Chư Thiền Đức Việt Nam, Triều Tiên, Tây Tạng và... Tập 4 (song ngữ Việt-Anh)

03/11/20174:17 SA(Xem: 17625)
Chư Thiền Đức Việt Nam, Triều Tiên, Tây Tạng và... Tập 4 (song ngữ Việt-Anh)
Tập I Tập II Tập III Tập IV
 
THIỆN PHÚC
CHƯ THIỀN ĐỨC 
VIỆT NAM, TRIỀU TIÊN, TÂY TẠNG &
CÁC XỨ THEO PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

ZEN VIRTUES 
VIETNAM, KOREA, TIBET & THERAVADA COUNTRIES
VIỆT-ANH | VIETNAMESE-ENGLISH
TẬP BỐN | VOLUME FOUR

Chu Thien Duc tap 4 
MỤC LỤC THEO MẪU TỰ
TABLE OF CONTENT ON ALPHABETICAL ORDERS
TẬP BỐN| VOLUME FOUR
 
A
Achaan Chaa Ch.16 (B)(V) 2307
Achaan Buddhadasa Ch.16 (B)(VI) 2308
Achaan Naeb Ch.16 (B)(XI) 2315
Achaan Jumnien Ch.16 (B)(XII) 2317
Achaan Dhammadaro Ch.16 (B)(XIII) 2318
Achaan Maha Boowa Ch.16 (B)(XV) 2320
A Để Sa Ch.15 (C)(XII) 2224
An Thiền Ch.13 (G-3c)(I) 2097
Ân Tùy 2127
B
Bảo Giám Ch.13 (C-3i)(I) 2020
Bảo Tính Ch.13 (C-3g)(IV) 2006
Bát Nhã Ch.13 (D-3a)(II) 2066
Biện Tài Ch.13 (C-3i)(III) 2024
Bổn Tịch Ch.13 (B-3m)(IV) 1956
Bổn Tịnh Ch.13 (C-3i)(V) 2025
Bu Ston Ch.15 (C)(XXI) 2230
C
Cảm Thành Ch.13 (C-3a)(I) 1985
Chân Không Ch.13 (B-3p)(I) 1963
Chân Nguyên Ch.13 (H-2c)(I) 2102
Chogyel Pakpa Lodro Ch.15 (C)(XX) 2229
Chuyết Công Ch.13 (H-2a)(I) 2100
Cứu Chỉ Ch.13 (C-3g)(II) 2003
D
Diệu Nhân Ch.13 (B-3g)(I) 1969
Đa Bảo Ch.13 (C-3e)(I) 1992
Đại Xả Ch.13 (C-3j)(III) 2032
Đạo Chân Ch.13 (I)(I) 2141
Đạo Dật Ch.15 (B-2-1)(VII)/(B-3-b2)(III) 2205
Đạo Doãn Ch.14 (B)(V) 2149
Đạo Hạnh Ch.13 (B-3l)(III) 1946
Đạo Huệ Ch.13 (C-3i)(II) 2022
Đạo Lâm Ch.13 (B-3p)(III) 1969
Đạo Nghĩa 2150
Đạo Sằn Ch.14 (B)(IX) 2151
Đạo Tâm Ch.13 (I)(II) 2141
Đạo Trung Thiện Hiếu Ch.13 (H-3f)(III) 2136
Định Giác Ch.13 (D-3b)(III) 2067
Định Huệ Ch.13 (B-3k)(II) 1946
Định Hương Ch.13 (C-3f)(I) 1993
Định Không Ch.13 (B-3h)(I) 1934
Đỗ Hồng Tiệm Ch.15 (B-2-3)(V)/(B-3-c2)(II) 2212
Đỗ Vũ Ch.13 (D-3c)(I) 2070
Dorje Shukden Ch.15 (C)(XXVII) 2233
Dorjiev, Agvan Ch.15 (D)(I) 2236 G
Gampopa Sonam Ch.15 (C)(XVIII) 2228
Giác Hải Ch.13 (B-3j)(I) 2027
Giới Không Ch.13 (B-3o)(I) 1960
H
Hải Bình Bảo Tạng Ch.13 (H-3h)(I) 2138
Hải Quýnh Từ Phong Ch.13 (H-2g)(I) 2111
Hải Tịnh 2135
Hàng Ma Táng Ch.15 (B-1)(IV)/(C)(IX) 2221
Hiện Quang Ch.13 (C-3n)(II) 2059
Hoàng Long Ch.13 (I)(III) 2141
Hồng Trắc Ch.14 (B)(X) 2151
Huệ Siêu Ch.14 (B)(IV) 2147
Huệ Sinh Ch.13 (B-3m)(II) 1953
Huệ Triệt Ch.14 (B)(III) 2147
Huyền Dục Ch.14 (B)(II) 2147
Huyền Quang Ch.13 (F-3)(II) 2089
I
Ích Châu Thạch Ch.15 (B-2-1)(VI)/(B-3-b2)(II) 2203
Ích Châu Vô Tướng Ch.15 (B-2-1)(III)/(B-3-b2)(I) 2201
J
Jamgon Kongtrul Lodro Taye Ch.15 (D)(II) 2236
Jamyang Khyentse Chogi Lodro Ch.15 (D)(IV) 2237
K
Kalu Rinpoche Ch.15 (D)(VI) 223
7
Khánh Anh Ch.13 (H-3k)(I) 2139
Khánh Hỷ Ch.13 (B-3n)(I) 1957
Khánh Long Ch.13 (I)(IV) 2142
Khenchen Thrangu Ch.16 (D)(VII) 2238
Không Lộ Ch.13 (C-3i)(IV) 2024
Khuông Việt Ch.13 (C-3d)(I) 1990
Kim Liên Tịch Truyền Ch.13 (H-2h)(I) 2114
Kính Hư Ch.14 (B)(XVIII) 2154
Konchok Gyelpo Ch.15 (C)(XV) 2227
Kusan Sunim Ch.14 (B)(XIX) 2155 L
La Quí Ch.13 (B-3j)(I) 1935
Lão An Ch.15 (B-2-3)(I) 2194
Liên Hoa Giới Ch.15 (C)(VI) 2219
Liên Hoa Sanh Ch.15 (C)(VII) 2220
Liễu Đạt Thiệt Thành Ch.13 (H-3c)(II) 2132
Liễu Quán Ch.13 (H-3c)(I) 2129
Longchen Rabjampa Ch.15 (C)(XXII) 2230
Lợi Nghiêm Ch.14 (B)(XI) 2151
Lý Anh Tông Ch.13 (D-3c)(III) 2070
Lý Cao Tông Ch.13 (D-3d)(II) 2071
Lý Nhân Tông 2067
Lý Thái Tông Ch.13 (C-3g)(VI) 2010
Lý Thánh Tông Ch.13 (D-3a)(I) 2065
M
Ma Ha Ch.13 (B-3j)(III) 1938
Ma Ha Diễn Ch.15 (B-1)(V)/(B-3-a2)(II) 2199
Mạc Dung Đỉnh Ch.15 (B-2-3)(VI)/(B-3-c2)(III) 2214
Machik Lapgi Dronma Ch.15 (C)(XVII) 2227
Mahasi Sayadaw Ch.16 (B)(II) 2304
Mãn Giác Ch.13 (C-3h)(II) 2014
Marpa Ch.15 (C)(XIV) 2226
Milarepa Ch.15 (C)(XVI) 2227
Minh Chánh 2096
Minh Hải Pháp Bảo Ch.13 (H-3b)(V) 2128
Minh Hải Phật Bảo Ch.13 (H-3b)(IV) 2128
Minh Hành Ch.13 (H-2b)(I) 2100
Minh Khiêm Hoằng Ân Ch.13 (H-3f)(II) 2135
Minh Không Ch.13 (B-3m)(I) 1952
Minh Lương Ch.13 (H-2b)(II) 2101
Minh Tâm Ch.13 (C-3g)(III) 2006
Minh Trí Ch.13 (C-3j)(VIII) 2043
Minh Vật Nhất Tri Ch.13 (H-3b)(I) 2127
Minh Vi Mật Hạnh Ch.13 (H-3f)(I) 2135
Mogok Sayadaw Ch.16 (B)(VIII) 2311
Mohnyin Sayadaw Ch.16 (B)(VII) 2309
Mu Soeng Ch.14 (B)(XVI) 2153
N
Naropa Ch.16 (C)(XXV) 2231
Ngawang Gunga Tekchen Belbar Sampel Wanggi Gyelpo Ch.15 (D)(XI) 2240
Ngawang Losang Gyatso Ch.15 (C)(XXVI) 2233
Ngọa Luân Ch.15 (C)(X) 2221
Ngộ Ấn Ch.13 (C-3h)(I) 2012
Ngộ Chân Long Cốc Ch.13 (H-3i)(I) 2138
Ngộ Ích Ch.13 (D-3b)(I) 2066
Ngộ Xá Ch.13 (D-3a)(III) 2066
Nguyên Hiểu Ch.14 (B)(I) 2146
Nguyên Thiều Ch.13 (H-3a)(I) 2125
Nguyễn Thức Ch.13 (D-3d)(III) 2072
Nguyện Học Ch.13 (C-3j)(X) 2047
Nguyệt Xứng Ch.15 (C)(III) 2217
