- Lời Cảm Ơn
- Lời Giới Thiệu
- 1 - Cậu Bé Krishna Là Ai?
- 2 - Một Quyền Năng Lạ Thường
- 3 - Tại Sao Họ Đã Chọn Con?
- 4 - Con Không Bao Giờ Có Thể Thực Hiện Được Ước Mơ Của Con
- 5 - Thẩm Thấu Thượng Đế
- 6 - Có Một Cô Đơn
- 7 - Một Mơ Tưởng Cũ Là Chết Rồi
- 8 - Sự Rối Loạn Liên Tục Bên Trong
- 9 - Tôi Từ Chối Là Cái Nạng Của Bạn
- 10 - Tôi Đang Theo Con Đường Của Tôi
- 11 - Một Ngây Ngất Thăm Thẳm
- 12 - Vào Nhà Của Chết
- 13 - Sự Kết Thúc Của Đau Khổ
- 14 - Những Lý Tưởng Là Những Điều Tàn Nhẫn
- 15 - Tương Lai Là Ngay Lúc Này
- 16 - Một Đối Thoại Với Chết
- 17 - Cái Trí Trống Không
- 18 - Kết Thúc Cái Đã Được Biết
- 19 - Em Phải Gấp Lên Để Hiểu Rõ
- 20 - Sống Của Tôi Đã Được Định Sẵn
- 21 - Thế Giới Của Sáng Tạo
- 22 - Trống Không Vô Hạn Đó
- 23 - Bộ Não Không Thể Hiểu Rõ
- Ghi Chú
SỐNG CHẾT
CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
THE LIFE AND DEATH OF KRISHNAMURTI
A BIOGRAPHY BY MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009
12
Vào nhà của chết
G |
ia
đình Rajagopal nhận thấy một độc lập mới trong K khi anh trở lại từ Ấn độ, mà
gây lo lắng cho họ. Họ đã nghe những đồn đại về Nandini, và Rosalind bộc lộ
tánh ghen tuông của con người, vì từ lâu rồi đã là người phụ nữ duy nhất trong
sống của K. Ghen tuông dẫn đến sự sở hữu và K không thể bị sở hữu, dù anh
thương yêu đến chừng nào. Anh quay lại Ấn độ vào tháng mười một. Đang nói
chuyện tại Rajamundi, cách 350 dặm về phía bắc
Bạn và thế giới không là hai thực thể khác biệt. Bạn là thế giới, không phải như một lý tưởng, nhưng thực sự … vì thế giới là bạn, trong thay đổi chính bạn, bạn tạo ra thay đổi trong xã hội. Người hỏi ngụ ý rằng bởi vì không có chấm dứt sự trục lợi, điều gì tôi đang nói là vô ích. Điều đó đúng à? Tôi đang đi khắp thế giới cố gắng vạch ra sự thật, không phải truyền bá. Truyền bá là một dối gạt. Bạn có thể truyền bá một ý tưởng, nhưng bạn không thể truyền bá một sự thật. Tôi đi khắp thế giới để vạch ra sự thật; và nó dành cho bạn để nhận ra nó hay không. Một con người không thể thay đổi thế giới, nhưng bạn và tôi có thể cùng nhau thay đổi thế giới. Bạn và tôi phải tìm ra sự thật là gì; bởi vì chính sự thật mới làm tan biến những phiền muộn, những đau khổ của thế giới.
