BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
Chương
III
LÀM
SAO THỂ NGỘ ĐẠO LÝ “ĐƯƠNG HẠ TỨC THỊ”
(ĐANG
KHI ĐÓ CHÍNH LÀ)
VÌ
SAO THIỀN SƯ CỰ TUYỆT 3 LẦN
Trước
đã
giới thiệu về “Bất Sanh Thiền” của Bàng Khuệ
thiền
sư, sau đây
giới thiệu thêm mẫu chuyện vặt nhỏ có
liên
quan đến đời ngài. Mẩu chuyện lục từ sách “Chánh Nhãn
quốc Sư Dật Sự Trạng”, Chánh Nhãn
quốc sư tức Bàng Khuệ,
sách nầy do
đệ tử của ngài tên là
Trạm Nhiên biên soạn
để ghi lại những gì có
liên quan đến sự hành hoạt và
ngôn hạnh của Bàng Khuệ
thiền sư.
Mẩu
chuyện xảy ra ở chùa
Địa Tạng,
Sơn Khoa.
Một
hôm,
thiền sư dặn dò
thị giả của ngài lên kinh thành mua
một số giấy
thượng hạng. Vị
thị giả nầy
xưa nay được
khen là có “Tư tài của Tử cống”, như thế đủ thấy
vị
thị giả này là người
tương đối thông minh lanh lợi.
Ai cũng biết,
Tử Cống là một trong 72
hiền nhân môn hạ
của
Khổng Tử, không những tài
trí thông minh mà còn rất
sở trường về tài
biện luận. Ông thường qua lại hai nước
Lỗ, Vệ và ông đã giành được rất nhiều
thắng lợi to
lớn trên
phương diện ngoại giao.
Ngoài ra,
Tử Cống còn giỏi
về mặt thương mãi, quản trị.
Thiền sư đã sai người
đệ
tử “tái trí
so bằng Tử Cống” đi mua giấy cũng vì
lý
do như đã được dẫn.
Đương
nhiên,
thị giả không dám khinh thường, trăm chọn ngàn lựa
cuối cùng vất vả mang về một số giấy tốt
Không
ngờ, sau khi
thiền sư xem qua giấy rồi phê rằng:
“Loại
nầy không được!”
Thiền sư cự tuyệt không chút
vị nể Vì
thế,
thị giả chỉ còn cách lên kinh tìm mua loại giấy khác.
“Thứ
nầy cũng không được!”
Thiền
sư xem qua loại giấy vừa được mua về lần này nhưng vẫn
lạnh lùng chê trách.
Kết
quả,
thị giả phải đành
cố gắng lặn lội lên kinh lần
nữa.
Từ Sơn Khoa đến kinh đô
cách nhau khá xa, đương thời
phương tiện giao thông khó khăn nên mấy lần trở tới trở
lui rất là
cực nhọc. Chỉ vì
vấn đề mua giấy mà hạnh
hạ
đệ tử phải
vất vả ngược xuôi, vả lại người
đệ
tử đã không biết là ý
sư phụ muốn loại giấy gì...Xem
đến đây cólẽ có nhiều người không
dằn lòng được và
đồng tình với
hoàn cảnh của vị
đệ tử nầy mà
liên
tưởng đến
trường hợp một viên chức nhỏ trong một công
ty vì thường mua tính chỉ tư nhân cho thượng cấp khó tính
mà p hải bôn ba
cực khổ nhiều lần.
Nhưng,
tình tiết phát triển của
câu chuyện thiền lại thường
khi có một kết quả khiến người ta không thể ngờ được,
cho nên hãy khoan luận đoán
bừa bãi mà cứ
tiếp tục đọc
tiếp!
Lần
thứ ba, sau khi vị
thị giả đi mua giấy về,
thiền sư vẫn
lạnh lùng bảo:
“Không
được!”
Người
đệ tử suy nghĩ: “Quả thật sự
lao khổ của mình không
thể lường được.”
Nhưng,
sau khi
suy nghĩ, người
đệ tử đã giật mình vì đã phát
giác
lỗi lầm của mình nên liền
sám hối sư phụ.
“Chà!
Bây giờ mới rõ!...
thực ra, giấy mua lần đầu đã được
rồi”.
Thiền
sư dạy thế.
KHÔNG
NÊN CƯỠNG CẦU HOÀN MỸ
Câu
chuyện đến đây
kết thúc.