Nhất Cú Tri Giáo Ch.13 (G-2a)(I) 2092
Nhất Định Ch.13 (H-3e)(I) 2134
Như Đức 2089
Như Hiện Ch.13 (H-2d)(I) 2107
Như Nhãn Từ Phong Ch.13 (H-3g)(II) 2136
Như Như Ch.13 (G-2d)(I) 2096
Như Trừng Lân Giác Ch.13 (H-2d)(II) 2108
O
Phá Táo Đọa Ch.15 (B-2-3)(II) 2195
Phạm Âm Ch.13 (D-3c)(II) 2070
Phạm Nhật Ch.14 (B)(VIII) 2150
Phạm Phụng Ngự Ch.13 (D-3d)(IV) 2072
Pháp Chiếu Đại Sư Ch.15 (B-2-1)(V) 2191
Pháp Dung Ch.13 (B-3o)(II) 1962
Pháp Hiền Ch.13 (B-3a)(I) 1930
Pháp Loa Ch.13 (F-3)(I) 2089
Pháp Thông Thiện Hỷ Ch.13 (G-3b)(I) 2097
Pháp Thuận Ch.13 (B-3j)(II) 1937
Pháp Xứng Ch.15 (C)(I) 2216
Phật Ý Linh Nhạc Ch.13 (H-3c)(III) 2132
Phổ Độ Tăng Ch.15 (B-1)(I) 2187
Phổ Minh Ch.15 (B-1)(III) 2188
Phổ Tịnh Ch.13 (H-2j)(I) 2120
Phra Acariya Mun Bhuridatta Thera Ch.16 (B)(IX) 2312
Phúc Điền Ch.13 (H-2i)(II)
Phước Hậu 2137
Phước Hiệp 2127
Phước Huệ Chơn Luân Ch.13 (H-3k)(II) 2139 Q
Quả Lãng Tuyên Thập Ch.15 (B-2-2)(I) 2193
Quảng Nghiêm Ch.13 (C-3k)(I) 2049
Quảng Trí Ch.13 (C-3g)(V) 2007 R
Rampa, T. Lobsang Ch.15 (D)(VIII) 2238
Rang'byung rigs pa'i rdo rje Ch.15 (D)(X) 2239
Rinchen Sangpo Ch.15 (C)(VIII) 2220
S
Sakya Pandita Gunga Gyeltsen Bel Sangpo Ch.15 (C)(XIX) 2229
Sogyal Rinpoche Ch.15 (D)(XVI) 2241
Sopa, Geshe Lhundrup Ch.15 (D)(IX) 2239
Srongsen Gampo Ch.15 (C)(II) 2217
Sùng Phạm Ch.13 (B-3k)(II) 1940
Sùng Sơn Hạnh Nguyện Ch.14 (B)(XX) 2155
Sunlun Sayadaw Ch.16 (B)(I) 2303
T
Tánh Huệ Nhứt Chơn 2137
Tánh Khoát Đức Giai 2137
Tánh Thông Giác Ngộ Ch.13 (H-3g)(I) 2136
Tarthang Tulku Ch.15 (D)(XII) 2240
Taungpilu Sayadaw Ch.16 (B)(XIV) 2319
Tây Vực Quật Đa Tam Tạng Ch.15 (B-1)(VI)/(B-3-a2)(III) 2199
Tế Bổn Viên Thường 2134
Tế Giác Quảng Châu 2134
Thạch Liêm Ch.13 (G-3a)(I) 2097
Thái Năng Ch.14 (B)(XVII) 2154
Thản Nhiên Ch.14 (B)(XII) 2151
Thanh Biện Ch.13 (B-3d) 1932
Thanh Đàm 2095
Thanh Kế Huệ Đăng 2138
Thanh Lãng Đạo Nguyên 2095
Thành Đẳng Minh Lượng Ch.13 (H-3b)(VI) 2128
Thành Nhạc Ẩn Sơn Ch.13 (H-3b)(VII) 2129
Thảo Đường 2065
Thần Nghi Ch.13 (C-3m)(I) 2054
Thiên Ân 2139
Thiền Lão Ch.13 (C-3f)(II) 1994
Thiền Nham Ch.13 (B-3m)(III) 1955
Thiền Ông Đạo Giả Ch.13 (B-3k)(I) 1940
Thiện Hội Ch.13 (C-3b)(I) 1988
Thiệt Dinh Chánh Hiển 2132
Thiệt Kiến Liễu Triệt 2132
Thiệt Thoại Tánh Tường 2133
Thiệu Minh Ch.13 (D-3b)(II) 2067
Thông Biện Ch.13 (C-3h)(III) 2016
Thông Thiền Ch.13 (C-3m)(II) 2055
Thông Vinh Ch.13 (H-2k)(I) 2122
Thuần Chân Ch.13 (B-3l)(V) 1951
Thủy Nguyệt Thông Giác Ch.13 (G-2b)(I) 2092
Thừa Viễn Ch.15 (B-2-1)(IV) 2189
Thường Chiếu Ch.13 (C-3l)(I) 2051
Tiên Giác Hải Tịnh Ch.13 (H-3e)(II) 2135
Tilopa Ch.15 (C)(XIII) 2226
Tín Học Ch.13 (C-3j)(IV) 2036
Tính Tĩnh Ch.13 (H-2e)(I) 2109
Tính Tuyền Ch.13 (H-2f)(I) 2109
Tịnh Giác Thiện Trì Ch.13 (H-3b)(III) 2128
Tịnh Giới Ch.13 (C-3j)(IX) 2044
Tịnh Khiết 2139
Tịnh Không Ch.13 (C-3j)(II) 2029
Tịnh Lực Ch.13 (C-3j)(VI) 2039
Tịnh Thiền Ch.13 (B-3q)(III) 1973
Toàn Nhật Quang Đài 2133
Tổ Ấn Mật Hoằng Ch.13 (H-3d)(I) 2133
Tổ Tông Viên Quang Ch.13 (H-3d)(II) 2133
Tông Diễn Chân Dung Ch.13 (G-2c)(I) 2094
Tông Khách Ba Ch.15 (C)(XXIII) 2230
Trần Nhân Tông 2085
Trần Sở Chương Ch.15 (B-2-3)(III) 2196
Trần Thái Tông Ch.13 (E)(I) 2073
Trần Thánh Tông Ch.13 (E)(II) 2076
Trí Bảo Ch.13 (C-3j)(VII) 2040
Trí Đôn Ch.15 (B-1)(II) 2187
Trí Nhàn Ch.13 (B-3p)(II) 1966
Trí Nột Ch.14 (B)(XIII) 2151
Trí Quang Ch.15 (C)(XI) 2222
Trì Bát Ch.13 (B-3l)(IV) 1950
Trisong Detsen Ch.15 (C)(IV) 2218
Trungpa Rinpoche Ch.15 (D)(XIV) 2241
Trương Tam Tạng Ch.13 (D-3d)(I) 2071
Trường Nguyên Ch.13 (C-3j)(V) 2037
Tsomo, Karma Lekshe Ch.15 (D)(XV) 2241
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ch.13 (E)(III) 2077
Tupden Gyatso Ch.16 (D)(III) 2237
Tư Châu Trí Sằn Ch.15 (B-2-1)(I) 2188
Tư Châu Xử Tịch Ch.15 (B-2-1)(II) 2189
Tử Dung Minh Hoằng Ch.13 (H-3b)(II) 2127
Tức Lự Ch.13 (C-3n)(I) 2058
Tường Quang Ch.13 (H-2i)(I) 2114 U
U Ba Khin Ch.16 (B)(X) 2313
U Kundalabhivamsa Sayadaw Ch.16 (B)(IV) 2307
U Pandita Sayadaw Ch.16 (B)(III) 2306
Ứng Thuận Vương Ch.13 (C-3o)(I) 2062 V
Vạn Ân Ch.13 (H-3j)(I) 2138
Vạn Hạnh Ch.13 (B-3l)(I) 1941
Vạn Hằng Ch.14 (B)(XIV) 2153
Vân Phong Ch.13 (C-3c)(I) 1989
Viên Chiếu Ch.13 (C-3g)(I) 1995
Viên Chúng 2089
Viên Học Ch.13 (B-3q)(II) 1971
Viên Thông Ch.13 (B-3r)(I) 1974
Vô Học Ch.14 (B)(XV) 2153
Vô Ngôn Thông 1981
Vô Nhiễm Ch.14 (B)(VII) 2150
Vô Trụ Ch.15 (B-2-3)(IV)/(B-3-c2)(I) 2196
W
Wangyal Geshe Ngawang Ch.15 (D)(V) 2237
Y
Y Sơn Ch.13 (B-3s)(I) 1976
Yeshe, Lama Tupden Ch.15 (D)(XIII) 2240
Yeshe Tsogyel Ch.15 (C)(V) 2219
Yonden Gyatso Ch.15 (C)(XXIV) 2231

MỤC LỤC THEO DÒNG TRUYỀN THỪA
TABLE OF CONTENT ON LINEAGES OF TRANSMISSION
Lời Giới Thiệu—Introduction 1905
Lời Đầu Sách—Preface 1909
TẬP BỐN
VOLUME FOUR