Vào
tháng giêng năm 1950, lần đầu tiên nói chuyện ở
Bạn có ý tạo ra một thay đổi trong thế giới, một điều chỉnh kinh tế tốt đẹp hơn, một phân phối của cải cân bằng hơn, một sự liên hệ thân thiện hơn – hay giải thích nó một cách tàn nhẫn hơn, giúp đỡ bạn có một công việc tốt hơn. Bạn muốn thấy một thay đổi trong thế giới, mọi con người thông minh đều muốn: và bạn muốn một phương pháp để tạo ra sự thay đổi đó, và vì vậy bạn hỏi tôi tại sao tôi lãng phí thời gian để giảng thuyết thay vì làm cái gì đó về nó. Bây giờ, điều gì tôi thực sự đang làm là một lãng phí thời gian? Nó sẽ là một lãng phí thời gian, phải vậy không, nếu tôi giới thiệu một bộ của những ý tưởng mới để thay thế học thuyết cũ, khuôn mẫu cũ. Thay vì đưa ra một phương pháp tạm gọi là thực tế để hành động, để sống, để có một công việc tốt hơn, để tạo ra một thế giới tốt lành hơn, liệu không quan trọng phải tìm ra điều gì là những cản trở mà thực sự ngăn cản một cách mạng cơ bản – không phải một cách mạng của phe tả hay phe hữu, nhưng một cách mạng triệt để, tận gốc không bị đặt nền tảng trên những ý tưởng? Bởi vì, như chúng ta đã bàn luận nó, những lý tưởng, những niềm tin, những học thuyết, những tín điều ngăn cản hành động.
Tại Ojai, vào tháng tám năm1950, K quyết định ẩn dật một năm. Cùng việc không tổ chức nói chuyện, anh cũng không thực hiện những phỏng vấn, và dành hầu hết thời gian cho những chuyến dạo bộ một mình, thiền định và ‘đi lang thang trong vườn’, như anh kể cho Lady Emily. Vào mùa đông năm 1951 anh quay lại Ấn độ lần nữa, lần này cùng Rajagopal mà đã không ở đó được mười bốn năm rồi, nhưng anh vẫn còn bán-ẩn dật và không tổ chức những nói chuyện và rất khép kín. Dường như anh đang nhìn vào chính anh tại tất cả thời gian này.
Điều tốt lành nhất đã xảy ra cho K ở
bên ngoài vào đầu những năm 1950 là sự hình thành một tình bằng hữu gần gũi
cùng Scaravelli, sinh ở Pasigli, người anh đã gặp ở Rome năm 1937. Sau khi ở
hai ngày cùng bà và chồng bà ở
Tháng năm 1954, K nói chuyện và tổ
chức những bàn luận trong một tuần lễ ở
K không bao giờ đề cập một quyển sách đã xuất bản của anh trong bất kỳ lá thư nào viết cho Lady Emily, mặc dù vào những năm 1930 anh đã đề cập việc sửa chữa lại những nói chuyện của anh mà đã từ lâu anh không còn làm nữa. K không quan tâm đến tất cả những tác phẩm được xuất bản riêng của anh ngoại trừ, thỉnh thoảng, gợi ý một đầu đề cho một quyển sách khi được khẩn khoản yêu cầu. Sự mất đi trí nhớ của anh có phải vì rằng anh không bao giờ suy nghĩ lại bất kỳ điều gì khi nó đã qua rồi?
Sau một mùa đông nói chuyện nữa ở Ấn
độ, từ tháng mười 1954 đến tháng tư 1955, được theo cùng bởi Rajagopal, và một
viếng thăm IL Leccio và những nói chuyện ở Amsterdam, K đến London vào tháng
sáu, nơi anh nói chuyện sáu lần tại Friends’ Meeting House. (Khi anh ở London
lúc này anh ở với Mrs Jean Bindley, một người bạn cũ từ những ngày xa xưa của
Star, bởi vì Lady Emily đã chuyển vào một căn hộ nhỏ và không còn đủ chỗ nghỉ
ngơi cho anh; dẫu vậy, anh gặp bà mỗi ngày.) Trong lần nói chuyện thứ ba ở
Bạn sợ buông bỏ tất cả mọi thứ bạn đã biết . . . Bạn sợ buông bỏ tất cả mọi thứ, tổng thể, sâu thẳm, ngay tại những chiều sâu của thân tâm bạn, để ở cùng cái không biết được – mà rốt cuộc, là chết . . . Liệu bạn, mà là kết quả của cái đã được biết, có thể vào cái không biết được mà là chết? Nếu bạn muốn thực hiện nó, chắc chắn, nó phải được thực hiện trong khi đang sống, không phải tại khoảnh khắc cuối cùng . . . Trong khi đang sống, vào ngôi nhà của chết không phải là một ý tưởng không lành mạnh; nó là một giải pháp duy nhất. Trong khi đang sống một cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ – dù nó là như thế nào – hay trong khi đang sống một cuộc sống đau khổ, bần cùng, liệu chúng ta không thể biết cái không thể đo lường được, cái chỉ thoáng hiện mang máng bởi người trải nghiệm trong những khoảnh khắc hiếm hoi? . . . Cái trí có thể chết đi từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mọi thứ mà nó trải nghiệm, và không bao giờ tích lũy?
