KINH ĐẠI
THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Thích Nữ Trí Hải
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà.
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546
QUYỂN
MỘT
VUA
LĂNG GIÀ THƯA HỎI
Như vậy tôi nghe, vào thời gian Phật cùng chúng đại tỳ kheo và đại Bồ Tát ở trong
thành Lăng Già trên đỉnh núi Ma La Dà bên biển lớn. Các vị này đều đã thông đạt
năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, hiểu rõ nghĩa cảnh giới do tự tâm
hiện, dạo chơi trong vô số tam muội, tự tại, mười lực và sáu thần thông. Tuy
hiện đủ loại hình và phương tiện để điều phục chúng sanh, kỳ thực các Ngài xuất
thân từ các cõi Phật, được chư Phật lấy nước cam lộ rưới đầu. Bồ Tát Đại Huệ là
bậc thượng thủ.
Bấy
giờ đức Thế Tôn thuyết pháp trong cung vua rồng biển đã quá bảy ngày. Ngài từ
trong biển lớn đi ra, có vô lượng trời rồng, Phạm Vương, Đế Thích – những vị hộ
trì thế gian cung đón. Đức Như Lai đưa mắt nhìn thành Lăng Già trên đỉnh Ma La
Dà sơn, mỉm cười nói : “ Các bậc Ứng chính đẳng giác ngày xưa cũng đều ở trong
thành này diển nói pháp mà thánh trí đã chứng. Đó không phải cảnh giới ngoại
đạo có thể suy lường, không phải cảnh giới của Thanh Văn Duyên Giác. Nay Như
Lai cũng khai thị pháp này cho La Bà Vương (Ràvana).” Khi ấy La Bà Na,
vua loài Dạ Xoa, nhờ thần lực Phật, nghe được âm thanh lời ngài, từ xa biết Như
Lai đã ra khỏi cung vua Rồng biển, có các vị hộ thế trời, rồng, Phạm Vương, Đế Thích
vây quanh. Nhìn sóng biển, Như Lai quán sát A Lại Gia thức của chúng sanh không
khác gì biển lớn bị gió hoàn cảnh thổi động, làm cho sóng thức nổi dậy. La Bà
Na lòng vui mừng nói : “ Ta hãy đến thỉnh đức Như Lai vào thành Lăng Già, để ta
cùng các loài trời, người trong đêm tối dài được lợi ích lớn.” Nói xong
cùng quyến thuộc đi xe hoa đến chổ Phật, đến nơi xuống xe nhiễu quanh Phật ba
vòng, trỗi các thứ âm nhạc để cúng dường Như Lai. Các nhạc khí đều nạm ngọc nhân
đà la màu xanh, ngọc lưu ly ..., được bọc trong các thượng y vô giá. Âm thanh
vi diệu mỹ lệ, tiết điệu hòa nhịp theo lời kệ ca ngợi Phật :
Tâm
Phật là kho tàng chân lý
Vô
ngã, lìa kiến chấp nhiễm ô
Nguyện
Phật vì chúng con diễn nói
Chỗ
sở tri thánh trí đã tường
Báo
thân do thiện pháp tích thành
Trí
giác ngộ nên thường an lạc
Ngưỡng
mong đấng Biến Hóa Tự Tại
Vào
thành Lăng Già diễn pháp sâu
Chư
Phật cùng Bồ Tát xưa lâu
Cũng
từng ở thành này nói pháp
Chúng
con loài dạ xoa hết thảy
Nguyện
một lòng nghe Pháp cao sâu.