CHƯƠNG MƯỜI BA—CHAPTER THIRTEEN
CHƯ THIỀN ĐỨC VIỆT NAM
VIETNAMESE ZEN VIRTUES (p.1915)
(A) Chư Thiền Đức Việt Nam Trước Thời Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594)—Vietnamese Zen Virtues Before The Time of Zen Master Vinitaruci 1925
(I) Thiền Sư Khương Tăng Hội—Zen Master Sanghapala 1925
(II) Thiền Sư Huệ Thắng—Zen Master Hue Thang 1926
(B) Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Vinitaruci Zen School 1927
(B-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Vinitaruci Zen Sect 1927
(B-2) Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594): Khai Tổ Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Zen Master Vinitaruci, the Founding Patriarch of the Vinitaruci Zen School 1927
(B-3) Chư Thiền Đức Trong Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Vietnamese Zen Virtues of the Vinitaruci Zen School 1930
(B-3a) Đời Thứ Nhất Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The First Generation of the Vinitaruci Zen School 1930
(B-3b) Đời Thứ Nhì Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Second Generation of the Vinitaruci Zen School 1931
(B-3c) Đời Thứ Ba Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Third Generation of the Vinitaruci Zen School 1931
(B-3d) Đời Thứ Tư Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Fourth Generation of the Vinitaruci Zen School 1931
(B-3e) Đời Thứ Năm Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Fifth Generation of the Vinitaruci Zen School 1933
(B-3f) Đời Thứ Sáu Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Sixth Generation of the Vinitaruci Zen School 1933
(B-3g) Đời Thứ Bảy Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Seventh Generation of the Vinitaruci Zen School 1933
(B-3h) Đời Thứ Tám Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Eighth Generation of the Vinitaruci Zen School 1933
(B-3i) Đời Thứ Chín Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Ninth Generation of the Vinitaruci Zen School 1935
(B-3j) Đời Thứ Mười Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Tenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1935
(B-3k) Đời Thứ Mười Một Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—The Eleventh Generation of the Vinitaruci Zen School 1940
(B-3l) Đời Thứ Mười Hai Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Twelfth Generation of the Vinitaruci Zen School 1941
(B-3m) Đời Thứ Mười Ba Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Thirteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1952
(B-3n) Đời Thứ Mười Bốn Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Fourteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1957
(B-3o) Đời Thứ Mười Lăm Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Fifteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1960
(B-3p) Đời Thứ Mười Sáu Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Sixteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1963
(B-3q) Đời Thứ Mười Bảy Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Seventeenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1969
(B-3r) Đời Thứ Mười Tám Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Eighteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1974
(B-3s) Đời Thứ Mười Chín Dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Nineteenth Generation of the Vinitaruci Zen School 1976
(C) Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—The Wu-Yen-T'ung Zen School 1981
(C-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Vô Ngôn Thông—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Wu-Yen-T'ung Zen School 1981
(C-2) Thiền Sư Vô Ngôn Thông (?-826): Khai Tổ Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Zen Master Wu-Yen-T'ung, the Founding Patriarch of the Wu-Yen-T'ung Zen School 1981
(C-3) Chư Thiền Đức Trong Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Vietnamese Zen Virtues of the Wu-Yen-T'ung Zen School 1985
(C-3a) Đời Thứ Nhất Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—First Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1985
(C-3b) Đời Thứ Nhì Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Second Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1987
(C-3c) Đời Thứ Ba Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Third Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1989
(C-3d) Đời Thứ Tư Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Fourth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1989
(C-3e) Đời Thứ Năm Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Fifth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1992
(C-3f) Đời Thứ Sáu Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Sixth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1993
(C-3g) Đời Thứ Bảy Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Seventh Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 1995
(C-3h) Đời Thứ Tám Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Eighth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2012
(C-3i) Đời Thứ Chín Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Ninth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2020
(C-3j) Đời Thứ Mười Dòng Thiền Vô Ngôn Thông—Tenth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2027
(C-3k) Đời Thứ Mười Một Dòng Vô Ngôn Thông—Eleventh Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2049
(C-3l) Đời Thứ Mười Hai DòngVô Ngôn Thông—Twelfth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2051
(C-3m) Đời Thứ Mười Ba DòngVô Ngôn Thông—Thirteenth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2054
(C-3n) Đời Thứ Mười Bốn Dòng Vô Ngôn Thông—Fourteenth Generation of the Wu-yen-t'ung School 2058
(C-3o) Đời Thứ Mười Lăm Dòng Vô Ngôn Thông— Fifteenth Generation of the Wu-yen-t'ung Zen School 2062
(D) Dòng Thiền Thảo Đường—The Ts'ao-T'ang Zen Sect 2063
D-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Thảo Đường—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Ts'ao-T'ang Zen School 2063
(D-2) Thiền Sư Thảo Đường: Khai Tổ Dòng Thiền Thảo Đường—Zen Master Ts'ao-T'ang, the Founding Patriarch of the Ts'ao-T'ang Zen School 2065
(D-3) Chư Thiền Đức Trong Dòng Thiền Thảo Đường—Vietnamese Zen Virtues of the Ts'ao-T'ang Zen School 2065
(E) Những Thiền Sư Trước Thiền Phái Trúc Lâm—Zen Masters Before The Founding of the Ts'u-Lin Zen School 2073
(F) Thiền Phái Trúc Lâm—The Ts'u-Lin Zen School 2083
(F-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Trúc Lâm—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Ts'u-Lin Zen School 2083
(F-2) Thiền Sư Trần Nhân Tông (1258-1308): Khai Tổ Dòng Thiền Trúc Lâm—Zen Master Tran Nhan Tong, the Founding Patriarch of the Ts'u-Lin Zen School 2085
(F-3) Chư Thiền Đức Trong Dòng Thiền Trúc Lâm—Vietnamese Zen Virtues of the Ts'u-Lin Zen School 2089
(G) Dòng Thiền Tào Động—The Ts'ao-Tung Zen Sect 2091
(G-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Tào Động—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Ts'ao-Tung Zen School 2091
(G-2) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Tào Động Xứ Đàng Ngoài—Zen Virtues of the Ts'ao-Tung Zen School in the Tonkin 2092
(G-2a) Đời Thứ Ba Mươi Lăm—The Thirty-Fifth Generation 2092
(G-2b) Đời Thứ Ba Mươi Sáu—The Thirty-Sixth Generation 2092
(G-2c) Đời Thứ Ba Mươi Bảy—The Thirty-Seventh Generation 2094
(G-2d) Đời Thứ Bốn Mươi—The Fortieth Generation 2095
(G-2e) Đời Thứ Bốn Mươi Mốt—The Forty-First Generation 2095
(G-2f) Đời Thứ Bốn Mươi Hai—The Forty-Second Generation 2096
(G-2g) Đời Thứ Bốn Mươi Lăm—The Forty-Fifthth Generation 2096
(G-3) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Tào Động Xứ Đàng Trong—Zen Virtues of the Ts'ao-Tung Zen School in the Cochinchine 2097
(G-3a) Đời Thứ Hai Mươi Chín—The Twenty-Ninth Generation 2097
(G-3b) Đời Thứ Ba Mươi Sáu—The Thirty-Sixth Generation 2097
(G-3c) Đời Thứ Bốn Mươi Lăm—The Forty-Fifthth Generation 2097
(H) Dòng Thiền Lâm Tế—The Lin-Chi Zen Sect 2099
(H-1) Những Dòng Truyền ThừaTổ Sư Trong Thiền Phái Lâm Tế—Lineages of Transmisstion and Patriarchs of the Lin-Chi Zen School 2099
(H-2) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Lâm Tế Xứ Đàng Ngoài—Zen Virtues of the Lin-Chi Zen School in the Tonkin 2100
(H-2a) Đời Thứ Ba Mươi Bốn—The Thirty-Fourth Generation 2100
(H-2b) Đời Thứ Ba Mươi Lăm—The Thirty-Fifth Generation 2100
(H-2c) Đời Thứ Ba Mươi Sáu—The Thirty-Sixth Generation 2102
(H-2d) Đời Thứ Ba Mươi Bảy—The Thirty-Seventh Generation 2107
(H-2e) Đời Thứ Ba Mươi Tám—The Thirty-Eighth Generation 2109
(H-2f) Đời Thứ Ba Mươi Chín—The Thirty-Ninth Generation 2109
(H-2g) Đời Thứ Bốn Mươi—The Fortieth Generation 2111
(H-2h) Đời Thứ Bốn Mươi Mốt—The Forty-First Generation 2114
(H-2i) Đời Thứ Bốn Mươi Hai—The Forty-Second Generation 2114
(H-2j) Đời Thứ Bốn Mươi Ba—The Forty-Third Generation 2120
(H-2k) Đời Thứ Bốn Mươi Bốn—The Forty-Fourth Generation 2122
(H-3) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Lâm Tế Xứ Đàng Trong—Zen Virtues of the Lin-Chi Zen School in the Cochinchine 2125
(H-3a) Đời Thứ Ba Mươi Ba—The Thirty-Third Generation 2125
(H-3b) Đời Thứ Ba Mươi Bốn—The Thirty-Fourth Generation 2127
(H-3c) Đời Thứ Ba Mươi Lăm—The Thirty-Fifth Generation 2129
(H-3d) Đời Thứ Ba Mươi Sáu—The Thirty-Sixth Generation 2133
(H-3e) Đời Thứ Ba Mươi Bảy—The Thirty-Seventh Generation 2134
(H-3f) Đời Thứ Ba Mươi Tám—The Thirty-Eighth Generation 2135
(H-3g) Đời Thứ Ba Mươi Chín—The Thirty-Ninth Generation 2136
(H-3h) Đời Thứ Bốn Mươi—The Fortieth Generation 2138
(H-3i) Đời Thứ Bốn Mươi Mốt—The Forty-First Generation 2138
(H-3j) Đời Thứ Bốn Mươi Hai—The Forty-Second Generation 2138
(H-3k) Chư Thiền Đức Lâm Tế Thế Kỷ Thứ XX—Zen Virtues of The Lin-chi Zen School in the Twentieth Century 2139
(I) Chư Thiền Đức Không Rõ Thiền Phái—Vietnamese Zen Virtues With Unclear Zen Lineages 2141
CHƯƠNG MƯỜI BỐN—CHAPTER FOURTEEN
CHƯ THIỀN ĐỨC TRONG CÁC THIỀN PHÁI TRIỀU TIÊN
ZEN VIRTUES IN KOREAN ZEN SCHOOLS (P.2143)
(A) Tổng Quan Về Thiền Triều Tiên—An Overview of Korean Son 2145
(B) Chư Thiền Đức Triều Tiên—Korean Zen Virtues 2146
CHƯƠNG MƯỜI LĂM—CHAPTER FIFTEEN
CHƯ THIỀN ĐỨC PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
ZEN VIRTUES IN TIBETAN BUDDHISM (p.2161)
(A) Phật Giáo & Thiền Tây Tạng—Tibetan Buddhism And Zen 2165
(B) Chư Thiền Đức Tây Tạng Buổi Sơ Thời Trong Vùng Gần Những Hang Động Đôn Hoàng—Zen Virtues In Tibet In Early Period In Areas Near Tun-Huang 2187
(B-1) Thiền Đức Hoằng Pháp Tại Vùng Trung Á—Zen Virtues Who Propagated In Central Asia 2187
(B-2) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Tứ Xuyên—Zen Virtues In The Szechwan Zen Lines 2188
(B-2-1) Chư Thiền Đức Dòng Thiền Trí Sằn—Zen Virtues in The Chih-hsien Zen Line 2188
(B-2-2) Dòng Thiền Tuyên Thập—The Hsuan-shih Zen Line 2193
(B-2-3) Dòng Thiền Lão An—The Lao-an Zen Line 2194
(B-3) Chư Thiền Đức Các Thiền Phái Tây Tạng Buổi Sơ Thời—Zen Virtues Of Tibetan Zen Sects In Early Periods 2197
B-3-a) Thiền Phái Hậu Bắc Thần Tú—The post-Shen-hsiu Zen school 2197
(B-3-a1) Tổng Quan Về Thiền Phái Hậu Bắc Thần Tú—An Overview of the post-Shen-hsiu Zen school 2197
(B-3-a2) Chư Thiền Đức Trong Thiền Phái Hậu Bắc Thần Tú—Zen Virtues of the post-Shen-hsiu Zen school 2198
(B-3-b) Thiền Phái Tịnh Chúng—Ching-chung Zen Sect 2200
(B-3-b1) Tổng Quan Về Thiền Phái Tịnh Chúng—An Overview of Ching-chung Zen Sect 2200
(B-3-b2) Chư Thiền Đức Trong Thiền Phái Tịnh Chúng 2201
(B-3-c) Thiền Phái Bảo Đường—Pao-T'ang Zen Sect 2207
(B-3-c1) Tổng Quan Về Thiền Phái Bảo Đường—An Overview of Pao-T'ang Zen Sect 2207
(B-3-c2) Chư Thiền Đức Trong Thiền Phái Bảo Đường—Zen Virtues of Pao-T'ang Zen Sect 2210
(B-3-d) Dòng Thiền A-rdan-hver—A-rdan-hver Zen Lineage 2214
(C) Chư Thiền Đức Tây Tạng Kể Từ Thời Truyền Bá Phật Giáo Đầu Tiên—Tibetan Zen Virtues From The First Dissemination 2216
(D) Chư Thiền Đức Tây Tạng Thời Cận Đại—Tibetan Zen Virtues In Modern Times 2236
CHƯƠNG MƯỜI SÁU—CHAPTER SIXTEEN
CHƯ THIỀN ĐỨC PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
ZEN VIRTUES IN THERAVADA BUDDHISM (p.2243)
(A) Phật Giáo Nguyên Thủy Và Thiền—Theravada Buddhism And Meditation 2245
(A-1) Phật Giáo Nguyên Thủy—Theravada Buddhism 2245
(A-2) Thiền Chỉ—Samatha Meditation 2249
(A-2a) Đại Cương Về Thiền Chỉ—An Outline of Samatha Meditation 2249
(A-2b) Giáo Pháp Liên Quan Đến Thiền Chỉ—Teachings Related To Samatha Meditation 2252
(A-3) Thiền Minh Sát—Vipassana Meditation 2257
(A-3a) Đại Cương Về Thiền Minh Sát—An Outline of Vipassana Meditation 2257
(A-3b) Giáo Pháp Liên Quan Đến Thiền Minh Sát—Teachings Related To Vipassana Meditation 2060
(B) Chư Thiền Đức Và Giáo Pháp Của Họ Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Và Thiền—Zen Virtues and Their Teachings in Theravada Buddhism 2303
Sách Tham Khảo—References 2323

