Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
III. Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
III.1 Lưỡng Đại Bổn Sơn
III.1.1 Tào Động Tông Không Có Tổng Bổn Sơn
Tông Tào Động đặc biệt chỉ có hai Đại Bổn Sơn cũng có lúc gọi là Lưỡng Đại Bổn Sơn hay gọi tắt là Lưỡng Sơn, không gọi là Tổng Bổn Sơn, Biệt Cách Bổn Sơn hoặc Bổn Sơn. Có tất cả 15.000 ngôi chùa thuộc hai Đại Bổn Sơn nầy, cho nên cũng có thể nói rằng chỉ có một Tông Tào Động mà thôi, không có phái riêng như trường hợp của Tịnh Độ Chơn Tông. Tông Tào Động là một Giáo Đoàn lớn đại biểu trong các Tông phái Phật Giáo Nhật Bản, trong khi đó Tịnh Độ Chơn Tông có tất cả 10 phái nhỏ như: phái Otani, phái Honganji, phái Takada v.v... Nếu so sánh với các Tông phái khác, Tông Tào Động dù không có phái song cũng có thể gọi chung là Tông, mà hai Đại Bổn Sơn được xem là trung tâm bậc nhất, có khoảng 15.000 ngôi chùa chung quanh, đặc biệt không chia một phái nào cả.
Hai Đại Bổn Sơn: chùa Vĩnh Bình ở Huyện Fukui, phường Fukuiji và chùa Tổng Trì ở huyện Kanagawa, thành phố Yokokamawa, Hạc Kiến. Nếu Chùa Vĩnh Bình là nơi phát xuất của Tông Môn, là Đại Bổn Sơn có chiều dài lịch sử lâu đời, thì Chùa Tổng Trì chính là nơi phát triển của giáo đoàn, là cơ sở Đại Bổn Sơn vô cùng to lớn.
III.1.2 Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự
Chùa Vĩnh Bình, Đại Bổn Sơn Kiết Tường Sơn của Tông Tào Động tọa lạc ở Ba Đa Dã Nghĩa Trọng, huyện Fukui, quận Yoshida, phố Eheji Chí Tỉ, do Thiền Sư Đạo Nguyên khai sơn vào năm Khoan Nguyên nguyên niên . Thưở ấy, Thiền Sư Đạo Nguyên rời chùa Hưng Thánh, trong rừng sâu của Kyoto ra Việt Tiền (Etsugo), lưu trú tại Chùa Kiết Phong và Chùa Tản Tùng Phong.
Tháng 7, năm Khoan Nguyên thứ hai, Ngài bắt đầu xây dựng Chùa Tản Tùng Phong Đại Phật Tự cho đến tháng 6 năm Khoan Nguyên thứ 4 đổi Đại Phật Tự thành Vĩnh Bình Tự. Tháng 11 năm Bảo Trị thứ 2 đổi Tản Tùng Phong thành Kiết Tường Sơn, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên cho rằng Vĩnh Bình chính là phương danh truyền thừa chánh pháp thiết thực từ Đức Thích Tôn, từ đó trở thành Tổng Bổn Sơn của Phật Giáo Nhật Bản, một đạo tràng trang nghiêm, lợi lạc và vĩnh cữu của Thiền.
Bao bọc ba bên Chùa Vĩnh Bình là núi. Có con sông nhỏ nước chảy êm đềm trông giống như một cảnh tiên ở phía nam. Vườn chùa rộng khoảng 330.000 mét vuông (100 mẫu), trong đó có tất cả 70 cơ sở, xây dựng khang trang. Mô hình kiến trúc Chùa gồm có Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Tăng Đường, Khố Viện, Dục Thất, Đông Ty và Thất Đường Già Lam. Ngoài ra còn có Thừa Dương Điện (nơi thờ Thiền Sư Đạo Nguyên), Chúng Liêu (chỗ đọc sách của học Tăng), Tiếp Tân (nguyên thỉ là nơi tiếp khách, bây giờ là nơi cư trú của chư Tăng đến tham học), Bất Lão Các (phòng trụ trì). Ở chùa Vĩnh Bình nơi ở của vị Trụ Trì gọi là Bất Lão Các, Diệu Cao Đài (phòng của vị trụ trì tiếp khách quý), Đại Quang Minh Tạng nơi gặp gỡ của Tín Đồ với vị Trụ Trì. Nơi đây có phòng rộng để thuyết pháp. Tản Tùy Các (phòng rộng để tham bái), Bồ Đề Tọa (chỗ lãnh đạo của vị Tăng, nơi đề xướng việc giảng nghĩa tu hành cho các vị Tăng), Từ Đường Điện (nơi để thờ bài vị của Tín Đồ), Xá Lợi Điện (nơi để cốt của Đàn Tín Đồ), Kiết Tường Các (phòng nghiên cứu tu học của Tín Đồ), Nhứt Hoa Tạng (kho để đồ quý báu), Kinh Tạng (tất cả các Kinh và các Kinh bản Thiên Hải để ở đây), Sắc Sứ Môn ( nơi đón khách, cửa ra vào của vị Trụ Trì). Ngoài ra còn có lầu chuông và những tòa nhà khác nữa. Diện tích toàn ngôi vườn là 450 mẫu. Trải qua lịch sử 700 năm, không biết bao nhiêu lần tang thương tuế nguyệt, hỏa tai, chiến loạn, nhưng ngôi chùa vẫn còn đó như dương cao ngọn pháp đăng bất tuyệt, được 70 đời Trụ Trì. Tại đó, dòng thời gian vẫn trôi qua như mây nước mênh mang lưu ảnh hơn 200 đời sống tu hành phạm hạnh.