La
Bà Na, chúa tể thành Lăng Già, sau khi đã ca bài tán Phật theo âm điệu Đô Ta Ka
(Totaka), còn hát bài tụng như sau :
Thế
Tôn trong bảy ngày
Ở
trong biển Ma Kiệt
Sau
ra khỏi Long cung
Ung
dung lên bờ này
Con
và các thể nữ
Cùng
quyến thuộc dạ xoa
Thân
dà, Xa Thích Na
Cùng
các vị thông tuệ
Đều
sẽ dùng thần lực
Mà
đến chỗ Như Lai
Lần
lượt xuống xe báu
Lễ
kính đức Thế Tôn
Lại
nhờ uy thần Phật
Trước
Phật xưng tên mình:
Con
là vua La Sát
La
Bà Na mười đầu
Nay
đi đến chỗ Phật
Xin
Phật thâu nhận con
Và
tất cả chúng sanh
Ở
trong thành Lăng Già
Vô
lượng Phật quá khứ
Đều
lên đỉnh núi báu
Trong
thành Lăng Già này
Mà
nói pháp sở chứng
Thế
Tôn cũng nên vậy
Ở
núi báu trang nghiêm
Chúng
Bồ Tát vây quanh
Xin
nói pháp thanh tịnh
Chúng
con nhân ngày nay
Cùng
chúng ở Lăng Già
Một
lòng cung kính nghe
Pháp
tự chứng ly ngôn
Con
nhớ đời quá khứ
Vô
Lượng các đức Phật
Có
Bồ Tát nhiễu quanh
Cũng
nói kinh Lăng Già
Kinh
nhập Lăng Già này
Phật
xưa đều khen ngợi
Nguyện
Phật nay cũng thế
Vì
chúng sinh khai diễn
Xin
Phật vì xót thương
Vô
lượng chúng Dạ Xoa
Hãy
vào thành nghiêm báu
Nói
pháp môn vi diệu
Thành
Lăng Già đẹp này
Trang
hoàng bằng châu báu
Vách
không bằng đất, đá
Lưới
giăng bằng trân bảo
Các
chúng Dạ Xoa đây
Xưa
từng cúng dường Phật
Tu
hành lìa các lỗi
Thường
rõ chỗ chứng tri
Các
dạ xoa nam nữ
Khao
khát pháp đại thừa
Tự
tin theo Pháp ấy
Và
thích khiến người tin
Nguyện
xin đấng Vô Thượng
Vì
các chúng La Sát
Và
quyến thuộc Lung Nhĩ
Mà
đến nơi thành này
Con
từ xưa đến nay
Siêng
cúng dường chư Phật
Nguyện
nghe pháp tự chứng
Đạo
đại thừa cứu cánh
Xin
Phật thương xót con
Và
các chúng Dạ Xoa
Cùng
các hàng con Phật
Mà
vào trong thành này
Đây
cung điện thể nữ
Và
các chuỗi anh lạc
Vườn
vô ưu khả ái
Xin
Phật thương nạp thọ
Để
phụng Phật, Bồ Tát
Không
gì con không xả
Ngay
cả đến thân này
Xin
Phật thương nạp thọ.
Đức
Thế Tôn nghe lời trên, liền dạy : “ Này Dạ Xoa vương, các đấng đại đạo sư đời
quá khứ đều thương xót ngươi, nhận lời thỉnh cầu của ngươi mà đến núi báu này,
nói pháp tự chứng. Chư Phật đời vị lai cũng thế. Đây là chỗ ở của những bậc tu
thiền quán sâu xa đã biến hiện ra pháp lạc. Ta và các Bồ Tát vì thương xót sẽ
nhận lời cầu thỉnh của ngươi.” Nói xong, Phật ngồi im lặng. Vua La Bà Na liền
đem xe kết hoa đẹp của mình để cúng Phật. Phật ngồi lên xe, vua và các Bồ Tát
tuần tự theo sau. Có vô lượng thể nữ ca hát tán thán để đón mừng Phật vào thành.
Sau khi vào thành, vua La Bà Na cùng quyến thuộc lại dùng các thứ vi diệu để
cúng dường. Đồng nam đồng nữ trong chúng Dạ Xoa lấy lưới báu cúng dường Phật,
vua La Bà Na cúng Phật và Bồ Tát các chuỗi anh lạc đeo cổ. Sau khi nhận các
phẩm vật cúng dường, chư vị Bồ Tát lần lượt nói cảnh giới cao thâm mà các ngài
đã thân chứng. La Bà Na vương và quyến thuộc lại cúng dường Bồ Tát Đại Huệ và
khuyến thỉnh như sau :
Tôi
và các đại sĩ
Muốn
hỏi đức Thế Tôn
Các
cảnh giới tự chứng
Của
tất cả Như Lai
Tôi
cùng chúng Dạ Xoa
Và
các Bồ Tát này
Một
lòng nguyện xin nghe
Nên
đồng thanh khuyến thỉnh
Ngài
là bậc tối thắng
Trong
các bậc tu hành
Và
thuyết pháp lợi sinh
Tôi
một lòng cung kỉnh
Xin
ngài vì chúng tôi
Mà
thỉnh vấn Như Lai
Pháp
tự chứng thanh tịnh
Cứu
cánh vào Phật địa
Lìa
tất cả lầm lỗi
Của
ngoại đạo, nhị thừa.