Lời Giới Thiệu

thích chơn thànhĐạo hữu Trần Ngọc pháp danh Thiện Phúc không chỉ là một học giả nghiên cứu khá sâu sắc về Phật pháp, mà còn là một Phật tửthuần thành luôn gắng công tu tập để đạt đến con đường giác ngộvà giải thoát. Thiện Phúc Trần Ngọc còn là tác giả của một loạt những bộ sách Phật giáo rất có giá trị như các bộ Đạo Phật Trong Đời Sống 10 Tập, Đạo Phật An Lạc Và Tỉnh Thức 1 Tập, Tâm Sự Với Cha Mẹ Và Tuổi Trẻ, Tự Điển Phật Học Việt-Anh Anh-Việt 6 Tập, Tự Điển Phật Học Anh-Việt 10 Tập, Thiên Trúc Tiểu Du Ký, Thiền SưPhật Pháp Căn Bản Việt-Anh 8 Tập, Thiền Trong ĐờiSống Việt-Anh 1 Tập, Những Đóa Hoa Vô Ưu Việt-Anh 3 Tập, Tự Điển Thiền Và Thuật Ngữ Phật Giáo Việt-Anh Anh-Việt 12 Tập.

Hôm nay đạo hữu Thiện-Phúc lại đem bộ sách “Chư Thiền Đức” nhờ tôi viết lời giới thiệu. Tác phẩm“Chư Thiền Đức” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy bộ sách viết về cuộc đời và hành trạng của nhiều chư Thiền Đức tính từ thời Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Tất cả 4 tập đều bao gồm những tấm gương sống tu thật sống động rất đáng cho tất cả hàng hậu bốicủa chúng ta noi theo. Tôi nghĩ rằng vị nào có duyên lành để mắt đọc tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy chắc chắn sẽ dễ dàng gặt hái được niềm an lạc trên bước đường tu tập của chính mình.

Qua bộ sách “Chư Thiền Đức,” chúng ta thấy rõ các bậc cổ đức của chúng ta áp dụng Thiền vào công việc của cuộc sống hằng ngày của các ngài, và kết quả phải đạt được bây giờ và ở đây. Thiền không phải tách rời với công việc hằng ngày, mà nó là một phần của đời sốngChúng ta vẫn tham gia các hoạt động thường nhật, nhưng giữ cho mình thoát được cảnh hối hả rộn rịp của thành phố và những phiền toái bực bội của thế gian, việc này nói dễ khó làm, nhưng nếu cố gắng thiền tập chúng ta có thể làm được. Bất cứ sự thiền tập nào cũng đều giúp chúng ta rất nhiều trong việc đối phó với các diễn biến trong cuộc sống một cách trầm tĩnh. Và chính sự trầm tĩnh này sẽ giúp chúng ta vượt qua những khổ đau và phiền não trong đời. Theo các ngài, hành thiền là một lối sống. Đó là lối sống trọn vẹn chứ không phải là sinh hoạt rời rạc. Các ngài luôn nhấn mạnh rằng mục đích của pháp hành thiền trong việc phát triển toàn thể con người chúng taChúng ta hãy cố gắng đạt được sự toàn hảo ấy ở đây và ngay trong kiếp này, chứ không phải đợi đến một thời hoàng kim nào đó trong tương lai. Trong quá khứ, nhiều người tin rằng pháp hành thiền chỉ riêng dành cho chư Tăng Ni mà thôi, sự việc đã thay đổi, ngày nay hầu như mọi người đều thích thú lưu tâm đến thiền tập. Nếu hiểu rằng thiền là một kỷ thuật lắng đọng tâm từ và quán xét nội tâm, hay một phương pháp trau dồi tâm trí như vậy thì mọi người nên hành thiền, bất kể là nam hay nữ, già hay trẻ, Tăng hay tục.