Có tấm hoành “Tào Động Tông Đệ Nhất Đạo Tràng”, do Thiên Hoàng Hậu Viên Dung thời Bắc Triều đời thứ 5 , sắc chỉ, treo trên lầu của Sơn Môn (Tam Quan). Huy hiệu của chùa là Thế Long Đảm cũng là huy hiệu của Komazawa Gakkuen, được làm từ thời Meiji, mà Thế Long Đảm thuộc Cửu Ngã Long Đảm (Koga Rindo), chính là ngôi nhà mà Thiền Sư Đạo Nguyên sanh ra. Bảo vật trân quý của Chùa là bút tích “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi” của Thiền Sư Đạo Nguyên, ngày nay trở thành quốc bảo. Có một Đại Hồng Chung đúc vào năm Gia Lịch (Karyaku) thứ 2 bây giờ trở thành di sản văn hóa của quốc gia. Chùa còn lưu giữ 572 bản khắc gỗ của 95 quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, gọi là “Thiên Hải Bản Nhứt Thiết Kinh“ gồm 6323 quyển. Ngoài ra, còn có bức họa “Thú Dã Thâm U Bút Tứ Quý Hoa Điểu Đồ” (thú rừng u tịch vẽ hoa chim bốn mùa) và nhiều tranh họa trong bốn mùa khác nữa. Từ đó đến nay, có rất nhiều vị Tăng hoặc từ nước ngoài đến hoặc ở trong nước thuộc Tông Tào Động đã du hành khắp nơi để hoằng hóa khai sơn và khuyến tấn mọi người nổ lực tu hành và sống Đạo, do vậy phải công nhận rằng Chùa Vĩnh Bình chính là ngôi tự viện nhiệm mầu để mọi người đến tu học, tham thiền, mà cửa Chùa luôn luôn rộng mở đón chào những ai đang cần tu học.
Ở Tokyo, có Biệt Viện thuộc Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự tên là Tokyo Betsuen, Trường Cốc Tự Chokokuji, Tokyoto Minatonku Nihimafu. Tại Nagoya, có Nagoya Biệt Viện, Hộ Quốc Viện (Gokokkuin), Nagoyashi, Higashinku Boikecho, thuộc Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự.
Ngoài ra, còn có các trung tâm Học hiệu như trường Komazawa Gakkuen (Komazawa, Nữ Đại Học ngắn hạn, trong đó có Ấu Trỉ Viên = Vườn Trẻ); Komazawa Gakkuen Nữ Trung Học đệ nhị cấp; Komazawa Nữ Đại Học ngắn hạn (2 năm); Komazawa Nữ Đại Học nằm tại Tokyoto, Waragiyoshi, Itahama), những nơi nầy dành riêng cho nữ sinh đủ mọi ngành (tất cả các Gakkuen = học viên).
III.1.3 Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự
Đại Bổn Sơn của Tông Tào Động là Chùa Chư Nhạc Sơn Tổng Trì, Kanagawaken, Yokohamashi, khu Hạc Kiến, Hạc Kiến, do Thiền Sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn (Keizan Jokin) khai sơn. Trước đó, là chùa nhỏ tên là Chư Khâu Quán Âm Đường của Luật Sư Đinh Hiền (Joken) đệ tử của Tông Chơn Ngôn cúng, sau đó tên Chùa đổi theo tên núi gọi là Tổng Trì Tự. Chùa thành lập năm Nguyên Hưởng (Genko) nguyên niên vốn thuộc huyện Ishikawa, quận Fugeshi Monmaecho. Đến năm Minh Trị thứ 31 Chùa bị cháy, cho nên thiên di đến địa điểm hiện tại vào năm Minh Trị thứ 40 có khuôn viên rộng 300.000 mét vuông (độ khoảng chừng 100 mẫu) và có 10 tòa nhà được xây dựng. Nơi đây có 200 học tăng tu hành thường nhật tạo nên không gian Thiền rất nổi bật ở vùng Kanto. Ngoài ra, hoạt động của Chùa cũng có tính cách thế giới nữa. Nét kiến trúc của Chùa mô phỏng và phục hoạt theo nét Chùa xưa ở Kanagawaken. Được gọi là Tổ Viện Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự của Tông Tào Động vì thờ Tổ Sư Oánh Sơn ngay gian trước cửa vào. Chùa thật trang nghiêm, u ẩn, yên tĩnh, có nhiều Vân Thủy Tăng (Tăng hành cước) lui tới để lễ bái và tưởng niệm Tổ khai sơn.