Bấy
giờ trong núi ấy, đức Thế Tôn dùng thần lực hóa ra muôn ngàn núi báu, lại dùng
trăm ngàn vạn ức báu vật của chư thiên mà trang hoàng. Trên đỉnh mỗi ngọn núi
đều có thân Phật hiện, trước mỗi thân Phật đều có vua La Bà Na và hội chúng.
Tất cả cõi nước trong mười phương đều xuất hiện, trong mỗi cõi nước đều có đức
Như Lai, trước mỗi đức Phật đều có vua La Bà Na cùng quyến thuộc, vườn A Du
Già, thành Lăng Già trang nghiêm... Mỗi nơi đều có Bồ Tát Đại Huệ thưa hỏi
Phật. Phật khai thị cảnh giới tự chứng cho chúng hội. Sau khi dùng muôn ngàn âm
thanh vi diệu đễ diễn nói kinh này, Phật cùng chúng Bồ Tát tan biến vào hư
không. Khi chỉ thấy còn lại một mình mình trong cung điện, vua La Bà Na nghĩ:
“vậy, người đang nhìn mọi sự đây là ai? Ai đã nghe thuyết pháp? Ai thấy? Thấy
gì? Phật và rừng núi báu trong thành biến đi đâu? Đấy là mộng chăng? Hay là ảo
giác? Hay cảnh biến hóa của loài càn thát bà? Hay vì ta nhặm mắt? Hay là nắng
quán đèn lòa? Đây là ảo mộng, như con của thạch nữ? Như ảo giác vòng lửa quay?”
Lại nghĩ: “Bản tính của vạn pháp đều như vậy, chỉ là cảnh giới do tự tâm phân
biệt. Kẻ phàm phu mê hoặc không thể hiểu thấu. Kỳ thực, không có thấy và bị
thấy, không người năng thuyết cũng không pháp sở thuyết. Thấy Phật nghe Pháp
đều là phân biệt. Những người thấy các pháp như trên không thể thấy được Phật,
không sinh phân biệt mới gọi là thấy Phật.” Khi ấy chúa tể thành Lăng Già bỗng nhiên
khai ngộ, lìa ô nhiễm của tự tâm, chứng được vạn pháp chỉ do tâm biến hiện; an
trú cảnh giới vô phân biệt. Nhờ những thiện căn đã trồng lâu xa về trước, ông
được cái thấy “như thật” đối với hết thảy pháp. Ông không còn lệ thuộc người
khác để giác ngộ, có thể dùng trí quán sát các pháp một cách sáng suốt, xa lìa
hết thảy ức đoán, tà giải, trở thành một bậc thầy trong các bậc đại tu hành. Có
năng lực một thân hiện ra nhiều thân, thấy suốt các phương tiện, biết rõ đặc
điểm từng giai đoạn tu hành (địa), thường ưa xa lìa tâm, ý, ý thức, cắt đức
bakiến “tương tục”, lìa chấp trước của ngoại đạo. Tự tâm ông biết mình đã vào
kho tàng Như Lai, hướng đến Phật địa. La Bà Na bỗng nghe giữa hư không trong cung
điện có tiếng nói: “Hay thay, đại vương ! Như chỗ ông đã học, các bậc tu hành
cũng học như thế, thấy như thế. Tất cả các đức Như Lai cũng thấy như thế. Nếu
thấy (các pháp) khác thế, là đoạn kiến. Ông phải xa lìa tâm, ý, ý thức, nên
siêng quán sát hết thảy các pháp, nên tu nội hạnh, chớ đắm trước ngoại cảnh,
chớ sa vào những pháp tu, những lối giải thích, những cảnh giới, những phép