Nhưng
chúng ta giải thích thế nào về mẫu chuyện trên? Trong cốt
chuyện tường thuật, sau khi
thị giả tam bận
trở về mới
phát hiện
lỗi lầm của mình,
cuối cùng thì sự việc đã
như thế nào và vị
thị giả đã phải làm sao? Nếu ở vào
địa vị chúng ta, e rằng
chúng ta sẽ bị lên kinh lần nữa!
Nếu
suy nghĩ,
quả thật vấn đề vô cùng nhức óc.
Có
thể
chúng ta cứ thử mạnh dạn
chú giải thêm về
câu chuyện
nầy. Như bài thứ nhất trong sách đã từng đề cập,
công
án thiền tôn đã không có bất cứ đáp án
tiêu chuẩn nào
mà ngược lại,
độc giả có thể tuỳ theo tâm ý của mình
để
giải thích. Khi bắt đầu suy giải, không nên nghĩ rằng
đáp án không
thể đạt đến 100% thì không được, mà chỉ
cần có 50% thôi là đã được rồi.
Nếu có thể đạt đến
60% thì lại càng tốt.
Có
một số người vì cầu “Hoàn Mỹ”
quá đáng nên bất cứ
trên chức vị công tác, thậm chí ngay cả ở trên
phương
diện thỏa mãn chuyên nghiệp cũng
yêu cầu đạt đến “Thập
toàn thập mỹ”. Loại
yêu cầu theo “Chủ nghĩa hoàn mỹ”
nầy, tự ngã hãy còn rất nặng, nhưng nếu đối với người
khác, nơi nào cũng
yêu cầu hoàn mỹ thì không khỏi
quá đáng.
Thường thường sự việc sẽ không những không
như ý nguyện
của mình mà ngược lại còn khiến trời hờn người giận.
Thí
dụ, có một số người đối với một số
phương diện nào
đó đã đòi hỏi một cách
quá đáng đối với
vợ con, rằng
muốn có một người vợ toàn bích, con cái
ưu tú đó là sự
mong mỏi của tất cả
mọi người, nhưng trên
thế gian đã
có được bao nhiêu người vợ có thể vừa đẹp vừa
hiền
thục, vừa
thông minh ôn nhu,
trung thành đối với chồng và
lại siêng năng quét nhà giặt áo, thậm chí khi chồng về
khuya còn ra tận cửa
cúc cung cúi mình hầu đón?
Điều kiện
trên nếu
đạt được một nửa thì đã kể là một người
vợ
tương đối khá rồi. Nếu như là tôi thì chỉ cần 30
điểm cũng đã
vừa ý.
Qua
đó, đối với sự
yêu cầu về con cái cũng vậy: Không những
yêu cầu quốc ngữ, số học,
lịch sử, địa lý v.v... phải
là điểm A, mà các môn như
thể dục,
âm nhạc, mỹ thuật
cũng không thể đứng sau người. Tôi nghĩ, nếu có những
người trẻ tuổi như thế thì họ chính là những bậc “Siêu
nhân”. Nhưng trên
thế gian này
vẫn có những hạng
cha mẹ
như vậy, họ luôn mong muốn con cái của mình là những “siêu
nhân”.
Còn
nữa, những cấp trên trong các công ty
thường hay đối đãi
với bộ thuộc, có cùng tâm thái giống thế...
Nhưng,
nếu chính
bản thân mình cũng không thể nào
đạt đến những
tiêu chuẩn như
vậy thì làm sao lại
yêu cầu người khác?
Tuy
quyết tâm cố gắng tiến lên là việc rất tốt, nhưng
hà tất phải dạt đến 100 điểm mới được? Một khi
đạt
đến 60 điểm thì có thể ngưng lại thở phào nhẹ nhõm,
để bước qua một cuộc sống dư dả như thế có phải tốt
hơn?
Những
lời ngoài đề,
mục đích nhờ đó để chỉ chân nghĩa của
thiền. Vì thiền vốn không
thoát ly cuộc sống thường nhật.
Con người vốn không phải vì có thiền mà
tồn tại, nhưng
thiền chính là
pháp môn vì ứng với phương thức sống của
con người phát sanh, vì thế, bất cứ lúc nào và nơi đâu,
chỉ cần nói đến thiền thì biết rằng đó là những gì
tương ứng với cuộc sống
hằng ngày của
nhân sinh.