Ngược lại với Chùa Vĩnh Bình, Chùa Tổng Trì nằm ở địa phương Hạc Kiến, ngay trong khu đô thị của phố Yokohama có tính cách quốc tế, nơi được nhiều người đến, nhưng tầm quan trọng và ý nghĩa của hai Đại Bổn Sơn, phải nói rằng, đều có ảnh hưởng tốt đẹp như nhau. Kiến trúc Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Tăng Đường, Khố Viện, Dục Thất, Đông Ty..., của Chùa Tổng Trì đều mang phong cách đặc biệt. Duy chỉ có Pháp Đường của Tổng Trì đặc biệt gọi là Tổ Sư Đường có kiến trúc vĩ đại với chiều dài 55,5 mét, chiều ngang 47,2 mét, có một tầng trên và một tầng hầm nằm dưới mặt đất, tổng diện tích 6.611 mét vuông, có trải 1000 chiếc chiếu (Tatami), chiều cao từ dưới sàn nhà đến đòn dông là 36 mét. Gian giữa thờ vị khai sơn Tổ Sư Oánh Sơn. Hai bên thờ chư liệt vị Tổ Sư kế thừa, mà đây cũng là giảng đường thuyết pháp thật là to lớn. Ngoài ra, còn có Truyền Đăng Viện (nơi thờ Ngài Oánh Sơn Thiền Sư), Phóng Quang Đường (nơi thờ bài vị của Đàn Na Tín Đồ), Thường Chiếu Điện (nơi thờ cốt của Đàn Na Tín Đồ), Ngự Linh Điện (nơi thờ Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng và 8 đời Thiên Hoàng của Nam Triều). Tử Vân Đài (phòng khách để Trụ Trì tiếp các vị Trụ Trì cũng như Phật Tử Tín Đồ trên toàn quốc, tiếp các công chức). Khiêu Long Thất (phòng vị Trụ Trì tiếp khách), Thiên Chơn Các (phòng khách), Đài Phụng Quán (nơi ở tạm của khách), Tam Tùng Các (nơi nghiên cứu của Phật Tử Tín Đồ). Chúng Liêu, Bảo Vật Điện, Chung Cổ Lầu, Sắc Sứ Môn v.v...
Năm Nguyên Hưởng thứ 2 đời thứ 96, Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng Chùa được vua ban hiệu là “Nhật Bản Tào Động Sắc Tử Xuất Thế Chi Đạo Tràng”. Tông Tào Động có tất cả 15.000 ngôi chùa trực tiếp thuộc Chùa Tổng Trì của Ngài Oánh Sơn Thiền Sư.
Vật trân quý của chùa là nét bút “Tổng Trì Tự Trung Hưng Duyên Khởi” của Oánh Sơn Thiền Sư cũng là bảo vật văn hóa quốc gia. Ngoài ra, còn có bức tượng Thiền Sư Oánh Sơn, do ông Maeda Richa họa. Còn có bức họa như Lạc Tú Đại Pháp Bị, Cao Ly Phật Họa Đề Bà Đạt Đa rất quý, là những bảo vật di sản văn hóa và nhiều vật quý giá không thể tả hết, ngày nay tất cả đều được cất giữ trong Bảo Vật Điện.
Huy hiệu của chùa là 57 cây ngô đồng, không ai biết nguyên do và xuất xứ thế nào, song được bảo tồn kỹ lưỡng. Truyền thuyết cho rằng Thiền Sư Oánh Sơn thọ nhận pháp y từ Ngài Nga Sơn tại chùa Tổng Trì cho nên mô phỏng theo màu “Đồng Trúc Lăng Cáp Sắc”, tức là màu trà nhạt, lông chim bồ câu. Cũng có truyền thuyết khác cho rằng Tổng Trì Tự đã được sắc phong từ đời Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng.
III.1.4 Chùa có các Biệt Viện
- Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Tổ Viện thuộc Ishikawaken, quận Phụng Chí, Môn Tiền Đinh, huyện Ishikawa,
- Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Bắc Hải Đạo Biệt Viện và Pháp Nguyên Tự - Bắc Hải Đạo, quận Tùy Tiền, phố Tùng Tiền, Bắc Hải Đạo (Hokkaido)
- Truyền Tẩu Viện (Densoen), nơi làm việc tại Cảng Khu, Chi Ái Thạch Đinh,Tokyo
- Học Hiệu Pháp Nhơn Tổng Trì Tự Gakkuen gồm có: Tam Tùng Ấu Trỉ Viên, Hạc Kiến Nữ Tử Trung Học Hiệu, Hạc Kiến Nữ Tử Cao Đẳng Học Hiệu, Học Kiến Nữ Tử Thành Nhơn Học Hiệu, Hạc Kiến Nữ Tử Đoản Kỳ Đại Học, Hạc Kiến Đại Học. Tổng Trì Tự Bảo Dục Viên, Hạc Kiến Tổng Hợp Bệnh Viện, Mẫu Tử Liêu, Hội Tham Thiền ngày Chủ Nhật v.v... với mục đích phụng sự và xây dựng một xã hội tự do bình đẳng và mọi người được cống hiến.
III.2 Thất Đường Già Lam
III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện
Già Lam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama, còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện Nhật Bản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, gián tiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiến trúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúc Triều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từ thời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đó bị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (Trung Hoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời Đào Sơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nên phong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Còn thời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiện đại và độc lập, theo lối phong cách Âu Châu.
Kiến trúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹn phong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường, còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống Lâm Tế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũng không thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.
III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành
Thiền Sư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện Trung Quốc và Ấn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêm của Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theo Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫn sử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời Giang Hộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữ nầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi là Thất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường, Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp 5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầy không gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặc biệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có, tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùa thuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp.