định của nhị thừa ngoại đạo. Chớ ham thích bàn chơi, đàm tiếu, chớ khởi các
kiến chấp của phái Vi Đà (chấp tự ngã), chớ say đắm an nhàn của vương vị, chớ ở
trong những định thuộc về lục định v.v.. Làm như thế là thực hành hạnh của bậc
chân tu, có thể phá biện luận của người khác, có thể diệt trừ ác kiến, có thể
xả bỏ hết thảy ngã kiến chấp trước, có thể dùng diệu tuệ để chuyển thức sở y,
có thể tu đạo đại thừa của Bồ Tát, có thể thâm nhập cảnh giới tự chứng của Như
Lai. Ông nên siêng tu học thêm như vậy, để các pháp sở đắc càng thêm thanh
tịnh. Hãy khéo tu Tam Muội và Tam Ma Bát Để (samàpatti), chớ tham đắm
cảnh giới mà nhị thừa, ngoại đạo cho là vui thù thắng, vì phân biệt theo phàm
phu. Ngoại đạo chấp ngã kiến, có ngã tướng, vướng mắc Thật (dravya), Đức, (Cầu
Na, Guna). Nhị thừa thấy thật có “vô minh duyên hành” nên từ “tính không” sinh
loạn tưởng phân biệt. Lăng Già Vương, Pháp này là đạo đại thừa rất thù thắng,
có thể khiến ông thành tựu “Thánh Trí Tự Chứng”, được thọ đời tốt đẹp trong ba
cõi. Lăng Già Vương, các ngoại đạo chấp trước ngã, lập các dị luận, không thể
diễn nói xa lìa chấp trước, chỉ thấy nghĩa “hai” của thức tính. Hay thay, Lăng Già
Vương, hãy tư duy nghĩa này như ông tư duy, tư duy như thế chính là thấy Phật.”
Bấy
giờ Lăng Già Vương lại nghĩ: “Xin cho con lại được chiêm ngưỡng Như Lai. Như
Lai Thế Tôn vốn tự tại trong các phép quán, lìa pháp ngoại đạo, có thể diễn nói
cảnh giới của Thánh trí tự chứng, vượt ngoài ứng thân hóa thân, an trú trong
chính định của Như Lai, chứng nhập được pháp lạc tam muội. Ngài là đấng “Đại
Quán Hạnh Sư”, là đấng Đại Ai Mẫn, đã đốt hết lửa phiền não và phân biệt, được
các chúng Phật tư vây quanh, đấng hiểu thấu tâm chúng sinh, đấng Biến khắp các
cõi, đấng Nhất Thiết Trí, xa lìa hết thảy sự tướng phân biệt. Con nay xin được
thấy lại năng lực đại thần thông của Như Lai. Khi được thấy Như Lai, nguyện cho
con đạt được pháp chưa đạt, không thối chuyển pháp đã đạt, lìa các phân biệt,
an trú trong pháp lạc tam muội, tăng trưởng đầy đủ Như Lai trí.” Đức Phật biết
Lăng Già Vương sẽ chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn, vì thương xót nên lại thị hiện sắc
thân, biến mọi vật trở lại như trước. Vua mười đầu thấy lại những gì đã từng
thấy: rất nhiều sơn thành trang hoàng bằng đủ thứ châu báu, trong mỗi thành đều
có đức Phật 32 tướng nghiêm thân, lại tự thấy thân mình và Đại Huệ ở trước mỗi
đức Phật, có chúng Dạ Xoa vây quanh, đang nói các pháp sở hành của bậc Tự Chứng
Trí, lại thấy cõi nước của mười phương Phật. Tất cả các sự vật đều hiện như
trước không sai khác.
Bấy
giờ đức Thế Tôn từ xa dùng tuệ nhãn quan sát khắp hội chúng rồi bỗng vui mừng
cười lớn như sư tử vương. Từ giữa đôi lông mày, đùi vế, hông, lưng, cổ cho đến
từ vai, cánh tay, dấu chữ vạn, từ mỗi lỗ lông trên thân ngài, đều phóng muôn
vàn hào quang đẹp, như ráng cầu vồng, như tia mặt trời, lại như ngọn lửa mạnh
nổi lên vào thời kiếp tận. Lúc ấy trong hư không, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ
Thiên Vương từ xa cũng thấy Như Lai ngồi như núi Tu Di trên đỉnh Lăng Già sơn
vui mừng cười lớn. Chư Bồ Tát và các chúng loài trời đều nghĩ: “Như Lai Thế Tôn
vốn tự tại trước mọi pháp, nay bởi nhân duyên gì bỗng lại vui mừng cười lớn,
thân tỏa hào quang, lặng im không động, an trú trong cảnh tự chứng, nhập pháp
lạc tam muội, như sư tử vương nhìn quanh bốn hướng, nhìn La Bà Na, nghĩ đến các
pháp như thật?” Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ trước vì lời thỉnh của La Bà Na, sau vì
biết rõ tâm các Bồ Tát trong hội chúng, lại biết chúng sinh đời sau những kẻ
bám vào ngữ ngôn văn tự, ôm giữ hạnh nhị thừa ngoại đạo sẽ mê lầm nghĩ: “Thế
Tôn đã xa lìa cảnh giới của thức phân biệt, thế thì vì cớ gì mà vui mừng cười
lớn?” Chính vì muốn trừ nghi hoặc cho hạng này, nên Bồ Tát hỏi Phật. Phật đáp:
“Hay
thay, Đại Huệ! Hay thay, Đại Huệ ! Ông quán sát thế gian, vì thương xót chúng
sinh bị trói buộc trong các quan niệm sai lầm về ba đời quá khứ, hiện tại, vị
lai, muốn cho chúng sinh được khai ngộ mà hỏi ta. Những người trí thường đặt
câu hỏi vì lợi mình lợi người như vậy. Này Đại Huệ, Lăng Già Vương đây đã từng
hỏi tất cả các đức Như Lai trong quá khứ hai nghĩa Ứng Cúng và Chính Đẳng Giác
(A La Hán và Phật), nay cũng muốn hỏi, và trong đời vị lai cũng thế. Các chỗ khác
nhau giữa hai nghĩa ấy, hết thảy nhị thừa, ngoại đạo đều không thể suy lường.”
Đức Như Lai biết Lăng Già Vương muốn hỏi nghĩa này nên dạy:
Này
Lăng Già Vương, ông muốn hỏi gì cứ hỏi. Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông,
thỏa mãn mong cầu của ông, khiến ông hoan hỷ, có thể dùng trí tuệ tư duy quán
sát để lìa phân biệt, biết rõ các giai đoạn tu hành. Ông sẽ tu tập đối trị các
pháp, chứng nghĩa chân thật, nhập pháp lạc tam muội, được chư Phật nhiếp thọ,
an trú trong pháp lạc xa ma địa (samapatthi), xa lìa lỗi lầm của định nhị thừa,
an trú các cấp bực Bồ Tát: Bất Động, Thiện Huệ, Pháp Vân. Ông sẽ như thật rõ biết
các pháp vô ngã, sẽ được ngồi trong hoa sen báu, được chư Phật lấy nước tam
muội rưới đầu, được vô số Bồ Tát ở trong sen báu vây quanh, cùng chúng hội đều
hướng nhìn ông. Các cảnh giới như thế không thể nghĩ bàn. Ông sẽ sinh khởi các
hạnh Nhất hạnh và Nhất phương tiện. Ông quyết định sẽ đạt những điều bất tư
nghì như thế trong quả vị Như Lai, sẽ tùy cơ cảm chúng sinh mà ứng hiện thân
tướng. Những gì ông sẽ đạt, hàng nhị thừa, ngoại đạo, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ
Thiên Vương đều chưa từng thấy.
Được
Phật cho phép, Lăng Già Vương rời chỗ ngồi trên đỉnh núi báu thanh tịnh trang
nghiêm như hoa sen lớn đứng dậy, với chúng thể nữ vây quanh, hóa ra vô lượng
hoa đủ màu, các loại hương như hương bột, hương thoa, tràng phan, dù lọng,
quang bôi (?), anh lạc cùng các đồ trang sức thắng diệu khác thế gian chưa từng
nghe. Lại biến hóa ra rất nhiều nhạc khí mà dục giới có, các nhạc khí vượt hơn
nhạc khí cõi trời, rồng, nhạc thần, cùng hết thảy thế gian, các nhạc khí mà chư
Phật mười phương đều thấy. Lại hóa các lưới báu che khắp chư Phật, Bồ Tát. Lại
hiện các thứ y phục mỹ lệ, dựng tràng phan để cúng dường Như Lai. Xong La Bà Na
liền bay lên hư không cách bảy cây đa la, rưới xuống các lễ vật cúng dường,
trỗi nhạc, rồi từ trên không xuống, ngồi ở đỉnh núi sen báu tỏa ánh sáng như
mặt trời, vui mừng cung kính bạch: “Con nay muốn hỏi Như Lai hai nghĩa. Hai
nghĩa này con đã từng hỏi các đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác trong quá khứ.
Chư Phật xưa cũng đã nhận lời cầu thỉnh của con mà trình bày. Nay con muốn hỏi
lại nghĩa ấy, Xin đức Như Lai nói rõ cho con. Bạch Thế Tôn, hai nghĩa ấy được
các đức Như Lai biến hóa chứ không phải Phật căn bản (Phật Pháp Thân) tuyên
thuyết. Phật căn bản thì chỉ nói cảnh giới của pháp lạc tam muội chứ không nói
những cảnh giới do hư vọng phân biệt. Hay thay đức Thế Tôn tự tại đối với các pháp,
xin ngài rũ lòng thương xót nói hai nghĩa này, hết thảy hàng con Phật đều có
lòng muốn nghe.” Khi ấy đức Thế Tôn bảo vua:
Ông
cứ hỏi, ta sẽ nói cho.
Vua
Dạ Xoa liền mang thêm các thứ mũ báu và anh lạc, các đồ trang sức để trang
nghiêm thân rồi nói:
Như
Lai thường dạy: “Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp.” Bạch Thế Tôn, làm sao xả
hai thứ pháp ấy? Pháp là gì, phi pháp là gì? Làm sao có hai pháp để xả? Có hai
pháp tức đã sa vào tướng phân biệt giữa hữu thể và vô thể (svabhà và bhàva),
giữa thị và phi (abhautibhautika). Tất cả đấy đều là phân biệt, không thể biết
được tướng vô sai biệt của A Lại Da thức. Như khi thấy vòng lông (mao luân) trong
hư không mà cho có thật, (sự phân biệt) đó không phải là cảnh giới của tịnh
trí. Pháp tính vốn như vậy, làm sao có thể xả (pháp hay phi pháp) ?
Phật
dạy:
Lăng Già Vương, ông không thấy sự tán hoại vô thường của các vật như bình, v.v.. hay sao ? Phàm phu thấy những pháp ấy liền sinh phân biệt. Ông không biết sự khác nhau giữa pháp và phi pháp sao ? Đấy là do phàm phu phân biệt, không phải là cái thấy của bậc chứng trí. Phàm phu sa vào sự phân biệt tướng, các bậc đã chứng thì không thế. Này Lăng Già Vương, như khi thiêu đốt cung điện, vườn rừng, thấy các ngọn lửa, tính lửa vẫn là một, nhưng do sức cháy của các nơi phát ra ngọn lửa mà lửa có dài ngắn to nhỏ khác nhau. Sao ông không biết tướng sai biệt giữa pháp và phi pháp ? Này Lăng Già Vương, như một hạt giống sinh mộng, thân nhỏ, cành lá cho đến hoa quả, sai biệt vô cùng; ngoại pháp như thế, nội pháp cũng vậy. Do vô minh làm duyên sinh uẩn, giới, xứ cùng hết thảy pháp trong ba cõi, thọ sinh vào các đường, có khổ, lạc, tốt, xấu, nói, im, đi, nghỉ đều khác nhau. Lại như tướng của các thứ chỉ là một, song theo cảnh giới mà có trên, giữa, dưới, uế, sạch, thiện, ác v.v.. không đồng. Này Lăng Già Vương, không những các pháp như trên có sai biệt, mà các bậc tu hành khi tu quán hạnh cũng thấy trong các hạnh nội chứng của mình có các tướng sai biệt, huống chi pháp với phi pháp mà không phân biệt hay sao ? Này Lăng Già Vương, pháp cùng phi pháp khác nhau, nên biết đấy là do phân biệt các tướng mà ra. Lăng Già Vương ! Pháp là gì ? Ấy là những pháp mà nhị thừa ngoại đạo do hư vọng phân biệt cho là có, thật, làm nhân cho các pháp. Những pháp như vậy cần phải xa lìa, chớ nắm giữ tướng để sinh phân biệt, thấy các pháp do tự tâm biến mà cho là thật. Thấy được pháp tính của tự tâm, ấy gọi là không chấp trước. Các vật như cái bình v.v.. mà phàm phu chấp vốn không tự tính, những người tu quán hạnh lấy tỳ bát xá na (vipassana – quán) như thật quán sát, gọi là xả các pháp. Này Lăng Già Vương, phi pháp là sao ? Ấy là các pháp không có tự tính, không tướng, lìa phân biệt; người thấy như thật thì cảnh giới dù có dù không đều không khởi quan niệm, ấy gọi là xả phi pháp. Lại nữa, phi pháp ấy là như sừng thỏ, con của thạch nữ v.v.. đều không tính không tướng, không thể phân biệt, cần phải xa lìa. Phi pháp này tuy không tính không tướng, mà thế gian vẫn có danh từ, không phải như cái bình v.v.. có thể cầm nắm. Các pháp có tướng phân biệt như bình, và không tướng như lông rùa, đều phải xả bỏ, ấy gọi là xả pháp cùng xả phi pháp. Lăng Già Vương, những chỗ ông hỏi trước ta đã nói xong. Này Lăng Già Vương, cái quá khứ ông nói đó chỉ là phân biệt, vị lai cũng là phân biệt, vì Ta (hiện tại) cũng như các đức Như Lai kia. Lăng Già Vương, pháp của chư Phật nói đều xa lìa phân biệt, đã ra khỏi hết thảy hí luận, không như sắc tướng có thể phân biệt, chỉ có trí mới chứng nhập được mà thôi. Chính vì muốn cho chúng sinh an vui mà chư Như Lai mới diễn nói pháp, dùng trí vô tướng mà nói, gọi là Như Lai. Bởi đức Như Lai lấy trí làm thể, lấy trí làm thân, nên Như Lai không phân biệt cũng không thể bị phân biệt. Không thể lấy tướng ngã, nhân, chúng sinh... mà phân biệt Như Lai. Vì sao ? Bởi vì ý thức do cảnh mà khởi rồi bám lấy sắc, hình, tướng. Cho nên (Như Lai) xa lìa năng phân biệt cũng như sở phân biệt. Này Lăng Già Vương, thí như chúng sinh trong bức tranh màu trên vách không có giác tri, chúng sinh ở thế gian cũng vậy, không có nghiệp, báo. Pháp Phật cũng thế, không có nghe, không có nói. Này Lăng Già Vương, chúng sinh ở thế gian cũng như cảnh biến hóa, phàm phu ngoại đạo không thấu đạt nghĩa này. Lăng Già Vương, thấy được như thế gọi là chính kiến, thấy khác gọi là phân biệt kiến, vì phân biệt nên bám giữ nhị nghĩa. Lăng Già Vương này, ví như có người tự thấybóng mình trong gương nước, dưới ánh trăng, nghe tiếng mình âm hưởng trong hang núi, bèn sinh phân biệt mà khởi sự bám víu. Đây cũng vậy, pháp, phi pháp chỉ là phân biệt, vì phân biệt nên không thể xa lìa; chỉ tăng trưởng hư vọng, không được an tĩnh. An tĩnh ấy nghĩa là nhất duyên (ekàgra), nhất duyên ấy là tam muội tối thắng, từ đó có thể phát sinh Thánh Trí Tự Chứng, lấy Như Lai tạng làm cảnh giới.