Bài
thứ 3 trong sách này, tôi chuẩn bị đối với loại “thiền”
tương ứng với cuộc sống, nhằm
thăm dò thêm bước nữa,
đây cũng là
dụng ý lấy
câu chuyện Bàng Khuệ
thiền sư
mở đầu cho bài nầy.
KHÔNG
PHẢI LÀ “LẦM LỖI” MÀ LÀ VÌ “MÊ MUỘI”
NÊN
BỊ QUỞ TRÁCH
Chúng
ta hãy
trở lại đề mục nói về Bàng Khuệ
thiền sư và
thị giả, để
tìm hiểu thử xem
câu chuyện này muốn dạy
chúng ta điều gì?
Trong
sách “Chánh Nhãn
quốc sư dật sự trạng”, do
Trạm Nhiên
pháp sư soạn, cuối câu chuyệncó thêm đoạn
chú giải như
sau:
“...Những
học giả vì lấy sự
tư lự đề
phân biệt, cho nên đã có
sự
cách biệt, trở ngại ngàn vạn dặm.
Dụng ý của
thiền
sư là như thế. Do vì không
phân biệt tư lự nên
thoát thể
hiện tiền. Xưa có Đại Tổ
quốc sư khen ngợi một
tiểu
tăng lấy rổ hứng mưa, ngàn thánh cùng một
dấu tích.
Diệu
môn của
con người điều ở đây, nên phải
thường xuyên
tham khảo điều này”.
Xem
qua đoạn
chú giải nầy, vẫn khiến cho người
cảm thấy
mơ hồ. Nhưng, nếu xem kỹ,
suy gẫm cách dụng ngữ,
chúng
ta sẽ dễ dàng
nhận ra rằng ý của ngài là nhắm vào sự
lo âu,
phân biệt của
học giả để
cảnh tỉnh. Từ đấy
suy đoán, cái gọi là “Học giả”,
phải chăng nói hạng
người chỉ biết mổ xẻ trên những
sự kiện nhỏ nhặt
Ngoài
ra, trong bài văn có đề cập đén “Đại tổ
quốc sư khen
ngợi
tiểu tăng lấy rổ hứng mưa” cũng là một trọng điểm
khác. Đại tổ
quốc sư tức là
Quan Sơn Huệ Huyền thiền
sư đã đề cập trong bài thứ nhất của quyển sách nầy.
Trạm Nhiên pháp sư cho là câu chuyên Quan Sơn
thiền sư khen
ngợi vị
tiểu tăng dùng rổ hứng mưa, dường như đối với
câu chuyện Bàng Khuệ
thiền sư và
thị giả mặc dù có những
bài học hay đẹp khác nhau nhưng đã có cùng
công dụng như
nhau. Như thế,
câu chuyện nầy có thể
giải thích:
Người
thị giả có tài
quản lý, nếu căn cứ trên
phương diện
lợi lạc mà đo lường
cân nhắc, nhất là sau khi ở tiệm
đã
lựa chọn kỹ rồi mới mua giấy mang về. Nhưng trong lòng
người
đệ tử vẫn không
tránh khỏi ái náy rằng: mình đã
mua loại A, nhưng không chừng loại C còn
tốt hơn...
Bàng
Khuê
thiền sư vì để phá trừ
ý tưởng mê muội trong tâm
đệ tử, cho nên
cố ý làm mặt
lạnh lùng: “Không được!”
Nhưng
thực ra, đối với một vị
thiền sư khai ngộ thì không
boa giờ
phân biệt tốt xấu về những loại giấy. Có cho
ngoài loại giấy rơm cỏ hạng xấu đi nữa ngài cũng không
chê. Giống như một đứa con nít nhân ngày sinh nhật của
ba nó, dùng tiền lẻ bỏ ống mua một bình rượu hạng thường
để làm
lễ vật tặng cho ngươi cha nghiện rượu, ắt hẳn
người cha cũng xem đó là vật
quý báu mà uống ngon lành!
Nhưng,
nếu người con
bủn xỉn,
cố ý mua bình rượu hạng bét để
tặng cho xong việc, thì không những tâm tình
vui vẻ của người
cha
suy giảm mà còn có thể là phiền giận là khác.
Đối
với Bàng Khuệ
thiền sư thì giấy loại nào cũng xong. Điểm
nầy
chúng ta có thể thấy rọ là khi
thị giả sám hối thiền
sư sau khi đã đi mua giấy về lần thứ ba và
thiền sư đã
nói “Kỳ thực mua giấy về lần đầu là được rồi”.