Hình thức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tự từ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa), bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh). Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành một hình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhà liên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôi chùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (Chánh Điện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ), Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biến dạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ là những trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùa đều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp với khả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về Thất Đường Già Lam dưới đây.
III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam
Sơn Môn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giới thanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thường có ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên, còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còn có những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn, Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn và Nhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trí các vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượng Phật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung (Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có Tổng Môn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, Dược Y Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.
Điện Phật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện, Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có Tu Di Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, hai bên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng Bồ Tát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổ của Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ Tổ Thiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức Phật Thích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghe nhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại), Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ). Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai). Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) và Bồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đông của Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ Đàn Thổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn, thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạch hay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phần nghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.
Pháp Đường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tu tập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đại diện chư Phật, chư vị Tổ Sư có trách nhiệm truyền trao giáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiết tượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, có đặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từ bi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước, ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là Pháp Đường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một Đạo Tràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. Giữa Tổ Đường là Pháp Đường cũng còn có ý nghĩa là tôn trọng giữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy, đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứ hai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị Tổ Sư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường có những thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghi lễ quan trọng đều cử hành tại đây.
Khố Viện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng Đại Hắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứa thực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa là nơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.
Dục Thất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. Trong Chùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phải giữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không được cười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanh ồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnh cũng quan trọng như những việc tu hành khác.
Tăng Đường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là Tuyển Phật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chính giữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa Thiền Đường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đường vì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khác với nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng và chư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường. Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có những nơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũng có thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối không ai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.
Đồng thời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùng cơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là Nội Đường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả Kiều Trần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiết kế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, là những cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếc chiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặc cửa sổ.
Còn có những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng 30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng y áo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọi là Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng để làm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạch thanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơn như thế.
Bên ngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông, Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng như những pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việc như đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thực hiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng Bồ Tát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn) và liêu chúng gần Tăng Đường.
Đông Ty là Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưng chữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thường để tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.
III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường
Tóm lại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ở đâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộc vào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọi người nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗi tính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoán chung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:
Thứ nhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng để tu tập và tọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệ với Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, mà dù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đề căn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động
Thứ hai, Bồ Đề Tự là tự viện để lễ bái và phụng thờ Ngài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần, Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng, Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về sau dù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phong cũ.
Thứ ba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư, Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa, Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự viện lễ bái cầu nguyện.
Thứ tư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gần gũi mọi người và cảnh trí đẹp, được nhiều người tới lui vãn cảnh.
Tuy nhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn, còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bản là những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai Sơn Đường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đường v.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.
Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏ nhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉ khắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.
Bổn Đường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bên trong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ Tam Tôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặc thù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ Đức A Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v... có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa. Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát mà ở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.
Trên bốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thường có 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờ tượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượng Đạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải trái thờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.
Tại Bổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụng Kinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầu siêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...
Khai Sơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ Ngài Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư. Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị Hòa Thượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượng của các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lập chùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ở giữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh, có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.
Vị Bi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thể thờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùy địa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệt lập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa, thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗi bàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi gia đình đến chùa chăm sóc lấy.
Khố Lý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướng về Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễ vật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở của gia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòng ăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớn hay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.
Tọa Thiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về Chánh Điện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điều kiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dưới của Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường, có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.
Lầu Chuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tối thỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùa nào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửa hay bên trong Chánh Điện.
Ngoài ra, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, Trấn Thủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), Thần Xã, Sáng Khố v.v...
III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng
Già Lam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đây là những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật. Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, được tổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đích tu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sự phối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhất định phải phân công công việc để làm, không ai không làm việc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đến bây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiên ở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không những chỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả những tự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trong chùa phải làm việc được giải thích như sau:
Trụ Chức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có trách nhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn Giáo Pháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng còn xưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi là Đường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là Phương Trượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vị Trụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.
Quản Thủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi là Quản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị Phó Quản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.
Tây Đường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trì cung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thường vị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.
Giám Viện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quản quán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hành chánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảng Lục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có Phó Giám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Viện vắng mặt .
Hậu Đường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.
Đơn Đầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đang hành trì và trực tiếp chỉ đạo.
Phó Tự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong 6 phép hòa kính.
Tri Khố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡ cho vị phó Trụ Trì.
Duy Na là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu, chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường, tụng khai Kinh và hồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vững kỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xem đây là việc của vị Giám Tự.
Duyệt Chúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.
Đường Hành cũng là nhiệm vụ của Duy Na và Duyệt Chúng, phải gõ khánh, tụng khai Kinh và hồi hướng trong mỗi thời công phu tụng Kinh.
Điển Tọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.
Phó Điển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việc cho Điển Tọa.
Trực Tế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữa Già Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.
Tri Khách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.
Thị Chơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.
Cúng Chơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là Truyền Cúng.
Tri Điện là vị Tăng quản lý Phật Điện và Pháp Đường. Người phụ tá gọi là Diện Hạnh.
Thượng Sự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.
Tri Dục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.
Thị Cục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vị Trụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vị Quản Thủ.
Thị Giả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ Trì và Chư Tôn Đức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:
Thiêu Hương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hương đăng và dâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.
Thư Trạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
Thỉnh Khách Thị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách của vị Trụ Trì.