K sẽ diễn tả đơn giản hơn cùng ý tưởng đó trong tập hai của quyển
Commentaries on Living (1959): ‘Rất cần thiết phải chết đi mỗi ngày, chết đi từng phút đối với mọi thứ, đối với nhiều ngày hôm qua và đối với khoảnh khắc vừa trôi qua! Nếu không có chết không có mới mẻ lại, nếu không có chết không có sáng tạo. Gánh nặng của quá khứ gây ra sự tiếp tục riêng của nó, và những lo âu của hôm qua cho sự sống mới của nó vào những lo âu của hôm nay.’
K đến nhiều nơi trong suốt hai năm kế tiếp ngoại trừ
Ojai, Ấn độ và Anh, trong tất cả những nơi đó anh đều tổ chức những nói chuyện
trước công chúng và những phỏng vấn riêng, thực hiện những họp mặt và những bàn
luận nhóm – Sydney, Alexandria, Athens, Hamburg, Holland and Brussels. Anh trải
qua nguyên tháng sáu 1956 cùng một người bạn Bỉ, Robert Linnsen, tại biệt thự
của ông ấy gần Brussels. Monsieur Linnsen sắp xếp sáu nói chuyện cho anh tại
Palais des Beaux – Arts ở
Mùa đông năm 1956 – 1957 K ở Ấn độ cùng Rajagopal và Rosalind, đi từ nơi này đến nơi kia cùng họ và nhóm người theo sau ở Ấn độ của anh. Năm 1956 Dalai Lama, Tenzin Gyatso, nhận một lời mời viếng Ấn độ và thăm những nơi thiêng liêng có liên quan đến Phật. Đó là lần đầu tiên bất kỳ Dalai Lama nào đã rời Tây tạng và ba năm trước khi Dalai chạy trốn sang Ấn độ khi Trung quốc đe dọa mạng sống của ngài. Một viên chức chính trị từ Sikkhim, Apa Sahib Pant, người theo cùng Dalai và những người tùy tùng trong một chuyến xe lửa đặc biệt, kể với ngài về Krishnamurti và bản chất lời giảng của anh. Vào tháng mười hai, khi Dalai Lama đến Madras và nghe rằng Krishnamurti đang ở tại Vasanta Vihar, ngài quả quyết gặp anh, mặc dù điều đó đi ngược lại mọi qui tắc ngoại giao. Theo Apa Sahib, như được kể lại bởi Pupul Jayakar, “Krishnaji tiếp ngài rất đơn giản. Thật là ngoạn mục khi cảm thấy sự quý mến như điện xẹt tức khắc lóe sáng giữa họ.” Dalai Lama hỏi hòa nhã nhưng thẳng thắn, “Thưa Ngài, ngài tin tưởng điều gì?” Và sau đó cuộc nói chuyện tiếp tục trong những câu hầu như vỏn vẹn có một âm như thể nó là một nói chuyện không văn chương. Lama trẻ tuổi đang cảm thấy trên nền tảng thân thuộc khi Krishnaji chuyển ngài thành “đồng-trải nghiệm”. Dalai Lama sẽ nói sau đó, ‘Một linh hồn vĩ đại, một trải nghiệm vĩ đại’, và bày tỏ ước muốn gặp lại Krishnamurti.48 Một gặp gỡ nữa giữa hai người không được sắp xếp mãi cho đến ngày 31 tháng mười 1984, ở Delhi, nhưng nó không bao giờ xảy ra bởi vì, vào ngay ngày đó, Mrs Gandhi bị ám sát.
Tháng giêng 1957, ở Colombo, chính phủ Sri Lanka cho
phép năm trong những nói chuyện trước công chúng của K được phát thanh, mà
dường như quá lạ thường với K bởi vì họ đang cố gắng phản đối. Sau một nói
chuyện cuối cùng ở
Ngày 6 tháng ba từ Bombay K đi máy
bay đến Rome cùng Rajagopal và từ đó anh đến IL Leccio nơi anh đã lên kế hoạch
ở đó đến cuối tháng trước khi tiếp tục đến Helsinki cùng Rajgopal cho một họp
mặt. Anh đã bị bệnh khá nặng ở Ấn độ và đột ngột hủy bỏ không chỉ Helsinki
nhưng toàn bộ chương trình nói chuyện tương lai ở London, Biarritz, Ojai, New
Zealand và Úc. Anh tiếp tục ở lại IL Leccio trong nhiều tuần lễ, không làm gì
cả, ngay cả viết một lá thư. (Chồng của Vanda Scaravelli chết ở
Ngày 11 tháng sáu K cùng Rajagopal
tiếp tục chuyển đến khách sạn Montesano tại Villars nơi lần đầu tiên K ở cùng
Nitya vào năm 1921. Sau mười lăm ngày ở đó Rajagopal quay lại Ojai, để lại K
một mình với chỉ vỏn vẹn vừa đủ tiền trả khách sạn. Chắc chắn đã có loại khủng
hoảng nào đó trong sự liên hệ của họ. Sự căng thẳng giữa họ đã và đang nhiều
thêm từ khi K ở Ấn độ trở về vào năm 1949. Sự mong manh của một liên hệ gay gắt
này được phơi bày khi Rajagopal, mà không tin rằng K thực sự bị bệnh tại IL
Leccio, và đã thực hiện tất cả những sắp xếp cho những chuyến đi của anh, bỗng
nhiên phải hủy bỏ mọi thứ. Dường như anh ấy đã bảo với K tại Villars rằng anh
ấy mệt mỏi vì là người sắp xếp những chuyến đi của anh và trong tương lai những
sắp xếp của anh ấy có thể được thực hiện bởi Miss Doris Pratt, thư ký của KWINC
ở London, người đã làm việc cho K từ đầu những ngày ở Ommen. Những chi phí ở
Những chuyện đã xảy ra giữa K và Rajagopal đã khiến K không muốn quay lại Ojai. Khi rời K tại Villars, Rajgopal đã nói với anh rằng anh sẽ học cô đơn có nghĩa gì. Nhưng K không bao giờ cô đơn. Anh ở lại Villars nguyên một tháng, hạnh phúc tuyệt vời. Anh viết cho Lady Emily: ‘Con đang ẩn dật. Con không gặp ai cả và nói chuyện duy nhất là với người hầu bàn. Thật lạ thường khi không làm gì cả nhưng lại làm những việc khác. Có những chuyến dạo bộ tuyệt vời ở đây và hầu như chẳng có ai theo cùng. Làm ơn đừng nói con ở đâu cho bất kỳ ai.’ Qua câu ‘làm những việc khác’ anh có ý nói sự thiền định mà diễn tiến mãnh liệt bên trong anh bất kỳ khi nào anh yên lặng, chuyển động vào anh mỗi lúc một sâu hơn. Doris Pratt biết anh ở đâu. Cô chuyển tiếp những lá thư đến anh và anh hoàn lại sau khi đọc chúng, bảo với cô rằng anh sẽ không trả lời bất kỳ lá thư nào bởi vì anh muốn ‘một nghỉ ngơi trọn vẹn và lâu mặc dù tôi đang khỏe’. Anh gửi cô những chỉ dẫn về cách trả lời họ mà cô không cần phải đọc chúng.
Ngày 20 tháng bảy Leon de Vidas và vợ của ông, người K
đã biết trong một thời gian (ông ấy có một công ty dệt ở Paris), bằng cách nào
đó tìm thấy K tại Villars không có đồng nào và đưa anh về nhà của họ ở
Dordogne. (K đáng ra có thể yêu cầu Rajagopal gửi tiền cho anh nhưng chắc chắn
anh không muốn liên lạc với anh ấy, và lại không thể gửi tiền từ nước Anh bởi
vì những quy định về trao đổi tiền tệ.) K ở
Lần cuối cùng Rajagopal đi cùng K
đến Ấn độ nhưng chỉ ở đến tháng giêng 1958. K vẫn còn ẩn dật đến tháng chín,
đầu tiên tại
Nóng rất gay gắt ở Delhi, nơi K đang
tổ chức nói chuyện vào đầu năm 1959 và như thường lệ ở lại đó cùng người bạn cũ
Shiva Rao, một căn nhà được dành cho anh vào tháng ba tại Srinagar ở Kashmir,
nhưng khi người ta phát giác nó bẩn thỉu và có nhiều chuột anh liền được chuyển
đến Pahalgam, một thung lũng ở Kashmir cao trên mực nước biển 7.200 feet, nơi
anh ở trong một căn nhà của chính phủ, ‘không sang trọng gì cả,’ như anh kể cho
Lady Emily, ‘nhưng vùng chung quanh lại tuyệt vời, những đỉnh núi tuyết và hàng
dặm rừng thông’. Pupul Jayakar và Madhvachari đã ở cùng anh tại
Rajagopal không biết gì về kế hoạch
của anh cho đến khi anh ấy nhận một lá thư từ anh nói rằng anh sẽ ở tại IL
Leccio vài tuần lễ và sau đó vào dưỡng đường Bircher – Benner ở
K nhập viện vào ngày 11 tháng tư nơi anh bị thực hiện công việc ăn kiêng rất nghiêm ngặt, và ở lại đó cho đến ngày 1 tháng năm rồi đi máy bay đến London trên đường về Mỹ. Doris Pratt, người gặp anh tại Heathrow, choáng váng khi trông thấy anh bị hốc hác đến chừng nào. Anh phải đặt đóng đôi giầy mới bởi vì bàn chân của anh lúc này quá nhỏ. Dù bị yếu ớt như thế, ‘anh dứt khoát từ chối đi máy bay hạng nhất’, Doris Pratt viết cho Rajagopal; và lại nữa, vào ngày anh rời London, cô viết: ‘tôi phải nói cho ông, rất, rất riêng tư, rằng tôi cảm thấy K đang bị bệnh rất nặng và không ở trong tình trạng sức khỏe phù hợp để tổ chức những nói chuyện tại Ojai, nhưng dường như anh quyết định thực hiện việc đó . . . Người ta nói rằng anh gần chết ở Delhi và tôi có thể tin điều đó do thể trạng anh lúc này. Tôi nghĩ rất quan trọng phải chăm sóc anh kỹ càng, dịu dàng và chu đáo tại Ojai.’49
Anh cắt ngang chuyến đi ở
Người ta có thể thông cảm với Rajagopal khi K, đã quả quyết nói chuyện tại Ojai, và đã cam kết thực hiện tám nói chuyện, lại tuyên bố tại nói chuyện lần thứ ba rằng anh chỉ có thể nói chuyện một lần nữa. (Nói chuyện lần thứ ba này là một lần tuyệt vời về chủ đề làm thế nào cái trí có thể được ‘chuyển thành hồn nhiên do chết đi cái đã được biết’ và nhu cầu cấp bách phải có một thay đổi cơ bản trong tinh thần của con người.) Rốt cuộc, sự hủy bỏ tám nói chuyện đã tạo ra một hoang mang và thất vọng vô cùng nơi những người đã đến từ rất xa để tham dự toàn bộ những nói chuyện. Rajagopal tức giận ghê lắm bởi vì, như anh kể cho Doris Pratt, K đã không hủy bỏ nó do bị bệnh nhưng chỉ bởi vì anh đã không có ‘đủ năng lượng’ để tiếp tục chúng nhưng tuy nhiên anh lại dành ra ‘ba ngày cho những phỏng vấn kéo dài nhiều tiếng đồng hồ’. Người ta thắc mắc không hiểu, khi nghĩ rằng K nói chuyện trước công chúng cũng dễ dàng như những phỏng vấn riêng, liệu Rajagopal có bất kỳ hiểu rõ nào về sống bên trong thực sự của K. Dường như quá rõ ràng rằng phải cần có một năng lượng đặc biệt để nói chuyện trước công chúng với một số đông khán giả.
K đã dự định trở lại dưỡng đường Bircher – Benner vào cuối tháng sáu nhưng tiếp tục trì hoãn sự khởi hành của anh, điều này cũng làm Rajagopal bực mình lắm. Lúc này anh không thực hiện phỏng vấn nữa và cũng không trả lời bất kỳ lá thư nào, ngay cả những lá thư từ Lady Emily và Vanda Scaravelli, vì vậy thư từ của anh đang chất đống. Cuối cùng anh tiếp tục ở lại mãi đến khi anh đi Ấn độ vào tháng mười một, mặc dù bầu không khí tại Arya Vihara chắc chắn phải bực bội lắm, bởi vì không chỉ có sự căng thẳng giữa anh và Rajagopal nhưng Rajagopal và Rosalind còn đang cãi cọ và chẳng bao lâu sau sẽ ly dị nhau.
K vẫn không cảm thấy khỏe để thực hiện những nói
chuyện ở Ấn độ; tuy nhiên, anh đã sẵn sàng nói chuyện trước những họp mặt ít
người. Chắc chắn từ Ấn độ anh đã viết cho Rajagopal yêu cầu anh ấy sắp xếp một
họp mặt cho anh ở nước Anh vào năm sau, bởi vì anh nhận được một điện tín: ‘Lúc
này theo cá nhân không thể sắp xếp bất kỳ công việc nào. Đã bàn bạc với Doris
Pratt mà sẽ giúp. Vui lòng viết cho cô ấy. Chúc mừng năm mới.’ Rajagopal đã
phủi sạch trách nhiệm của anh ấy với mọi công việc của K ở Châu âu. Khi gửi
điện tín này anh ấy đang ở
K nói chuyện với những nhóm nhỏ ở
New Delhi vào cuối năm 1960 và ở Bombay vào đầu năm 1961. Tại thời gian đó anh
quan tâm rất nhiều đến sự cấp bách phải có một thay đổi trong tinh thần của con
người và sự sáng tạo của một cái trí mới mẻ. Vào giữa tháng ba anh rời Ấn độ để
đi đến IL Leccio, nơi anh sống vài tuần lễ trước khi đến
Doris và Anneke, ở cùng anh tại
Wimbledon trong tám tuần lễ, rất lo lắng khi họ nghe anh gọi lớn tiếng trong
đêm và tại những bữa ăn thường xuyên làm rớt dao nĩa và có vẻ ‘bị chết đứng’ và
gần gần ngất xỉu.
Chính là vào ngày 18 tháng sáu, ngày
trước khi anh rời New York để đi máy bay đến Los Angeles, K bắt đầu viết một
chuyện kể lạ thường nhất về những trạng thái bên trong của ý thức anh. Được
viết bằng bút chì trong những quyển vở, không xóa một từ nào, anh tiếp tục ghi
chép hàng ngày này suốt bảy tháng. Trước kia anh không bao giờ ghi lại bất kỳ
điều gì và không nhớ điều gì đã thúc giục anh bắt đầu nó. Nó là quyển sách chi
tiết chính xác nhất mà nhờ đó chúng ta sẽ có được sự hiểu rõ về là anh ấy giống như thế nào. Nó phơi bày
những biến cố sống bên ngoài của anh chẳng có ảnh hưởng bao nhiêu đến con người
bên trong của anh.[2] Người ta chỉ cần tình cờ mở quyển sách
để bị sững sờ bởi một cảm giác kỳ diệu và huyền bí. Nó bắt đầu đột ngột: ‘Vào
chiều tối bỗng nhiên nó ở đó, tràn đầy căn phòng, một ý thức vô cùng của vẻ
đẹp, quyền năng và dịu dàng. Những người khác nhận thấy nó (những người bạn anh
đang sống chung ở
Mặc dù K vẫn còn ở Ojai mười chín ngày nữa, hàng ngày đều viết trong quyển vở, anh không đề cập bất kỳ điều gì anh làm ở đó ngoại trừ lần viếng nha sĩ khi ‘nó’ theo cùng anh khi đang ngồi trong cái ghế, và một dạo bộ khi ‘được vây quanh bởi những hòn núi đá, trơ trụi, màu tím này, bỗng nhiên có sự cô đơn; nó có sự phong phú không đáy; nó có vẻ đẹp đó mà vượt khỏi tư tưởng và cảm thấy . . . Nó một mình, độc nhất, không phải cô lập nhưng một mình, giống như một giọt nước chứa đựng tất cả nước của thế giới.’ Quyển Notebook Sổ tay này phải được đọc. Không công bằng khi trích dẫn ngẫu nhiên một đoạn văn nào. Nó là một tài liệu quý báu vô song, một trong những tác phẩm huyền bí vĩ đại của mọi thời đại mà chắc chắn ngày nào đó sẽ được công nhận nó là gì.
Khi anh ở Ojai, K nói với Rosalind rằng cô có thể sống
tại Arya Vihara đến hết đời. Cô vẫn còn điều hành trường
Sau khi đi máy bay suốt đêm đến London vào ngày 8 tháng bảy, ngày hôm sau K ghi lại trong nhật ký của anh:
. . . giữa tất cả sự ồn ào, khói thuốc lá và nói chuyện lớn tiếng, hầu như bất ngờ nhất, ý thức của bao la và phước lành lạ thường đó mà đã được cảm thấy tại IL L, sự cảm thấy sắp có của thiêng liêng, bắt đầu xảy ra. Thân thể căng cứng đầy lo lắng bởi vì đám đông, sự ồn ào vân vân nhưng bất kể như thế, nó ở đó. Áp lực & căng thẳng thật mãnh liệt & có đau đớn thật buốt tại phía sau bộ đầu. Chỉ có trạng thái này & không có người quan sát. Toàn thân thể hoàn toàn trong nó và sự cảm thấy của thiêng liêng mãnh liệt đến độ một tiếng rên thoát ra khỏi thân thể và những hành khách đang ngồi trong chỗ ngồi kế bên. Nó kéo dài suốt nhiều tiếng đồng hồ, muộn vào ban đêm. Nó như thể người ta đang nhìn, không chỉ bằng hai mắt nhưng còn cùng hàng ngàn thế kỷ; tất cả nó là một xảy ra lạ thường. Bộ não hoàn toàn trống không, mọi phản ứng đều ngừng lại; suốt tất cả những tiếng đồng hồ đó, người ta không nhận biết được trống không này nhưng chỉ trong khi viết nó là sự việc được biết, nhưng hiểu biết này chỉ là sự diễn tả và không là thực sự. Điều mà bộ não có thể tự làm trống không chính nó là một hiện tượng kỳ lạ. Khi hai mắt nhắm lại, bộ não dường như chìm ngập vào những chiều sâu không đáy, vào những trạng thái nhạy cảm và vẻ đẹp không thể tin được.
[1] Có một cây ilex sồi xanh trong vườn nên ngôi nhà lấy tên của nó.
[2] Nhật ký
này, dưới tựa đề Krishnamurti’s Notebook
Sổ tay của