Đối với chư Thiền Đức, sự hành thiền (quán tưởng) là cách chắc chắn nhất để kiểm soát và tịnh tâm. Qua cuộc đời và hành trạng của các ngài, các ngài muốn nhắn nhủ hàng hậu bối chúng ta nên kiểm soát thân tâm mọi lúc, chứ không chỉ lúc ngồi thiền. Lúc nào thân tâm chúng ta cũng phải thanh tịnh và tỉnh thức. Thiền là chấm dứt vọng niệmtuy nhiên, nếu chúng ta không có khả năng chấm dứt vọng niệm thì chúng ta nên cố gắng tập trung tâm của mình vào một tư tưởng hay một đối tượng quán tưởngmà thôi. Điều này có nghĩa là chúng ta nên biết mình đang nghĩ gì hay đang làm gì trong những giây phút hiện tại này. Nếu làm được những điều nầy trong mọi sinh hoạt hàng ngày, thế là mình chắc chắnđã có thiền trong đời sống vậy!

Thật vậy, một khi hành giả tu Thiền có khả năng quan sát và biết rõ chính mình, ấy là mình đang thực tập thiền quán. Khi chúng ta biết con đường mình đi, biết mình ăn cái gì và ăn như thế nào, biết mìnhnói cái gì và nói như thế nào... ấy là mình đang thực tập thiền quán vậy. Khi tâm chúng ta chứa đựng những hận thù hay ganh ghétdối trávân vânchúng ta liền biết tâm mình đang dung chứa những vi trùng nguy hiểm, đó là chúng ta đang thực tập thiền vậy. Thiền không là cái gì khác với sinh hoạt hằng ngày của chính mình. Qua bộ sách “Chư Thiền Đức” chúng ta thấy chân thiền phải là một loại thiền mà chúng ta có thể hành trì bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của mình. Và như vậy thiền không có bắt đầu và cũng không có chấm dứt. Nên nhớ rằng tâm hành thiền là tâm thường xuyên tự biết chính mình, nghĩa là tâm tỉnh thứcsáng suốt và vô ngại. Thiền không phải là một cái gì cách biệtvới những sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, mà nó chính là tinh hoa của những sinh hoạt ấy.

Tôi rất đồng ý với đạo hữu Thiện Phúc là mục đích của người tu Phật là “Giác Ngộ và Giải Thoát” và mục đích của Thiền cũng là như vậy, cũng là giác ngộ để đi đến chỗ vô ưu, không buồn phiền, không lo âu. Và mỗi chương trong bộ sách “Chư Thiền Đức” của đạo hữu Thiện Phúc đều bao gồm cuộc đời và hành trạng của các bậc cổ đức giúp cho chúng ta một bước tiến đi gần tới giác ngộ và giải thoát. Tôi nghĩ rằng vị nào có duyên lành để mắt đọc tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy chắc chắn sẽ từng bước gặt hái được sự giác ngộ và giải thoát mọi khổ đau phiền não để đi đến niềm an lạc nhất đời. Mặc dầu kinh nghiệm Thiền thật là đặc biệt và độc đáo cho từng cá nhânTuy nhiên, theo ý tôi, sự hiểu biết về cuộc đời và hành trạng của Chư Thiền Đức thời xưa có thể được xem như là những hướng dẫn quí báu đưa chúng ta đến với chân lý. Và tôi vẫn hy vọng rằng những cuộc đối thoại quí báu trong những chương sách này cũng giúp ích chẳng những cho những ai mong hiểu Thiền bằng tri thức mà còn cho những người đang tham dự vào những buổi thiền tập nữa. Hơn nữa, qua cuộc đời và hành trạng của chư Thiền Đức thời xưahành giả tu Thiền sẽ có thể thấy được rằng trên bề mặt của kinh nghiệm chân chính, khái niệm chỉ là những phiến tuyết đang rơi trên lò lửa. Vì vậy mà hành giả chúng ta không nên chỉ một bề học lấy chương cú mà nên theo những gì thích hợp cho chúng ta như những bước để đạt đến kinh nghiệm cho chính mình.

Sau khi tham khảo xong tác phẩm, tôi thành thật cảm ơn đạo hữu Thiện Phúc đã bỏ ra rất nhiều thì giờtrong đời sống bề bộn ở Hoa Kỳ để soạn thảo và viết quyển “Chư Thiền Đức” để cống hiến cho các đọc giả hữu duyên với Phật Pháp sẽ được niềm hạnh phúc và an lạc vô biên. Đây là một công đức pháp thíkhó nghĩ bàn. Tôi cũng muốn nhân đây chân thành ca ngơi tinh thần vị tha của đạo hữu Thiện Phúc, đã vì sự an lạc và hạnh phúc vô biên của chúng sanh mà bỏ ra nhiều thì giờ để viết thành tác phẩm “Chư Thiền Đức” nầy.

Hôm nay nhân mùa Phật Thành Đạo Phật lịch 2561 tây lịch 2017, tôi rất hoan hỷ giới thiệu tác phẩm“Chư Thiền Đức” do đạo hữu Thiện Phúc sáng tác, đến tất cả độc giả bốn phương, như một món ăn tinh thần rất quý giá và thật cần thiết cho mọi gia đìnhHy vọng tập sách về cuộc đời và hành trạng của chư Thiền Đức này trở thành Kim Chỉ Nam, có thể giúp cho các độc giả nhận được một niềm hoan hỷan lạchạnh phúc trong hiện tại và tiếp nhận được cốt lỏi giáo lý của đức Thế-tôn một cách dễ dàng, nhờ hiểu rõ mà thực hành được chính xác, từ đó quý vị sẽ cải thiện được đời sống tinh thần, từ thấp đến cao, từ cao đến cao hơn và sau cùng tâm hồn được mở rộngthành tựu được đạo nghiệp một cách dễ dàng. Xin cầu chúc quý đọc giả sẽ tìm được niềm vui trong sinh hoạt với bộ “Chư Thiền Đức” do đạo hữu Thiện Phúc trước tác.

Cẩn Bút
Sa-môn Thích Chơn Thành
Introduction

Mr. Ngoc Tran, his Buddha Name Thien Phuc, is not only a Buddhist scholar, but he is also a devout practitioner who always tries his best to cultivate to achieve enlightenment and emancipation. He has an extensive knowledge of Buddhism. Thien Phuc Tran Ngoc is also the author of a series of valuable Buddhist books written in Vietnamese and English titled “Buddhism in Life” (ten volumes), “Buddhism, a religion of Peace-Joy-and Mindfulness”, “Intimate Sharings with Parents and Children”, Vietnamese-English Buddhist Dictionary (06 volumes), English-Vietnamese Buddhist Dictionary (10 volumes), A Little Journey To India, Famous Zen Masters in Vietnamese and English, Basic Buddhist Doctrines (08 volumes), Zen in Life (01 volume), the Sorrowless Flowers (03 volumes), and the Dictionary of Zen and Buddhist Terms (12 volumes).

Today, Mr. Thien Phuc Ngoc Tran brought me a draft of his work called “Zen Virtues” and asked me to write an introduction for this work. The work is written in Vietnamese and English and is very easy to understand. After reading the draft of “Zen Virtues”, I found these books were written about lives and acts of many Zen Virtues counting from Sakyamuni Buddha. All these four volumes include many good examples of living and cultivating which are worth for all of us of, the posterity, to follow. I think whoever has the opportunity to read the “Zen Virtues” will surely and easily achieve the most peaceful states of mind in the path of cultivation.
Through “Zen Virtues” we clearly see that our ancient virtues applied meditation to their daily affairs of life, and its results obtained here and now. It is not separated from the work-a-day life. It is a part and parcel of our life. We still participate in all daily activities, but remain free from the rush of city life, from nagging preoccupation with the world, this is easy to say but not easy to do; however, if we consistently practice meditation, we can do it. Any meditation we do is of immense help in enabling us to face all this with calm. And the calmness itself will in turn help us overcome all sufferings and afflictions. According to the ancient virtues, meditation is a way of living. It is a total way of living and not a partial activity. They always emphazied that the aim of Zen in developing man as a whole. Let’s strive for perfection here and in this very life, not in some golden age yet to come. Many believe that meditation is only for monks and nuns in the past, things have changed and now there is a growing interest in meditation in almost everyone. If by meditation is meant a technique of establishment of our compassionate mind and reflection of our inner mind, all should cultivate meditation irrespective of gender, age, clergy or lay.


To Zen Virtues, the practice of Zen is the surest way to mind-control and purification. Through Zen Virtues' lives and acts, ancient virtues wanted to recommend us, the future generations of practitioners, to control our body and mind at all times, not only when we sit in meditation. Our body and mind must be pure and mindful at all times. Meditation means the ending of thought; however, if we are unable to end our thought, we should try to concentrate our mind just in one thought or one object of contemplation. That means we should know what we’re thinking or what we’re doing at the present time. If we can do these in our daily activities, we surely have zen in life!

When Zen practitioners are able to watch and know ourselves, we are practicing meditation. When we know the way we walk, what and how we eat, what and how we say, that means we’re practicing meditation. When we have gossip, hate, jealousy, and deceitfulness, etc., in our mind, we know that we’re haboring these dangerous viruses, we’re practicing meditation. Thus, meditation is not something different from our daily life activities. Through “Zen Virtues”, we see that a real meditation is a kind of meditation in which we can meditate at any time in our daily life activities. And thus, meditation has no beginning nor end. We should always remember that a mind of constant awareness is a mind that is awake, intelligent and free. Meditation is not a separate thing from our daily life activities, it is the essence of our daily life activities.
I totally agree with Thien Phuc that the purpose of Buddhist practitioners is “Enlightenment and Emancipation” and the purpose of Zen is also the same, also reaching the state of mind that is without sorrow or without worry. And each chapter in Thien Phuc’s “Zen Virtues” include ancient virtues' lives and acts which help us a step approaching near to the enlightenment and emancipation. I think whoever has the opportunity to read the “Zen Virtues” will achieve the most peaceful states of mind. Although the Zen experience is especial and unique to each individual. However, in my opinion, the understanding of lives and acts of ancient Zen Virtues is considered as guides that lead us unto truths. And I still hope that precious dialogues in these chapters may be helpeful not only to those who wish to understand Zen intellectually but also to those who are participating in meditation sessions. Moreover, through lives and acts of ancient Zen Virtues, Zen practitioners will be able to see that in the face of real experience, concepts are like flakes of snow fallen on a burning fire. So, as practitioners, we should not barely study the texts but to follow whatever appropriate for us as steps to reach experience for ourselves.

After reading these volumes, I sincerely thank Mr. Thien Phuc Ngoc Tran, who sacrifice so much time in his busy life in the United States in order to be able to complete this work and contribute to our unlimited happiness and peace for all of us. This work is the unthinkable merit of giving of the Buddhadharma. I also want to take this opportunity to send my appreciation to Mr. Thien Phuc Ngoc Tran for his altruism. For the sake of all beings’ unlimited happiness and peace, he spend so much time to complete this work.
By the commemoration festival of the Buddha’s Enlightenment in the year of 2561 (2017), I am glad to introduce this great work to all readers. This is precious spiritual nourishment for everybody. After reading these three volumes, I am glad to send my personal congratulations to Ngoc Tran for these books and his laborious, detailed and extensive work in highlighting details and summarizing the beliefs, teachings and practices of Lord Sakyamuni Buddha. I am very please to praise the author’s merits for his accomplishment of this rare religious and cultural work. These books are a genuine contribution to the propagation of the Dharma. I would like to take this opportunity to highly recommend it to all Monks, Nuns, Buddhist practitioners, as well as to any readers of Buddhist texts. With the hope that each and everyone of you will possess these books and to utilize lives and acts of “Zen Virtues” as a guide to aid in your deeper study of Buddha-Dharma so that we can all have peaceful and happy lives at the present moment. As we understand the core meanings of the Buddhadharma and as we understand the exact meanings of the Dharma, we can put them into practice to improve our body and mind and, eventually to attain the Way.

Respectfully
Most Ven. Thich Chon Thanh
Lời Đầu Sách

thien phucCó người có thể đặt ra những câu hỏi như là "Thiền là cái gì và những vị Thiền sư là những ai?" và "Những cái khác biệt giữa một vị Tăng Phật giáo và một vị Thiền sư là những thứ gì?" vân vân và vân vânPhật tử thuần thành không nên nghĩ về "Zen" như một thuật ngữ, mà nên nghĩ về nó như là một tiến trình kỷ luật tâm linh. Nếu chúng ta có thể nghĩ về "Zen" được như vậy thì những câu hỏi vừa kể trên sẽ không còn lý do để tồn tại nữa. Thật vậy, Phật giáo đề ra cho các tín đồ của mình ba tiến trình kỷ luật trong cuộc sống và cuộc tu hằng ngày. Đó là giới, định và huệ. Trong ba thứ đó, thiền định là chiếc cầu nối liền giữa giới và trí huệ giúp cho hành giả thấy rõ được thực tính của vạn hữu. Bởi vì Thiền là một phương pháp kỷ luật tâm linh chứ không phải là một triết học, Thiền đối trị một cách trực tiếp với cuộc sống hằng ngày; và đây chính là chỗ mà Thiền phát triển những đường nét đặc thù của nó. Thiền có thể được mô tả như là một hình thức huyền học, nhưng cái cách mà Thiền đối trị với kinh nghiệm thì hoàn toàn độc đáo. Thật vậy, gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môntu tập nhưng không thành côngĐức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình. Ngài đã ngồi kiết già suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề và cuối cùng đạt được thiền định cao nhất mà thời bấy giờ người ta gọi là giác ngộ và giải thoát. Ngài đã tuần tự chứng sơ thiềnnhị thiềntam thiềntứ thiền... Như vậy Thiền bắt nguồn ngay từ thời Đức Phật và Thiền Phật Giáo thành hình từ cốt lõi của giáo lý nhà Phật.

Thiền tại Trung Hoa và những xứ Đông Á khác được thành hình sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa và ngày nay Thiền trở thành phổ cập chẳng những trong tu tập Phật giáo, mà những xứ theo Cơ Đốc giáo và Hồi giáo người ta cũng cố gắng tu tập thiền quán trong những sinh hoạt hằng ngày của họ nhằm cải thiện cuộc sống của mình. Tuy nhiên, thiền Phật giáo không dừng lại ở chỗ chỉ nhằm cải thiệnđời sống, mà còn giúp con người đạt tới giác ngộ qua việc thấy được thực tánh của chân như mà người ta tin rằng không thể nào truyền đạt được qua tư tưởng, mà chỉ tìm được sự chứng ngộ thật dù đó là một cái đánh hay một tiếng cười. Ngày nay Thiền được phổ biến khắp thế giới Tây Phương và được nhiều người biết đến đến nỗi hầu như người nào cũng biết về Thiền. Thiền đưa tâm ra khỏi tâm cho đếnkhi một tia tuệ giác trực tiếp xuất hiện chỉ trong một khoảnh khắc nào đó. Thiền quán không phải là một pháp môn mới có hôm nay hoặc hôm qua. Từ thời xa xưa, đã có nhiều người hành thiền bằng nhiều phương cách khác nhau. Chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có sự phát triển tâm trí hay gội rửa những bợn nhơ tinh thần nào mà không nhờ đến thiền quánThiền quán chính là phương cách mà Thái tử Tất Đạt Đađức Phật, đã đạt được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thiền không dành riêng cho người Ấn Độ, cho xứ Ấn Độ hay chỉ cho thời đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại, trong tất cả mọi thời đại, và mọi nơi trên thế giớiThiền tập không thể có giới hạn về chủng tộctôn giáo, không gianhay thời gian.

Cuộc sống và hành trạng của bất cứ vị Thiền sư nào cũng luôn hướng đến một trạng thái tâm thanh sạch, nơi mà mọi dục vọng và thôi thúc đều được điều phục để tâm trở nên tập trung và thể nhập vào trạng thái minh mẫn và tỉnh thức. Mọi phương pháp hành thiền của các vị Thiền sư đều gắn liền vớinhững sinh hoạt hằng ngày của đời sống, chứ các ngài không ngồi đó tĩnh lặng để được hội nhập với bất cứ đấng tối thượng nào, cũng không nhằm đạt được chứng nghiệm huyền bí, cũng không là thôi miên. Thiền nhằm giúp tâm đạt được trạng thái vắng lặng và minh sát tuệ để tiến đến mục tiêu duy nhấtlà đạt được sự giải thoát không lay chuyển, đây là sự an toàn tối thượng, vượt ra ngoài mọi trói buộc, bằng cách tận diệt hoàn toàn những bợn nhơ tinh thần. Như vậy điều quan trọng trên hết là hành thiền theo Phật giáo không phải là tự nguyện lưu đày ra khỏi đời sống cũng không phải là thực hành cho kiếp sau.

Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy rằng thiền tập phải được áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, và kết quả của công phu nầy phải được hưởng tại đây, ngay trong kiếp nầy. Hành thiền không phải là tự mình tách rời hay xa lìa công việc mà thường ngày mình vẫn làm, mà thiền là một phần của đời sống, là cái dính liền với cuộc sống nầy. Đối với các vị Thiền sư, các ngài sống thiền bất cứ khi nào các ngài sống hoàn toàn với hiện tại mà không chút sợ hãihy vọng hay những lo ra tầm thường. Các ngài chỉ ra cho chúng ta thấy rằng với sự tỉnh thức chúng ta có thể tìm thấy thiền trong những sinh hoạt hằng ngày. Thiền không thể tìm được bằng cách khám phá chân lýtuyệt đối bị che dấu từ ngoại cảnh, mà chỉ tìm được bằng cách chấp nhận một thái độ đến với cuộc sống giới hạnh. Người ta tìm cầu giác ngộ bằng cách nỗ lựctuy nhiênđa số chúng ta quên rằng để đạt đến giác ngộ chúng ta phải buông bỏ. Điều này cực kỳ khó khăn cho tất cả chúng ta vì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường cố gắng thành đạt sự việc.

Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy người tu Thiền không lệ thuộc vào ngôn ngữ văn tự. Đó chính là giáo ngoại biệt truyềnchỉ thẳng vào tâm để thấy được tự tánhbên trong của tất cả chúng ta để thành Phật. Trong khi những tông phái khác nhấn mạnh đến niềm tinnơi tha lực để đạt đến giác ngộ, Thiền lại dạy Phật tánh bên trong chúng ta chỉ có thể đạt được bằng tự lực mà thôi. Thiền dạy cho chúng ta biết cách làm sao để sống với hiện tại quí báu và quên đi ngày hôm qua và ngày mai, vì hôm qua đã qua rồi và ngày mai thì chưa tới. Trong Thiền, chúng ta nên hằng giác ngộ chứ không có cái gì đặc biệt cả.

Qua cuộc sống và hành trạng của các vị Thiền sư thời trước, chúng ta thấy với người tu Thiền mọi việcđều bình thường như thường lệ, nhưng làm việc trong tỉnh thức. Bắt đầu một ngày của bạn, đánh răng, rửa mặt, đi tiêu tiểu, tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống, làm việc... Khi nào mệt thì nằm xuống nghỉ, khi nào đói thì tìm cái gì đó mà ăn, khi không muốn nói chuyện thì không nói chuyện, khi muốn nói thì nói. Hãy để những hoàn cảnh tự đến rồi tự đi, chứ đừng cố thay đổi, vì bạn chẳng thể nào thay đổi được hoàn cảnh đâu! Thiền dạy chúng ta đoạn trừ mọi vọng tưởng phân biệt và khiến cho chúng ta hiểu rằng chân lý của vũ trụ là căn bản thật tánh của chính chúng taMọi người chúng ta nên thiền định thâm sâuvề vấn đề nầy, vì nó là cái mà chúng ta gọi là ‘Ngã’. Khi hiểu nó là gì, chúng ta sẽ tự động quay về hòa cùng thiên nhiên vũ trụ trong cảnh giới nhất thể, và chúng ta sẽ thấy thiên nhiên chính là chúng ta và chúng ta cũng chính là thiên nhiên, và cảnh giới thiên nhiên ấy chính là cảnh Phật, người đang thuyết pháp cho chúng ta ở mọi nơi mọi lúc. Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể nghe được thiên nhiênđang nói gì với chúng ta, để ai cũng có thể tìm về cảnh giới an lạc mà chúng ta đã một lần xa rời.

Thật tình mà nói, Thiền không có phương pháp nào đặc biệt để cho người ta học cả. Những ai muốn tu tập Thiền nên đến với một vị thầy Thiền, nhưng vị thầy này lại cũng không có sẵn khuôn mẫu giáo dục nào, bởi vì điều này là không thể nào có được trong bản chất của vạn hữuThiền sư chỉ giảng dạy phương cách riêng của mình hoặc là bằng cử chỉ hoặc bằng lời nói để không chấp thuận bất cứ quan điểm nào của các môn đồ có thể trình ra cho ông ta cho đến khi nào ông hoàn toàn thỏa mãn và đồng ývới họ. Trong những tập sách sau đây các bạn sẽ thấy cách mà các vị Thiền sư hướng dẫn các môn đồcủa mình được ghi lại trong các ngữ lục của họ về tu tập tâm linh thì hoàn toàn độc đáo. Có lúc các vị Thiền sư đánh các đồ đệ bằng gậy, có lúc thì tát tai họ, hay đá họ lăn nhào xuống đất; lúc khác thì họ lại đưa ra những lời lẽ nghe có vẻ phi lý, hay cười nhạo, hoặc khinh miệt, châm biếm, đôi lúc thậm chí có vẻ lăng mạ, những điều này chắc chắn sẽ làm sửng sốt những ai không quen với phong cách của những vị Thiền sư này. Điều này không phải là do tánh khí nông nổi của một số Thiền sư đặc biệt nào đó; mà đúng hơn nó là sự biểu lộ tính chất đặc biệt của kinh nghiệm về Thiền, mà với tất cả phương tiệnvà điệu bộ có trong tay, các vị Thiền sư này nỗ lực giao tiếp với các đồ đệ đang tầm cầu chân lý của mình. Thiệt không dễ gì cho các đồ đệ có thể hiểu được kiểu giao tiếp này. Tuy nhiênvấn đề ở đây không phải là chuyện các đồ đệ hiểu được những gì từ bên ngoài, mà là thức tỉnh những gì nằm bên trong họ. Những vị Thiền sư không còn cách nào khác hơn là chỉ ra cách để cho các đồ đệ của mình được sự tỉnh thức từ bên trong. Kết quả của tất cả những điều này là không có nhiều người sẵn sàng nắm bắt được giáo lý Thiền. Nhưng nếu chúng ta thực sự muốn tu tập theo con đường mà Đức Phật đã tu tập gần 26 thế kỷ về trước thì con đường duy nhất mà chúng ta phải dẫm lên là con đường chúng taphải lắng nghe cho được những tiếng thì thầm của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni cũng như chư Thiền đức về sau này rằng từ bỏ cuộc sống thế tục có nghĩa là từ bỏ những hành động vô tâm và cẩu thả có thể đưa đến trục trặc trong cuộc sống. Từ bỏ cuộc sống thế tục là từ bỏ sự loạn động và sự căng thẳng làm tổn hại đến hệ thần kinh của chúng ta và có thể dẫn tới trăm ngàn thứ bệnh hoạn cho thân tâm chúng taTừ bỏ cuộc sống thế tục không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống của chính mình, mà nó có nghĩa là chúng ta làm một cuộc hành trình hướng về nội tâm trong cuộc sống thế tục này. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thấy được chính mình như là mình, và từ đó mới có thể biết cách làm sao vượt qua những khuyết điểm và giới hạn để được mạnh mẽ hơn trong cuộc sống. Rất nhiều người trong chúng ta đã và đang đi tìm phương cáchChúng ta nghĩ rằng mọi vấn đề đều có thể được giải quyết từ bên ngoài, chúng ta đã lầm... Hầu hết mọi vấn đề đều phát nguồn từ bên trong mà ra và chỉ có thể giải quyết được khi chúng ta cố gắng đi trở vào bên trong để thấy chính mình. Đối với người Phật tử tu thiền, nếu hành thiền có nghĩa là kỷ luật tinh thần hoặc là phương pháp trau dồi tâm trí, thì khỏi phải nói, tất cả mọi người không phân biệt giới tánh, chủng tộc, hay bất luận sự phân chia nào, đều nên hành thiền. Xã hộihiện đại đang lâm nguy trước thảm họa tự trầm mình trong những tình trạng vọng động và quyến rũ, chỉ có thể kềm chế được nếu chúng ta chịu khó rèn luyện tâm tánh của chính mình.

Thật vậy, dù có tài ba thế mấy, không ai có thể thực sự diễn tả được cốt lõi của Thiền. Quyển sách này chỉ nhằm phơi bày ra cuộc sống và hành trạng của chư Thiền đức thời xưa; và rất có thể những câu chuyện Thiền này sẽ giúp cho độc giả thấy được những phương thức đơn giản và dễ thực hành nhất cho bất cứ ai muốn tu tập, nhất là những người tại giaHy vọng nó sẽ phơi bày cho chúng ta cốt lõi của giáo lý nhà Phật về Thiền. Chúng ta nên bắt đầu cuộc hành trình bằng phương cách đơn giản, tìm một vị thầy và niềm tin, rồi kiên nhẫn phủ phục dưới trí tuệ của vị thầy ấy để tu tập. Rồi từ đó chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm sống Thiền cho riêng mình trong đời sống hằng ngày. Dù thích hay không thích, những phút giây hiện tại này là tất cả những gì mà chúng ta phải làm việc. Tuy nhiên, đa phần chúng ta thường hay quên chúng ta đang ở đâu. Hy vọng chúng ta có thể áp dụng thiền quán vào những sinh hoạt hằng ngày để có thể sống được những giây phút hiện tại của chính mình để không mất đi sự tiếp xúc với chính mình, từ đó chúng ta có thể chấp nhận chân lý của giây phút “này” trong cuộc sống của chính chúng ta, từ đó chúng ta có thể học hỏi để tiếp tục đi tới trong cuộc sống thật của chính chúng ta.

Đây là tập sách đầu tiên trong bộ sách bốn tập mà trong đó tác giả góp nhặt những câu chuyện về Thiền cũng như cuộc đời và hành trạng của các vị Thiền sư ở Ấn Độ buổi sơ kỳ và ở Trung Hoa cho đến thời Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Đây không phải là tác phẩm bác học về Thiền, mà chỉ là một sự sưu tập những câu chuyện về Thiền, có thể chính xác về mặt lịch sử và niên đại mà cũng có thể không chính xácTuy nhiêntác giả này tin một cách mạnh mẽ rằng từng câu chuyện Thiền trong tập sách này đều có tiềm năng giúp cho hành giả tu Thiền đạt được sự "tỉnh thức," nếu không muốn dùng thuật ngữ "giác ngộ," giống với kinh nghiệm mà Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni và chư Tổ cũng như chư Thiền đức thời xưađã từng có bởi vì do chính cuộc sống và hành trạng ấy mà Sĩ Đạt Ta thành Phật và chư Tổ chư Thiền đức đã thành những bậc "Giác Ngộ." Sau hết, với tinh thần chia xẻhy vọng rằng những câu chuyệnnày có thể giúp gợi lên cảm hứng cho những ai muốn bước trên con đường tu tập Thiền.