Then chốt của
vấn đề chính là tâm thái của người
thị
giả.
Có
lẽ
lúc đầu, khi lựa giấy tâm người
thị giả đã nghĩ:
“Mua loại giấy nầy về, không chừng sẽ bị
sư phụ khen
thưởng...” Có lẽ
thiền sư đã tri nhận được
mê muội
của người
đệ tử và vì muốn khai đạo cho học trò nên
mấy phen liền ngài đã bắt người
đệ tử phải lên kinh
thành để tìm mua giấy tốt.
CHỚ
NÊN RONG RUỖI TÌM CẦU
Nói
đến đây, tất nhiên có đôc giả sẽ đưa ra
vấn đề: Tại
sao
thiền sư có thể thấy được
tư tưởng mê lầm trong
tâm đệ tử?
Thực
ra thì
đạo lý đã rất
đơn giản.
Tư tưởng mê lầm trong
tâm người, kẻ
bàng quan chỉ nhìn
cử chỉ thái độ người
ấy cũng có thể thấy được, huống hồ
xưa nay thiền sư
là những cao thủ tri nhân
chí minh (biết người rất rõ),
như thế nếu ngay cả tâm sự của
đồ đệ mình mà không
thấy được thì làm sao thành bậc
thiền sư chỉ đạo tu
hành?
Nói
cách khác, giá như khi
thiền sư bảo “Cái nầy không được!”
lúc ấy có lẽ
thị giả đã không khách sáo thưa rằng: “Nếu
vậy xin thầy sai người khác đi mua, chứ theo con thì con cho
rằng đã mua giấy tốt mang về”.
Hoặc giả nếu,
thị giả
nầy cũng là
thiền sư, không chừng còn cuốn giấy lại, sau
đó quăng tới sư phụ! Dường như tất cả
thiền sư trong
ấn tượng của
chúng ta đều là như thế...
Có
lẽ có
độc giả sẽ
cảm thấy thái độ như thế là quá
ngang tàng. Nhưng so với người
thị giả trước, vì bị sư
hụ
cự tuyệt mà sợ sệt lên kinh mua giấy nhiều lần thì
có vẻ nhu nhược, có
tinh thần không
hướng thượng.
Nhưng
hãy khoan
vội vàng chỉ trích người khác, bởi vì trong
sinh
hoạt hằng ngày của
chúng ta phải chăng đã đầy dẫy những
tình trạng tương tợ?
“Quyển
sách nầy viết hơi kém, viết lại quyển khác đi!”
Được
rồi! được rồi, tôi theo lời ông”.
Cuối cùng, giống như
con chó vô chủ không hơi không sức. Bộ tịch lúc bấy giờ
so với
thị giả,
phải chăng chỉ
xê xích nhau 50 và 100 bước?
Đương nhiên, nếu
chúng ta hạn cuộc
trong vòng 100 bước thì
sẽ thấy sự
vô dụng một cách rõ hơn.
Nhưng,
tôi không có ý khích lệ
mọi người chống lại cấp trên
và hàng trưởng bối. Vì để tránh sự
hiểu lầm của
độc
giả, tôi phải
đặc biệt thuyết minh ở đây, ý tôi là mong
mọi người không nên cưỡng cầu sự
hoàn mỹ quá đáng,
khi
cần thiết có thể dút khoát nói: “Tôi chỉ có thể làm
được những cái nầy thôi!”
Nhưng,
câu nói nầy không là
đại biểu cho câu
trả lời có
tiêu
chuẩn 100 điểm,
nguyên nhân ấy trước đã trình bày.
Lời
nói của tôi là:
đạo lý “Biết là biết, không biết là
không biết”. Xem rất
đơn giản, nhưng chưa chắc
mọi người
đều có thể làm được.
DO
DỰ, BẤT QUYẾT THẢY ĐỀU VÔ DỤNG
Mãi,
cảm thấy phương thức viết lách của tôi cũng
biến thành
mươi phần
thiền vị Tuy
nhiên dùng loại bút pháp nầy để giảng thuật thiền tôn
công án thì không thể bảo là không được, nhưng trên
lý
luận thì lại thấy nát vụn vì đó chỉ là một số
lời
nói khiến người không hiểu và e rằng sẽ làm
độc giả
bị phản cảm.
Tóm
lại, theo tôi – không nên dành quá nhiều
vọng niệm chấp
trước Xin
cứ thêm một
thí dụ nữa để dẫn chứng!