Y Bát Thị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.
Thang Dược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men cho vị Trụ Trì.
Thông thường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.
Thị Thánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại Tăng Đường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nước hoặc trà nóng lên Bồ Tát.
Giảng Sư nghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩa và thuyết pháp cho Chư Tăng và Tín Đồ.
Tạng Chủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiều bảo vật.
Tịnh Đầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).
Tấu Giả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc những liêu xá, khi có những việc cần thiết.
Thủ Tọa là địa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là Thượng Tọa.
Thư Ký nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách những công việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vị trí thứ hai sau Thượng Tọa.
Biện Sự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa, nơi liêu Thủ Tọa.
Hành Giả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làm các công việc.
Ngoài ra, ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, Pháp Đường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị lo công việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị lo việc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiều lắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn có khá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việc không cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theo tính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương, tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêm hay bớt.
III.3 Bổn Tôn, Phật Tượng Và Pháp Cụ
III.3.1 Già Lam và Bổn Tôn
Trong Già Lam tự viện của Tông Tào Động, an trí tôn tượng Phật ngay chính giữa Chánh Điện, tất nhiên cách phối trí sao cho phù hợp với không gian và hoàn cảnh, để người lễ Phật và khách tham quan dễ nhìn, hẳn nhiên không đơn thuần cho việc lễ bái, mà còn ẩn tàng cả một triết lý cao siêu nữa. Bởi vì, như trước đã nói, Bổn Tôn của Tào Động Tông là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Thích Tôn).
Thật không sai nếu cho rằng Điện Phật là Trung Tâm của Già Lam, tất nhiên phải thờ tượng Phật ở tại Bổn Đường (Chánh Điện). Ở Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Hiện tại) thờ ở giữa, hai bên trái và phải thờ Phật A Di Đà (Phật quá khứ) và Phật Di Lặc (Phật vị lai). Tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự thờ Phật ở chính giữa và hai bên thờ Tôn Giả Ca Diếp và Tôn Giả A Nan. Tại Đại Thừa Tự, huyện Ishinakawa, phố Kanezawa thờ Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền ở hai bên. Tại Chùa Vĩnh Quang, Ishikawa, phố Hakui thờ Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Hư Không Tạng ở hai bên.
Các tự viện thuộc Tông Tào Động vốn thờ tôn tượng Phật song không hầu hết như thế. Tại Phật Điện chỉ an trí Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tôn, tại Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, La Hán v.v... tại Tăng Đường thờ Bồ Tát Văn Thù, tại chỗ tắm thờ Bạt Đà Bà La Tôn Giả, tại Đông Ty (nhà xí) thờ Điểu Sô Sa Ma Minh Vương v.v... đại loại như thế để phân biệt rõ đâu là Chánh Điện, không phải là Pháp Đường hoặc liêu xá, hoặc nhà Từ Đường. Những tôn tượng Phật và các tượng khác v.v... cũng đổi thay tùy theo lịch sử và điều kiện của tự viện nữa, từ đó các loại Điện Đường thành hình ngày càng trở nên đa dạng như vậy.
Song dù sao đi nữa, ý nghĩa tôn thờ Tôn Tượng không có gì khác ngoài sự biểu lộ tâm thành của người lễ bái. Khi thành tâm lễ bái, ta phải hiểu rằng, những tôn tượng Phật trở nên sống động đối với người lễ và những tôn tượng Phật hàm dung một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
III.3.2 Tượng Phật
Tôn tượng Phật thật tế có nhiều loại như tượng Như Lai (Phật), tượng Bồ Tát, tượng Minh Vương, tượng Thiên Thần, về hình thức, có nhiều hình dáng khác nhau, có nhiều tượng đứng, tượng ngồi mỗi tượng hàm chứa ý nghĩa mỗi khác.
Tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vị Giáo Chủ, khai Tổ của Phật Giáo, tọa Thiền tay bắt ấn kiết già luôn luôn thờ chính giữa trên Phật Điện hay trong Bổn Đường. Ngoài ra, ngày lễ Phật Đản (mồng 8 tháng 4 gọi là Hanamatsuri) và lễ Nhập Niết Bàn (nhằm ngày 15 tháng 2), thường treo thêm tranh họa Phật đản sanh hay cảnh nhập Phật Niết Bàn.
Tôn Tượng A Di Đà Như Lai, vị Giáo Chủ của cõi Tây Phương Cực Lạc tượng trưng Phật trong quá khứ, thờ một bên Đức Thích Ca Mâu Ni trong Phật Điện Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự.
Còn tôn tượng Thập Tam Phật gồm Đức Thích Ca, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát là 3 vị ở chính giữa và 10 vị Phật khác phối trí thờ thêm vào, song đa phần tượng tranh, được tôn thờ vào các ngày cầu siêu như:
• Tượng Bất Động thờ vào ngày cúng sơ thất
• Tượng Thích Ca thờ vào ngày cúng nhị thất
• Tượng Văn Thù thờ vào ngày cúng tam thất
• Tượng Phổ Hiền thờ vào ngày cúng tứ thất
• Tượng Địa Tạng thờ vào ngày cúng ngũ thất
• Tượng Di Lặc thờ vào ngày cúng Lục thất
• Tượng Dược Sư thờ vào ngày cúng chung thất
• Tượng Quan Âm thờ vào ngày cúng bách Nhật
• Tượng Thế Chí thờ vào ngày cúng giáp năm
• Tượng Di Đà thờ vào ngày cúng 3 năm
• Tượng A Súc Phật thờ vào ngày cúng 7 năm
• Tượng Đại Nhật thờ vào ngày cúng 13 năm
• Tượng Hư Không Tạng thờ lễ cúng 33 năm.