Cẩn đề
Thiện Phúc
PREFACE

Someone may ask such questions as "What is Zen and who are the Zen Masters?" and "What are the differences between a Buddhist monk and a Zen Masters?" and so on, and so on. Devout Buddhists should not think of "Zen" as a term, but as a process of mental discipline. If we can think of "Zen" this way, such questions will have no reasons to exist. In fact, Buddhism offers for its followers three forms of discipline in dealing with daily living and cultivation. They are morality, meditation, and wisdom. Among them, the meditation is the bridge that links morality and intuitive knowledge that helps practitioners see the true nature of things. As meditation or Zen is a discipline of mind and not a philosophy, it directly deals with daily life; and this is where Zen has developed its most characteristicfeatures. Zen may be described as a form of mysticism, but the way it handles its experience is absolutely unique. In fact, almost 26 centuries ago, after experiencing a variety of methods of cultivation without success, the Buddha decided to test the truth by self purification of his own mind. He sat cross-legged for 49 days and nights under the bodhi-tree and reached the highest meditative attainments which are now known as enlightenment and deliverance. He gradually entered the first, second, and third Jhanas. So Zen originated from the very day of the Buddha and Buddhist meditation forms the very heart and core of the Buddha’s teaching.

Zen in China and other Eastern Asian countries formed after Bodhidharma went to China and nowadays Zen becomes so popular that not only Buddhists practise it, but people from all countries including Christians and Muslims have been trying to practise Zen in their daily activities to improve their life. However, meditation in Buddhism does not stop at seeking to improve life, but it also help mankind attain enlightenment through the spontaneous understanding of the nature of reality, which it believes cannot be communicated through rational thought, but rather found in a simple brush stroke or a hearty laugh. Nowadays, Zen has spread to the Western World and has been becoming so widely known that almost everyone knows about Zen. Zen leads the mind away from the mind until the spark of direct insight appears in a simple brush stroke.Meditation is not a practice of today or yesterday. From time immemorial people have been practicing meditation in diverse ways. There never was, and never will be, any mental development or mental purity without meditation. Meditation was the means by which Siddhartha Gotama, the Buddha, gained supreme enlightenment. Meditation is not only for Indian, not for the country of India, or not only for the Buddha’s time, but for all mankind, for all times and all places in the world. The boundaries of race and religion, the frontiers of time and space, are irrelevant to the practice of meditation.

Lives and acts of any Zen master always aim at a state of mental purity where disturbing passions and impulses are subdued and calmed down so that the mind becomes concentrated and collected and enters into a state of clear consciousness and mindfulness. All methods of practicing of meditation of Zen masters stick to activities of their daily lives, not sitting in tranquility for gaining union with any supreme being, nor for bringing about mystical experiences, nor for any self-hypnosis. It is for gaining tranquility of mind (Samadhi) and insight (vipassana), for the sole purpose of attaining unshakable deliverance of the mind, that supreme security from bondage attainable through the total extirpation of all mental defilements. Therefore, the the most important thing in Buddhism is that, meditation is not a voluntary exile from life or something practiced for the hereafter.

Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that meditation should be applied to the daily affairs of life, and its results obtained here and now, in this very life. It is not separated from the daily activities. It is part and parcel of our life. For Zen masters, they are living a Zen life whenever they are wholly in the present without usual fears, hopes and distractions. They show us that with mindfulness we can find Zen in all activities of our daily life. Zen cannot be found by uncovering an absolute truth hidden to outsiders, but by adopting an attitude to life that is disciplined.

People seek enlightenment by striving; however, most of us forget that to become enlightened we must give up all striving. This is extremely difficult for all of us because in our daily life we always strive to achieve things.

Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that Zen practitioners depend on no words nor letters. It’s a special transmission outside the scriptures, direct pointing to the mind of man in order to see into one’s nature and to attain the Buddhahood. While other schools emphasized the need to believe in a power outside oneself to attain enlightenment, Zen teaches that Buddha-nature is within us all and can be awakened by our own efforts. Zen teaches us to know how to live with our precious presence and forget about yesterdays and tomorrows for yesterdays have gone and tomorrows do not arrive yet. In Zen, we should have everyday enlightenment with nothing special.

Through lives and acts of Zen masters of the ancient times, we see that with Zen practitioners everything is just ordinary; business as usual, but handling business with mindfulness. To start your day, brush your teeth, wash your face, relieve your bowels, take a shower, put on your clothes, eat your food and go to work, etc. Whenever you’re tired, go and lie down; whenever you feel hungry, go and find something to eat; whenever you do not feel like to talk, don’t talk; whenver you feel like to talk, then talk. Let circumstances come and go by themselves, do not try to change them for you can’t anyway. Zen teaches us to cut off all discriminating thoughts and to understand that the truth of the universe is ultimately our own true self. All of us should meditate very deeply on this, for this thing is what we call the ‘self’? When we understand what it is, we will have automatically returned to an intuitive oneness with nature and will see that nature is us and we are nature, and that nature is the Buddha, who is preaching to us at every moment. We all hope that all of us will be able to hear what nature is saying to us, so that we can return to the peaceful realm that we once separated.

Truly speaking, there is no specified method of studying of Zen. Those who wish to understand it should come to see a Zen master, but the latter has no stereotyped instruction to give, for this is impossible in the nature of things. A Zen master can simply express his own way either by gestures or in words his disapproval of whatever view his disciples may present to him, until he is fully satisfied and agreed with them. In the following volumes, you will see the masters' dealing with his disciples was quite unique in their records of spiritual exercises. Sometimes they struck them with a stick, sometimes slapped them in the face, or kicked them down to ground; other times they gave an incoherent ejaculation, they laughed at them, or made scornful, satirical, or sometimes even abusive remarks, which will surely shocked those who are not used to the ways of these Zen masters. This was not due to the irascible character of some particular masters; it rather came out of the peculiar nature of the Zen experience, which, with all the means verbal and gesticulatory at their command, these Zen masters endeavor to communicate to their truth-seeking disciples. It was no easy task for them to understand this sort of communication. The point was, however, not to understand what came to them from the outside, but to awaken what lies within themselves. These masters could not do anything further than indicate the way to it. In consequence of all this, there were not many who could readily grasp the teaching of Zen. But if we really would like to cultivate exactly the way that the Buddha cultivated almost 26 centuries ago, the only way that we must tread on is the way of listening to the whispers of Sakyamuni Buddha as well as later Zen virtues that tell us renouncing the worldly life does not mean to run away from life, but to face it with mindfulness. Renouncing the worldly life means renouncing mindless and careless actions which lead to problems. Renouncing the worldly life means renouncing its noisiness, its stress and strain which damage our nervous system and lead to hundreds of thousands of physical and mental illnesses. Renouncing the worldly life does not mean that we renounce our life. It means that we are making an inward journey in the worldly life. Only that we are able to see ourselves as we really are, and then we can learn to overcome the weaknesses and limitations to become stronger in life. A lot of us have been searching for solutions to our various problems in vain because of wrong approach and method. We think all problems can be solved externally, we’re wrong. Most problems are internal and can only be solved when we try to make an inward trip to see ourselves first. To Buddhist Zen practitioners, if by meditation is meant mental discipline or mind culture, it goes without saying that all should cultivate meditation irrespective of sex, color, creed or any other division. Modern society is in danger of being swamped by distractions and temptation which can only be controlled if we undertake the difficult taks of training our minds.

In fact, no matter how talented, no one can really describe the essential nature of Zen. This book is only designed to display lives and acts of Zen virtues of ancient times; and possibly these Zen stories will help giving readers the simpliest and practiceable methods for any Buddhists who want to cultivate, especially lay people. Hoping it will be able to show us the essentials and cores of the Buddha’s teaching on Zen. The original followers of Zen in China, Vietnam and Japan would embark upon their own spiritual journeys by simply choosing a teacher and with faith and trust they would patiently surrender to his wisdom. Then find for ourselves our own way of Zen in daily life. Like it or not, this very moment is all we really have to work with; however, most of us always forget what we are in. Hoping that we are able to apply meditation and contemplation in our daily activities so that we are able to to live our very moment so that we don’t lose touch with ourselves, so that we are able to accept the truth of this moment of our life, learn from it and move on in our real life.

This is the first of the four volumes in which this author gather together the Zen stories as well as lives and acts of Zen masters in India in early periods, and in China until master Lin-chi I-hsuan. This is not a work of Zen scholarship, but a collection of Zen stories which may be historically and chronologically accurate or may be not. However, this author strongly believe that each of the Zen stories in this book has the potential to help Zen practitioners attain "awakening" if we do not want to use the term "enlightenment," the same experience that Siddhartha Gautama, patriarchs, and other Zen virtues of ancient times had had because of which Siddhartha came to be called "Buddha" and Patriarchs and other Zen virtues became the "Enlightened Ones." Last but not least, with the spirit of sharing, hoping that these stories can help intriguing people to the practice of Zen.

Thiện Phúc



pdf_download_2
CHU THIEN DUC VOL-4



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.