Trên
xe buýt
công cộng, bạn thấy một
lão bà tay
chân run rẩy
bước lên xe và đến đứng cạnh chỗ bạn ngồi, tức khắc
bạn sẽ đứng lên và nói: “Xin mời ngồi!” Nhiều nhất
cũng chỉ là việc nhường chỗ ngồi. Nhưng đã lỡ
lịch
sự bị mất chỗ ngồi, dù sao bạn cũng
cảm thấy trong lòng
có
điều chi bất ổn
vu vơ:
“Nhường
đúng hay đừng nhường đúng?”
Vào
thời khắc đó trong lòng
cảm thấy phân vân
bực bội vì
thấy người trẻ ngồi cạnh, nên bạn thầm nghĩ: “Anh chàng
nầy nhỏ tuổi hơn tôi, hắn nên nhượng ghế mới phải”.
Và, nhìn sang hàng ghế
đối diện là một đám nữ sinh đang
ngồi
trò chuyện lăng xăng thì trong lòng
hậm hực: “Bà lão
nầy đúng ra nên đến chỗ mấy nữ sinh cùng phái kia, đương
nhiên những nữ sinh đó nhượng chỗ mới phải..”
“Thiệt
tình, đúng cái giờ cao điểm chật chội trên xe
công cộng,
bà lão nầy lại chen vào náo nhiệt. Nếu muốn có chỗ ngồi,
phải chọn lúc khác để đi xe buýt mới phải...” lúc nầy
vọng niệm tung bay đầy não.
Muốn
nhượng chỗ thì nhượng, không muốn nhường chỗ thì bất
tất phải
cảm thấy khó chịu, nhưng thông thường
con người
lại
suy nghĩ quá nhiều, những nội dung
suy nghĩ không phải
vì chính mình, cũng không phải vì người khác, mà chỉ là
một số
ý tưởng vu vơ tạp nhạp, thiền kỵ nhất là loại
vọng tưởng nầy.
--
Chớ
vọng tưởng --
Đó
là câu nói của
Vô Nghiệp hòa thượng,
đệ tử của
Mã Tổ
Đạo Nhất thiền sư Thật
ra,
phàm phu chúng ta có quá nhiều
vọng tưởng. Nghĩ đông
nghĩ tây, kết quả mê mất
bản tâm,
không tưởng,
mộng tưởng,
cuối cùng cũng không ra gì. Chi bằng thà sớm
dứt khoát: “Tôi
chỉ làm được có thế thôi”.
Như
vậy thì không đến nổi sa vào
tư tưởng mê muội.
Nếu không
thì cho dù khứ
hồi kinh thành mấy mươi lần đi nữa, Bàng
Khuệ
thiền sư vẫn cứ lập tới lập lui: “Cái nầy không
được!”. Cũng vậy,
nếu không muốn nhượng, thì cứ ngồi
yên!.
TRÂN
TIẾC “HIỆN TẠI, NGAY BÂY GIỜ”
Bài
thứ nhứt của quyển sách nầy đã từng bàn rằng thiền
là “Không nên bó buộc”, nhưng nay lại nói “Không nên
vọng tưởng”. Kỳ thực hai điểm này đường đi tuy khác
nhưng chỗ về chỉ một.
Vậy thì tốt nhất
chúng ta nên mang
hai điểm nầy
hợp lại thành một, tức là
đạt đến cực
trí (hết mức) của thiền.
Ngoài
điều nầy ra, còn một điểm nữa cần nói đến là,
phải
chăng chúng ta đã thể ngộ điểm khả quý của “Đương
hạ, hiện tại”.
Kiên
Trị A Khách Mạc Phúc
tiên sinh là một nhà
vật lý học kiêm
bình luận gia khoa học của Hoa Kỳ, trong tác phẩn “1,2,4...lớn
đến vô hạn lớn” của ông đã ghi lại một mẫu chuyện
cười thế này.
Có
một nhóm
quý tộc Hung Gia Lợi cùng nhau trèo núi. Khi trèo
đến nữa chừng, họ bị
lạc đường.
Đang khi tiến thoái
lưỡng nan, đoàn người liền mang địa đồ ra và bắt đầu
thảo luận. Đương nhiên,
trước tiên họ
cần phải xác định
vị trí hiện tại họ đang ở đâu
Không
bao lâu, một người trong đoàn
đột nhiên la lớn: “Tôi biết hiện
chúng ta ở đâu!”
“Ở đâu?”
