của các vị thiền sư có đủ năng lực và thẩm quyền trong các khóa thiền tích cực, nghiêm mật sẽ giúp chúng ta dần dần xác lập thái độ và phương pháp thực hành đúng đắn thì mới có thể thấy rõ như thật bản chất sinh diệt tức vô thường khổ vô ngã của tất cả các pháp hữu vi, từ đó phát sinh nhàm chán, lìa dục, ly tham, buông xả dẫn đến tâm bất động giải thoát và tri kiến giải thoát.
Nguyện cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho quí vị luôn có được trí tuệ, tinh tấn, kham nhẫn, từ, bi, hỷ xả trên con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não đạt được hạnh phúc thật, sự tự do thật sự – Niết bàn.
Trong tâm từ,
Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala