- Lời Giớì Thiệu
- Lời Nói Đầu
- 1. Phẩm Phật Quốc
- 2. Phẩm Phương Tiện
- 3. Phẩm Đệ Tử
- 4. Phẩm Bồ Tát
- 5. Phẩm Văn Thù Sư Lợi
- 6. Phẩm Bất Tư Nghị
- 7. Phẩm Quán Chúng Sanh
- 8. Phẩm Phật Đạo
- 9. Phẩm Vào Pháp Môn Không Hai
- 10. Phẩm Phật Hương Tích
- 11. Phẩm Hạnh Bồ Tát
- 12. Phẩm Thấy Phật A Súc
- 13. Phẩm Pháp Cúng Dường
- 14. Phẩm Chúc Lụy
Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La
Thập
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng
Dương
Lịch 1970
X PHẨM PHẬT HƯƠNG TÍCH
Ông Xá Lợi Phất tâm nghĩ rằng : “Giờ ăn gần đến, các Bồ Tát đây sẽ thọ thực nơi đâu ?”.
Ông Duy Ma Cật biết ý đó bảo ngay rằng :
- Phật nói 8 món giải thoát, Nhân giã đã vâng làm,
đâu có xen cái tâm muốn ăn mà nghe pháp ư ? Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi
sẽ hiến Ngài bữa ăn chưa từng có. Ông Duy Ma Cật liền nhập chánh định, dùng sức
thần thông hiện bày cho đại chúng thấy rõ cảnh giới phương trên, qua khỏi 42 số
cát sông Hằng cõi Phật có nước tên là Chúng Hương, đức Phật hiệu là Hương Tích
nay vẫn hiện tại. Mùi hương ở nước ấy so với mùi hương của Trời, người và các
cõi Phật ở mười phương nó thơm hơn hết. Nước ấy không có tên Thanh Văn và Bích
Chi Phật, chỉ có chúng Đại Bồ Tát thanh tịnh được Phật nói pháp cho nghe. Nước
ấy tất cả đều dùng chất hương làm lầu các hoa viên, đi kinh hành trên đất
hương, mùi hương của cơm lan khắp 10 phương vô lượng thế giới.
Lúc đó Phật Hương Tích cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn, có các vị Thiên tử đồng tên là Hương Nghiêm đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cúng dường Phật và các Bồ Tát. Cả đại chúng bên cõi (Ta bà) này đều thấy rõ tận mặt.
Khi ấy ông Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng :
- Thưa các Nhân giả, vị nào có thể đến thỉnh cơm của
Phật kia được ?
Vì nương theo sức oai thần của Văn Thù Sư Lợi mà
các vị Bồ Tát thảy đều lặng thinh. Ông Duy Ma Cật nói rằng :
- Các Nhân giả không hổ thẹn sao ?
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói :
- Theo như lời Phật nói : “Chớ nên khinh người chưa
học”.
Khi đó ông Duy Ma Cật ngồi yên một chỗ, trước
chúng hội hóa ra một vị Bồ Tát tướng tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả đại
chúng. Ông bảo vị Hóa Bồ Tát ấy rằng :
- Ông hãy qua cảnh giới phương trên, khỏi 42 số cát
sông Hằng cõi Phật, có nước tên là Chúng Hương, Phật hiệu là Hương Tích và các
Bồ Tát đang ngồi ăn, ông qua đó y theo lời tôi mà thưa rằng : “Duy Ma Cật xin
cúi đầu lễ dưới chơn Thế Tôn, cung kính không cùng và thăm hỏi Thế Tôn hằng
ngày khởi cư ít bịnh, ít não, sức khỏe được an chăng? Nguyện được món cơm thừa
của Thế Tôn đem về cõi Ta bà làm việc Phật, để cho những người ưa pháp nhỏ được
pháp lớn và để cho tiếng tăm của Như Lai được khắp tất cả”.
Lúc đó Hóa Bồ Tát liền ở trước hội bay lên phương trên, cả đại chúng đều thấy Hóa Bồ Tát ấy đi đến nước Chúng Hương lễ dưới chơn Phật và nghe tiếng thưa rằng : “Duy Ma Cật xin cúi đầu lễ dưới chơn Thế Tôn, cung kính không cùng và thăm hỏi Thế Tôn hằng ngày khởi cư ít bịnh, ít não, sức khỏe được an chăng? Nguyện được món cơm thừa của Thế Tôn đem về cõi Ta bà làm việc Phật, để cho những người ưa pháp nhỏ được pháp lớn và để cho tiếng tăm của Như Lai được khắp tất cả”.
Các Đại Sĩ nước Chúng Hương thấy vị Hóa Bồ Tát đều ngợi khen chưa từng có và nghĩ rằng : “Thượng nhơn này từ đâu mà đến? Cõi Ta bà ở đâu? Sao gọi là ưa pháp nhỏ. Liền đem việc ấy hỏi Phật”.
Phật bảo rằng :
- Phương dưới, qua khỏi 42 số cát sông Hằng cõi Phật,
có cõi nước tên là Ta bà, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, nay hiện tại ở đời ác
năm trược vì những chúng sanh ưa pháp nhỏ mà diễn nói đạo giáo. Cõi Ta bà có Bồ
Tát tên Duy Ma Cật ở cảnh giới giải thoát bất khả tư nghị đang nói pháp cho các
vị Bồ Tát, nên sai vị Hóa Bồ Tát này đến khen ngợi danh hiệu Ta và tán thán cõi
này để làm cho các Bồ Tát kia được thêm nhiều công đức.
Các Bồ Tát nước Chúng Hương thưa rằng :
- Vị đó như thế nào mà biến hiện ra vị Hóa Bồ Tát này
có đức lực vô úy, thần túc như thế ?
Phật nói :
- Thật lớn. Ông thường sai Hóa Bồ Tát đi đến khắp
mười phương làm việc Phật, lợi ích chúng sanh.
Khi đó Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng
Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ Tát. Bấy giờ chín trăm vạn Bồ Tát ở
nước Chúng Hương đồng thanh thưa rằng :
- Chúng con muốn đến cõi Ta bà để cúng dường Phật
Thích Ca Mâu Ni và ra mắt ông Duy Ma Cật cùng các hàng Bồ Tát.
Phật bảo :
- Được, nên đi. Nhưng phải giữ thân hương của các
ông, chớ để cho chúng sanh cõi kia sanh tâm mê đắm, và phải bỏ hình thể cũ của
các ông, chớ để những người cầu đạo Bồ Tát ở nuớc kia phải tự hổ thẹn. Các ông
đến cõi Ta bà chớ đem lòng khinh chê mà tâm có ngại. Vì sao ? Mười phương cõi
nước đều như hư không, Chư Phật vì muốn hóa dộ những người ưa pháp nhỏ nên
không hiện ra toàn cõi thanh tịnh.
Khi ấy, Hóa Bồ Tát đã lãnh bát cơm rồi, cùng với chín trăm vạn Bồ Tát thừa oai thần của Phật và thần lực của ông Duy Ma Cật đang ở nước Chúng Hương bỗng nhiên biến mất, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma Cật.
Lúc ấy, ông Duy Ma Cật hóa ra chín trăm vạn tòa sư tử trang nghiêm tốt đẹp như trước, các Bồ Tát đều đến ngồi nơi tòa ấy. Hóa Bồ Tát liền đem cái bát đựng đầy cơm thơm dâng lên cho ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Da Ly và cõi tam thiên đại thiên thế giới.
Lúc đó trong thành Tỳ Da Ly, các Bà la môn, cư sĩ nghe mùi hương này, thân tâm thư thới ngợi khen chưa từng có. Khi ấy Trưởng giả chủ(1) Nguyệt Cái đem theo tám vạn bốn nghìn người đi dến nhà ông Duy Ma Cật, thấy trong nhà các Bồ Tát rất đông và những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm ai nấy thảy đều vui mừng, đảnh lễ các Bồ Tát và đại đệ tử rồi đứng qua một phía. Các vị thần ở đất, thần ở hư không và các vị trời ở cõi Dục, cõi Sắc nghe mùi thơm này cùng đều đến nhà ông Duy Ma Cật.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo ông Xá Lợi Phất và các
vị Đại Thanh Văn rằng :
- Này các Nhân giả, dùng cơm vị cam lồ của Như Laì do
đại bi huân tập, đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thời không tiêu được.
Có các Thanh Văn khác nghĩ rằng : “Cơm này ít lắm mà đại chúng người nào cũng phải ăn !”.
Hóa Bồ Tát nói :
- Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà đo lường
phúc tuệ vô lượng của Như Lai. Bốn bể còn có thể cạn, chớ cơm này không khi nào
hết. Dẫu cho tất cả ngươi đều ăn mỗi vắt lớn như núi Tu di cho đến một kiếp
cũng không hết được. Vì sao ? – Vì là món ăn dư của đấng đầy đủ công đức, vô
tận giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, không bao giờ hết
được.
Khi đó, với bát cơm ấy chúng hội đều no đủ mà cũng vẫn còn. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, người ăn cơm đó rồi thân thể nhẹ nhàng vui vẻ ví như các Bồ Tát ở cõi nước Nhứt thiết lạc trang nghiêm, và các lỗ chưn lông thoảng ra mùi hương bát ngát cũng như mùi hương các cây ở nước Chúng Hương.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi các vị Bồ Tát ở nước
Chúng Hương rằng:
- Phật Hưong Tích lấy chi để nói pháp ?
Các Bồ Tát kia đáp :
- Phật cõi tôi không dùng văn tự để nói, chỉ dùng các
mùi hương làm cho các Trời, người được luật hạnh. Các Bồ Tát đều ngồi dưới cây
hương, nghe mùi hương mầu nhiệm ấy đều được tam muội Nhứt thiết đức tạng. Được
tam muội ấy đều được đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát.
Các Bồ Tát kia hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Còn Phật Thích Ca Mâu Ni lấy gì để nói pháp ?
Ông Duy Ma Cật nói :
- Chúng sanh cõi này cang cường khó giáo hóa, cho nên
Phật nói những lời cang cường để điều phục họ. Nói đó là địa ngục; đó là súc
sanh; đó là ngạ quỉ; đó là chỗ nạn; đó là chỗ người ngu sanh; đó là thân làm
việc tà; đó là quả báo của thân làm việc tà; đó là miệng làm việc tà; đó là quả
báo của miệng làm việc tà; đó là ý làm việc tà, đó là quả báo của ý làm việc
tà; đó là sát sanh, đó là quả báo của sát sanh; đó là không cho mà lấy; đó là
quả báo của không cho mà lấy; đó là tà dâm, đó là quả báo của tà dâm; đó là
vọng ngữ, đó là quả báo của vọng ngữ; đó là hai lưỡi, đó là quả báo của hai
lưỡi; đó là lời nói ác, đó là quả báo của lời nói ác; đó là lời nói vô nghĩa,
đó là quả báo của lời nói vô nghĩa; đó là tham lam, ganh ghét, đó là quả báo
của tham lam, ganh ghét; đó là tức giận, đó là quả báo của tức giận; đó là tà
kiến, đó là quả báo của tà kiến; đó là bỏn sẻn, đó là quả báo của bỏn sẻn; đó
là phá giới, đó là quả báo của phá giới; đó là giận hờn, đó là quả báo của giận
hờn; đó là lười biếng, đó là quả báo của lười biếng; đó là ý tán loạn, đó là
quả báo của ý tán loạn; đó là ngu si, đó là quả báo của ngu si; đó là kiết
giới, đó là giữ giới, đó là phạm giới; đó là nên làm, đó là không nên làm; đó
là chướng ngại, đó là không chướng ngại; đó là mắc tội, đó là khỏi tội; đó là
tịnh, đó là nhơ; đó là hữu lậu, đó là vô lậu; đó là tà đạo, đó là chánh đạo; đó
là hữu vi, đó là vô vi; đó là thế gian, đó là Niết bàn, vì những người khó giáo
hóa lòng như khỉ vượn, nên dùng bao nhiêu pháp để chế ngự lòng họ, mới có thể
điều phục được. Ví như voi, ngựa ngang trái không diễu phục được, phải thêm
đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương rối mới điều phục được. Chúng sanh cang
cường khó giáo hóa cũng thế, nên phải dùng tất cả những lời khổ thiết mới có
thể đưa họ vào khuôn khổ (luật hạnh).
Các Bồ Tát nước Chúng Hương kia nghe rồi nói rằng
:
- Thật chưa từng có ! Như Phật Thích Ca Mâu Ni Thế
Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng những phương pháp sở thích của
người nghèo hèn để độ thoát chúng sanh. Các Bồ Tát đây cũng chịu khổ sở, nhún
nhường, dùng lòng đại bi vô lượng để sanh vào cõi Phật này.
Ông Duy Ma Cật nói :
- Bồ Tát ở cõi này đối với chúng sanh, lòng đại bi
bền chắc thật đúng như lời các Ngài đã ngợi khen. Mà Bồ Tát ở cõi này lợi ích
cho chúng sanh trong một đời còn hơn trăm nghìn kiếp tu hành ở cõi nước khác.
Vì sao ? Vì cõi Ta bà này có mười điều lành mà các Tịnh độ khác không có. Thế
nào là mười ? 1) Dùng bố thí để nhiếp độ kẻ nghèo nàn; 2) Dùng tịnh giới để
nhiếp độ người phá giới; 3) Dùng nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ; 4) Dùng tinh
tấn để nhiếp độ kẻ giải đãi; 5) Dùng thiền định để nhiếp độ kẻ loạn ý; 6) Dùng
trí tuệ để nhiếp độ kẻ ngu si; 7) Nói pháp trừ nạn để độ kẻ bị tám nạn; 8) Dùng
pháp đại thừa để độ kẻ ưa pháp tiểu thừa; 9) Dùng các pháp lành để cứu tế người
không đức; 10) Thường dùng tứ nhiếp để thành tựu chúng sanh.
Các Bồ Tát kia hỏi :
- Bồ Tát phải thành tựu mấy pháp ở nơi cõi này làm
không lầm lỗi, được sanh về cõi Tịnh độ ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Bồ Tát thành tựu 8 pháp thời ở cõi này làm không
lầm lỗi, được sanh về cõi Tịnh độ – Tám pháp là gi ? 1.- Lợi ích chúng sanh mà
không mong báo đáp. 2.- Thay thế tất cả chúng sanh chịu mọi điều khổ não. 3.-
Bao nhiêu công đức mình làm đều ban cho tất cả chúng sanh. 4.- Lòng bình đẳng
đối với chúng sanh khiêm nhường không ngại, đối với Bồ Tát xem như Phật. 5.- Những
kinh chưa nghe, nghe không nghi. 6.- Không chống trái với hàng Thanh Văn. 7.-
Thấy người được cúng dường cũng không tật đố, không khoe những lợi lộc của
mình, ở nơi đó mà điều phục tâm mình. 8.- Thường xét lỗi mình, không nói đến
lỗi của người, hằng nhứt tâm cầu các công đức.
Ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù Sư Lợi nói pháp này rồi, ở trong đại chúng có cả trăm nghìn Trời, người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mười nghìn Bồ Tát chứng đặng Vô sanh pháp nhẫn.
Chú thích
của phẩm X
1. Trưởng giả chủ : Vị trưởng giả này được công
chúng suy tôn làm chủ tể quản trị trong nuớc. Theo ngài Tăng Triệu giải : vì ở
thời kỳ đó trong nước không có vua chúa, nên 500 vị trưởng giả kia mới suy tôn
ông Nguyệt Cái làm chủ trong nước, nên gọi là Trưởng giả chủ.