“Các vị có thể xem ngọn núi cao kia!
Hiện tại chúng ta
lại ở đỉnh núi cao nầy”.
Đây
chỉ là một
câu chuyện khôi hài, nó không phải là một bài
học
triết lý cao siêu gì cả, nó chỉ gợi sáng trong một
chớp nhoáng nhưng thường
vẫn có người đặt ra rất nhiều
vấn đề gở để phải đau đầu nhức óc.
“Điều
đó có
ý nghĩa gì?
Hiện tại họ đang ở trên đỉnh của
một ngọn núi khác!”
Mỗi
lần kể
xong chuyện tiếu lâm nầy hoặc tới những
vấn đề
thuộc loại như thế, khiến tôi không biết phải
trả lời
thế nào mới phải. Bởi vì bất cứ ai ở ngọn núi nầy
hay ngọn núi kia, hoặc là ngọn núi khác cũng vậy, chỉ cần
bảo ngọn núi mình đang ở: Thế không phải “ngọn núi nầy”
sao? Vì thế sau khi các vị nghe hết
câu chuyện nầy, ngoại
trừ cái cười, không biết có phát hiện được chính mình
cũng giống như vị
quý tộc Hung Gia Lợi vừa kể vì đã không
thể khẳng định đương hạ (
lập tức) là như thế nào.
Trong
cuộc sống của
chúng ta, những
trường hợp xảy ra
tương
tự như
thí dụ trên nhiều đến nỗi không sao kể hết.
Ví
như một viên chức của đài khí tượng, trong một cơn mưa
lớn đã cầm bản đồ khí tượng và la: “Trần mưa nầy
đã không
chính xác, căn cứ trên bản đồ của tôi thì không
có mưa!”
Ví
như vào khoảng thượng tuần tháng 10, khí lạnh bắt đầu
ập đến nhưng vì lẽ vẫn còn
mùa thu nên đã có bao nhiêu
người cho rằng thà cứ ngồi co chứ không chịu mang lò sưởi
ra để dùng.
Ví như đứa trẻ nọ đã dứt hẳn bệnh cảm,
tinh thần đã
phục hồi, nhưng vì mẹ em đã mua
một lượng
thuốc dùng trong năm ngày, do vậy, em bé
bị bắt buộc phải
nằm trong chăn để uống cho hết số thuốc đã mua.
Những
trường hợp như thé nếu
suy gẫm kỹ
phải chăng chúng ta
cũng đã từng có những lần về
vị trí của mình “Trên
đỉnh của ngọn núi ấy” một cách tương tự?
Đây
là việc tầm thường
trước mắt,
hiện tại, đang ngay khi
nó xảy ra mà
chúng ta còn không thể nhận được nó, như
thế thì đủ biết không phải chỉ riêng có đoàn
quý tộc
Hung Gia Lợi mới là những kẻ đáng cười!
HIỆN
TẠI KHÔNG THỂ NHẪN NẠI
VỊ
LAI CHẮC CHẮN THỌ BÁO
Sau
cùng xin kể thêm một mẫu chuyện nữa để
chia xẻ cùng quý
vị.
Trước
kia, trong thành
Xá Vệ, thủ đô nước
Kiều Tát La (Kosa Là)
Ấn Độ, có một người trẻ tuổi tên là
Ương Quật Ma La
là con ruột của một đại thần, không những
thông minh lanh
lợi mà còn là người đẹp trai
tuấn tú. Đối với người
Ấn, “Đẹp trai” còn có hàm ý là “tạo nghiệp”, “phạm
tội”. Quả nhiên chàng thanh niên nầy “tội nghiệp” đầy
mình. Lúc bấy giờ anh theo một vị
Bà La Môn để tu, nhưng
vợ của vị này cứ mãi
tìm cách để khêu gợi anh.
Vì
Ương Quật Ma La là một người
tuổi trẻ có
tinh thần cầu
tiến nên đối với sự khêu gợi của
sư mẫu anh đã
đáp
lại bằng một
thái độ lãnh đạm.
Dụ dỗ đủ cách nhưng
vẫn không thành, do vậy, từ sự
hổ thẹn bà đã
trở thành
giận dữ nên bà cáo buộc với chồng bà rằng
Ương Quật
Ma La đã
tìm cách xâm phạm đến bà.
Để
trừng phạt Ương Quật Ma La,
Bà La Môn thượng sư đã ra lệnh
cho hắn đến
Xá Vệ thành giết 100
nam nữ và chặt hết ngón
tay Út mang về để làm dây chuyền đeo cổ.
Ương Quật Ma
La không dám
trái lệnh.
Cuối cùng từ một người trẻ tuổi
có
tâm địa lương thiện anh đã
biến thành một
ma vương
giết người không gớm tay.
Lúc
Ương Quật Ma La giết xong người thứ 99 và chuẩn
bị giết
người
cuối cùng thì gặp đúc Thích Tôn. Anh ta cũng định
giết đức Thích Tôn, nhưng sau cùng vì nghe
sự giáo huấn
của đức Thích Tôn mà buôn đao và cạo đầu làm
đệ tử
ngài.
Vấn
đề là ở chỗ.
Sau
khi
Ương Quật Ma La đã thành
đệ tử của Phật, một hôm
đang ôm
bình bát đến
Xá Vệ để
khất thực, vì mối
cừu
hận của những người trong thành đối với ông vẫn còn
do vậy
mọi người khi trông thấy ông đã ra tay ném đá
công
kích,
dĩ nhiên đã không một ai đem vật thực để
cúng dường.
Ngay qua ngày,
Ương Quật Ma La đành ôm bát không
trở về và
toàn thân lại mang đầy thương tích
Đức
Thích
Tôn chỉ im lặng thương hại nhìn ông. Mãi đến một
hôm, đức Thích Tôn đã bảo với ông rằng:
“Này
Uơng Quật Ma La! Hãy nhẫn nại thêm nữa! Đây là
nghiệp báo
mà lẽ ra
kiếp sau con phải gánh chiu nhưng nó đã ứng nghiệm
trong kiếp này!”
Đây
là một lời dạy của một bậc đại giác! Khiến tôi phải
thương hại cho Ương Quật.
Ương Quật Ma La không nhẫn nại
thì không còn cách nào khác.
Nếu không nhẫn nại được cái
khổ
hiện tại mà chỉ muốn tránh thì cho dù có trốn được
một lúc nhưng tương lai không bao lâu
chắc chắn vẫn chịu
sự báo ứng. Nếu muốn tương lai khỏi bị
quả báo thì
hiện
tại nhất định phải hoàn tâm nhẫn nại.
Nhưng,
thông thường người ta cứ muốn
trốn tránh những
hiện thực
vì không
chịu đựng được những
khổ nạn trước mắt.
Đa phần chỉ một mực
ảo tưởng về một
vị lai không
thực
tế, hoặc cứ đắm chìm trong
quá khứ một cách
vô vọng.
Đây là
hành vi vô minh nhưng
chúng ta lại thường không tự
biết.
Chỉ
có sống với “Đang là, hiện tại”, đó mới là cuộc sống
chân chính của
chúng ta. Tuy ôm ấp
lý tưởng tương lai là
một điều không
thể không có, nhưng
chúng ta phải
nhận thức
rõ một điểm:
Con người không thể sống trong cuộc sống
của người khác.
Căn cứ vào nhận thức nầy,
chúng ta càng
phải
tích cực thể nhập và sống
trọn vẹn ngay trong “Lập
tức, hiện tai bây giờ và ở đây”.
Đó
chính là sự
sinh hoạt trí tuệ của thiền.
HẬU
KÝ
VỊ
LAI CHẮC CHẮN THỌ BÁO
Thiền
là gì? Nếu có người hỏi tôi như thế, tôi sẽ
trả lời
rằng thiền là:
--
Cách mạng tư tưởng --
Hoặc
giả cũng có thể nói là “Cách
mạng ý thức”. Có thể
sửa đổi cách
quán sát chủ quan của sự vật hoặc
tâm thức,
ý thức hình thái của
chúng ta thì đó chính là thiền.
Ví
dụ,
thiền sư dẫn
thị giả tản bộ ở sân đình. Vào trời
mùa thu, lá khô rơi rụng khắp nơi.
Thiền sư nhặt từng lá
một bỏ vào ống tay áo.
Thị giả thấy vậy liền bảo:
“Bạch
thầy, xin thầy chớ nên nhặt nữa, đợi một lát nữa sẽ
có người đến để quét dọn...”
“Đồ
ngốc! cứ mãi nói “đợi một lát, đợi một lát” như
thế sân đình còn sạch sẽ được sao? Chỉ có
hiện tại
nhặt lá tức khắc, sân đình mới xác thực được sạch
sẽ”.
Thiền sư quở trách thị giả của ông.