Bồ Tát Văn Thù biểu trưng trí tuệ của Phật, hình dáng là một vị Tăng cỡi Sư Tử đang nằm, thờ tại Tăng Đường, như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Quán Thế Âm biểu tượng cho trí tuệ và từ bi của Phật, mà đặc biệt mọi người ai ai cũng biết đến Ngài, thờ tại liêu chúng xuất gia như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Hư Không Tạng biểu trưng cho công đức trí tuệ và từ bi của Phật vô cùng rộng lớn và cao cả như hư không, thờ tại liêu của chúng Tăng như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Phóng Quang chỉ cho Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát hợp thành, mà không phải riêng Bồ Tát nào. Còn Bồ Tát Địa Tạng, có thệ nguyện rộng sâu, có hạnh nguyện quảng đại siêu việt an định đại địa. Trên lầu Sơn Môn của Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, có thờ hai tượng Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng. Còn tại Phóng Quang Đường ở Tổ Viện, thờ vị Bồ Tát Phóng Quang, là Địa Tạng Bồ Tát. Còn tại Phóng Quang Đường của Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, thờ tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tại Thường Chiếu Điện, thờ tượng Bồ Tát Quan Thế Âm như vị Bổn Tôn. Vả lại, các tự viện địa phương thuộc Tông Tào Động, thờ Bồ Tát Địa Tạng, bởi vì có nhiều người tin và thường đến đó để lễ bái nguyện cầu.
Bồ Tát Di Lặc, còn gọi là Phật Vị Lai bởi vì Bồ Tát sẽ hạ sanh thành Phật, sau Đức Thích Tôn nhập diệt vào khoảng 56 triệu bảy ngàn vạn năm, nơi thế giới nầy một lần nữa. Tại Phật Điện Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, thờ bên cạnh Đức Thích Ca Tam Tôn.
Bồ Tát Phổ Hiền, vị Bồ Tát có bổn nguyện biểu trưng cho đức của Phật. Nếu Bồ Tát Văn Thù biểu trưng cho Trí Tuệ, Bồ Tát Phổ Hiền chỉ cho Hạnh Nguyện. Tại Phật Điện chùa Đại Thừa, huyện Ishikawa, thờ bên cạnh Thích Ca Tam Tôn.
Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý là Thần Hộ Pháp thờ tại chùa A Dục Vương Quảng Lợi Tự, núi Chiêu Bảo Sơn, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa cho nên có tên như vậy. Truyền thuyết kể rằng lúc Thiền Sư Đạo Nguyên về lại Nhật sau thời gian du học ở Trung Hoa, có một người tùy tùng theo hộ trì giúp đỡ cho Phật pháp phát triển và bảo hộ thân mạng cho Thiền Sư, cho nên đối diện với bàn thờ Bổn Tôn trên Phật Điện hoặc Bổn Đường, an trí tôn tượng vị Bồ Tát nầy, với y phục của bậc Đế Vương, tay phải đưa lên ngang trán, nhìn lên, mặt hướng vào bên trong, xoay lưng ra bên ngoài.
Bồ Tát Bạt Đà Bà La (Tôn Giả) ngộ đạo khi đi tắm cho nên trở thành Bổn Tôn của phòng tắm.
Bồ Tát Điểu Sô Sa Ma Minh Vương là bậc Minh Vương nguyện diệt trừ dơ nhớp nên trở thành Bổn Tôn của Đông Ty (nhà xí). Còn Bất Động Minh Vương tùy tùng Đại Nhật Như Lai, giải trừ những việc ác. Không phải chỉ riêng vị Minh Vương nào đó có duyên với Tông Tào Động song hầu như tất cả các tự viện thuộc Tông Tào Động đều thờ vị Bất Động Minh Vương.
Vi Đà Thiên vốn là vị Thần trong Thần Thoại Ấn Độ, về sau được Phật Giáo nhập chung vào trở thành vị Thần hộ pháp Già Lam, lo phụng sự, bảo hộ giữ gìn thực phẩm cho chư Tăng. Truyền thuyết kể rằng Ngài mặc áo giáp, đeo kiếm báu trên vai, hai tay chấp lại, rất hảo tướng, hộ trì Phật Pháp, đánh dẹp tà ma chạy về cõi Trời Vi Đà. Thường thường tôn tượng của Ngài an trí tại nhà Kho. Sáng mồng năm mỗi tháng, có hồi hướng kinh văn cho Ngài Vi Đà Thiên nầy trong thời tụng Kinh.
Long Thiên là những vị Long Thiên Hộ Pháp, còn Đại Thiện Thần là những vị Thần bảo hộ Phật pháp. Chư Tăng và những vị Thầy cúng thường viết trên bài vị hai hàng: “Phụng Thỉnh Long Thiên Hộ Pháp Đại Thiện Thần – Bạch Sơn Diệu Lý Đại Quyền Hiện”, rồi để trên sàn nhà trong phòng ở, khi lễ bái đọc Kinh xong thường cầu nguyện mong Phật sự thành tựu viên mãn.
Biện Tài Thiên nói tắt là Biện Thiên, vị Thần trong thần thoại Ấn Độ trong hình thức người nữ, giỏi âm nhạc, giỏi biện thuyết, tài phước, trí tuệ và Phật pháp.
Trà Chỉ Ni Thiên cũng là vị Thần trong thần thoại Ấn Độ, về sau được thờ chung với con cáo trắng và Thần Lúa, gọi là Thần Đạo Hà. Khi Thiền Sư Đạo Nguyên về quê hương vị Thần Đạo Hà của Nhật hiện ra, được truyền tụng chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Ở chùa Diệu Nghiêm Tự (Myogonji), huyện Aichi, phố Phong Xuyên có thờ và trên toàn nước Nhật ai cũng biết Thần Phong Xuyên Đạo Hà nầy.
Tứ Thiên Vương là những vị Thần từ cõi trời đến để hộ trì Phật Pháp ở khắp bốn phương, vốn cũng là vị Thần trong thần thoại Ấn Độ.
Phương Đông có vị Trì Quốc Thiên.
Phương Nam có vị Tăng Trưởng Thiên.
Phương Tây có vị Quảng Mục Thiên.
Phương Bắc có vị Đa Văn Thiên hay còn gọi là Tỳ Sa Môn Thiên.
Đặc biệt, không có tượng Tứ Thiên Vương để thờ, nhưng khi lễ Vu Lan, trong Trai Đàn Đại Thí Cô Hồn, thấy tên của bốn vị Thiên Vương nầy viết lên trên lá phang treo phía trước.
Đại Hắc Thiên, vị thần hộ trì việc ăn uống và phước đức, cũng là vị Thần theo truyền thống thần thoại của Ấn Độ. Về sau, được thờ chung với Đại Quốc Chủ Thần, một trong 7 vị thần ban phước và gọi là Phước Thần. Tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, thờ vị Đại Hắc Thiên nầy trong Khố Viện.
Tam Bảo Đại Hoang Thần còn gọi là ông Táo, là vị Thần hộ trì Phật pháp, trừ khử việc bất tịnh. Tại chùa Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, vị thần nầy được thờ trong Tổ Viện với Đại Nhật Như Lai, A Di Đà Như Lai, được xem như là hóa thân quyền hiện của Bồ Tát Văn Thù giải trừ bảy nạn và chứng minh gia hộ cho người cầu phước thọ linh nghiệm.
Nhân Vương là vị Thần đứng ngoài cổng Sơn Môn, bên trái là Mật Tích Kim Cang và bên phải là Na La Diên Kim Cang. Mật Tích Kim Cang biểu trưng lý Đức, với hình dáng khuôn miệng của người nữ mở ra (A). Na La Diên Kim Cang biểu trưng trí của Đức với hình dáng khuôn miệng của người nam ngậm lại (Hồng).
Thập Lục Thiên Thần phát xuất từ Kinh Bát Nhã, nguyên do khi Đức Phật Thích Ca giảng Kinh Bát Nhã, có 16 vị Thần hiện ra phát tâm bảo hộ và giữ gìn Kinh Bát Nhã. Tết đến có lễ hội cầu nguyện Bát Nhã, tranh tượng được treo lên và Kinh Bát Nhã được thọ trì. Trong bức tranh đó, Đức Thích Tôn an vị tại chính giữa, hai bên là Bồ Tát Thường Đề và Bồ Tát Pháp Dũng, chung quanh có 16 vị Thiện Thần vây quanh thủ hộ. Khi dịch Kinh Bát Nhã, Pháp Sư Huyền Trang Tam Tạng cho họa và treo thêm hình của Thâm Diệu Đại Tướng nữa.
Thập Bát Thiện Thần: Ngoài 16 vị Thiện Thần, còn có hai vị Phạm Thiên và Đế Thích Thiên, những vị Thần giữ gìn Già Lam và hộ trì Phật Pháp.
Thổ Địa Thần, không nhất thiết là thần giữ gìn đất đai và vườn tược của chùa, song có thể nghĩ là một trong những Chư Thiên Thiện Thần.
Già Lam Thần không nhất thiết là thần bảo hộ những kiến trúc chùa. Như trước đã nói, Có 19 Thiên Thần, sau có Hỏa Đức Thánh Quân đều là một trong những vị Thần Già Lam và là một trong Chư Thiện Thần.
Táo Công Chơn Tể là Thần hộ trì bếp núc chủ yếu là nồi niêu.
Trấn Thủy Thổ Địa Thần cũng giống với Già Lam Thần là Thần giữ gìn hộ trì Già Lam của chùa, như Bạch Sơn Thần Xã bảo hộ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự. Ở những Tự Đường khác, thờ Ái Đãng Đại Quyền Hiện (Thắng Quân Địa Tạng Tôn); Dũng Tuyền Đạo Hà; Thiên Chiếu Đại Thần Cung; Kim Tỳ La Xã là những Sơn Thần v.v... Tại Tổ Viện Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự thờ Ốc Đại Vương Quyền Hiện Xã v.v...
Thập Lục La Hán là 16 vị A La Hán, hộ trì Phật pháp, thường được thờ trên lầu của gác chuông, hoặc trong Chánh Điện, hoặc thờ riêng trong La Hán Đường. Thông thường, tượng làm bằng gỗ hoặc tranh họa. Có nhiều hình tượng La Hán như 4 vị, 18 vị hay 500 vị, A La Hán được nhiều người sùng bái, cho nên có nhiều chùa thờ các vị A La Hán và tổ chức Lễ Hội La Hán nữa.
Hỏa Đức Thánh Quân, theo truyền thuyết cổ của Trung Hoa, là sự hiển linh của Thần Nông, người đầu tiên chế thuốc có quyến thuộc là những vị Hỏa Bộ Thánh Chúng. Trên điện Phật thường treo những tranh nầy, gọi là vị Thần trừ hỏa tai.
Giám Trai Sứ Giả, còn gọi là vị sứ giả của nhà Trù, Thần giữ gìn và chăm lo việc ăn uống của chư Tăng, thường được thờ trong Khố Viện.
Kiều Trần Như Tôn Giả, gọi tắt là Trần Như Tôn Giả là một trong năm người đệ tử đầu tiên của Phật được nghe Pháp và chứng ngộ, được xưng tán là Đệ Nhứt Ngộ Đạo Phạm Hạnh, cho nên thờ Ngài là một trong những vị Thánh Tăng trong Tăng Đường. (như thờ trong Thiền Đường chùa Đoan Long, huyện Fujisan). Như trong quyển danh sách chư Tăng đệ tử Phật kiết hạ an cư theo thứ tự hạ lạp, tên của Ngài Trần Như Tôn Giả ghi đầu sổ.
Tân Đầu Lô Tôn Giả là một vị trong 16 vị La Hán, đầu bạc mi dài, có nhiều thần thông, thường được thờ trong Tăng Đường hoặc Thực Đường, hoặc thường được thờ ngay cửa vào Chánh Điện, nhiều người tin rằng xoa vuốt tượng nầy sẽ không bệnh hoạn.
Truyền Đại Sĩ người đời nhà Lương (496 – 569) sanh tại tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa, Họ Truyền, tên Hấp là một Phật Tử thuần tín Tam Bảo, lãnh hội rốt ráo những giáo huấn của Tổ Đạt Ma Đại Sư. Ngài cũng còn được xem là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc, xây dựng tàng Kinh các, vì thế tôn tượng của Truyền Đại Sĩ thường được thờ trong tàng Kinh các.
Đạo Liễu Đại Quyền Hiện, còn gọi là Đạo Liễu Đại Tát Đỏa, khai sơn Chùa Tối Thừa, huyện Kanagawa, phố Chisada, mà Thiền Sư Liễu Am Huệ Minh đứng hầu. Chùa Ngài có phong cách kiến trúc đặc biệt, phải nói rằng, toát lên một sức mạnh phi thường. Sau khi Thiền Sư viên tịch đã hóa thành Thiên Cẩu, biến vào không trung. Có nhiều người tin và cầu nguyện Ngài gia hộ cho nên ở Nhật ai cũng biết Chùa Tối Thừa và gọi Ngài rất thân thiện là Ông Đạo Liễu.
Tam Xích Phường Quyền Hiện xuất thân ở huyện Nagano, thâm tín Bồ Tát Quan Thế Âm xuất gia năm lên 7, trở thành một trong 12 tu sĩ của Tam Xích Phường, khai sơn Chùa Thu Diệp, huyện Sizuoka vào năm Đại Đồng thứ 4 (809), chứng đắc thần thông cho nên sau khi viên tịch được thờ tại Tạng Vương Đường, huyện Nigata. Năm Minh Trị thứ 6 (1873) Chùa Thu Diệp bị phế bỏ và dời về Thùy Tế (Suisai), huyện Sizuoka. Hầu hết các chùa thuộc Tông Tào Động đều thờ Tam Xích Phường Quyền Hiện, được gọi là Đại Ngư Thần để trừ hỏa tai.
Lễ Thọ Giới: dành riêng cho Đàn Tín Đồ về lãnh thọ giới pháp từ vị Giới Sư, làm sống lại tánh tự giác của Tín Đồ Phật Giáo tổ chức từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 28 tháng 4 tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, và một tuần lễ từ ngày 10 đến ngày 16 tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Hầu hết tất cả Đàn Tín Đồ vân tập về Đại Bổn Sơn cùng tu với chư Tăng, trực tiếp học Phật Pháp với các vị Cao Tăng và nhận sự chỉ dạy đặc biệt từ vị Quản Thủ Thiền Sư.
Nhãn Tạng Hội và Truyền Quang Hội: Mỗi năm, từ ngày mồng một đến ngày 21 tháng 6 tại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự thường tổ chức giới thiệu những vị Sư Gia Cao Đức đương thời trình bày những trước tác của Thiền Sư Đạo Nguyên, Tào Động Tông Tông Điển và Chánh Pháp Nhãn Tạng. Những buổi thuyết trình như thế giảng chung cho thính chúng rất đông người tham dự. Tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, tổ chức từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 6 thuyết trình về Thiền Sư Oánh Sơn ngữ lục, Tào Động Tông Tông Điển và Truyền Quang Lục tại Hậu Đường của Tổng Trì Tự, thỉnh các vị học giả đương thời hoặc các Sư Gia giảng công cộng cho thính giả. Tuy nhiên, vấn đề thời gian, ngày tháng cũng thay đổi trước sau tùy năm, để phù hợp với chương trình chung.