Câu
chuyện nầy là một ví von tốt nhất về “Cách
mạng ý thức”.
Đối với người thông thường thì khi gió thổi lá rụng
đầy sân, tất nhiên ôm một tâm thái “Cho dù
hiện tại
nhặt lên năm, bảy lá rơi cũng chẳng ích gì, đợi một lá
quét dọn luôn thể”. Nhưng nghĩ chỉ là nghĩ,
thực tế vẫn
trì trệ
chậm chạp và không chịu hành động. Những sự
lệ như thế đích thật xảy ra
thường xuyên trong
sinh hoạt
thường nhật của
chúng ta.
Thiền
muốn chỉ dạy
chúng ta rằng là:
--
Lập tức,
hiện tại --
Đạo
lý nầy đã được
thuyết minh và
nhấn mạnh một cách
liên
tục trong sách nầy.
Thi hành ngay lập tức, ngay
hiện tại,
khi lá rụng nhặt lên ngay, cho dù 2,3 lá, sân đình đích thật
sẽ lần lần
biến thành sạch sẽ. Thiền chính là muốn kêu
gọi loại hành
động lực thực tế nầy.
Nhưng,
thông thường loại sách thiền xuất bản trên thị trường
dù có nói mấy đi nữa thì chẳng qua đến đây là cùng. Kể
cả một số sách thiền do những
thiền sư viết ra cũng chỉ
nhằm “thuyết giáo” mà thôi.
Cá nhân tôi thì cho rằng nội
dung sách thiền như thế vẫn không đầy đủ.
Không
sai, thiền đích xác là “cách mạng tư tưởng”, là giống
như hành động
lập tức nhặt lên lá rụng để
triệt để
sửa đổi tâm thái “đợi một lát mới làm” thường ngày
đã bị
tiêm nhiễm của
chúng ta. Nhưng nếu sự chỉ dạy
của
thiền chỉ là một môn “Đạo đức giáo dục” như
quý
độc giả đã thấy qua những sách thiền do phường gian
xuất bản
giống hệt như giáo khoa thư “Công dân và đạo
đức” của
bộ giáo dục
ban hành, tôi nghĩ, không riêng chỉ
một mình tôi? Nói thực, những loại sách như thế đã khiến
cho
mọi người không dám
phụng thừa.
Tôi
cảm thấy tinh thần chân chính của thiền là ở chỗ:
--
Không chấp trước
phân biệt đối với tất cả sự vật
--
Cho
dù là rác rến, xác lá rụng.
Thấy
lá rụng tức khắc nhặt lên cũng vậy, để mặc nó rơi cũng
vậy, tất cả đều không có gì trở ngại.
Đã
từng có lần, tôi đứng
xem mặt trời lặn ở bờ sông Hô
Cố Lý của Gia Nhĩ Cát Đáp
Ấn Độ. Dù
đang lúc mắt nhìn
cảnh đẹp, nhưng không cách nào không
để ý đến vỏ trái
cây, giấy vụng đang trôi bập bềnh theo hai bên bờ sông.
Tôi đã
nghĩ thầm: “Tại sao chỗ
đẹp đẽ thế nầy mà
thải rác rến?” Thật tình đối với sự thiếu vệ sinh
của người
Ấn Độ đã khiến lòng tôi
cảm thấy bực tức.
Kết quả là không còn
lòng dạ nào có thể đứng ngắm
mặt
trời lặn một cách
an lạc. Lúc bấy giờ có một ông lão
đồng hành đứng cạnh bờ sông khen rằng:
“Ồ!
Cảnh đẹp vô cùng!”
Lúc
ấy tôi nghĩ: “Chẳng lẽ ông ta
cố ý mai mỉa mình?” sau
nầy khi xe qua những bức ảnh, tôi
hoàn toàn đồng ý với
nhận xét của ông lão.
Vì
lẽ lòng tôi cứ
chấp trước vào số rác rến trên sông.
Thiền
cũng dạy
chúng ta loại “chấp trước” nhặt lá nầy.
Thanh
trừ rác rưởi là việc nên làm, nhưng
không chấp trước
rác rến là điều
trọng yếu hơn. Ý chính mà quyển sách
nầy muốn biểu đạt đó là “Thiền” là như thế đó. NHẮN
CÙNG NGƯỜI
VÔ DỤNG XIN
HÃY ĐỌC NHIỀU LẦN
VÀ
ĐỌC THẬT NHIỀU LẦN