KINH ĐẠI
THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Thích Nữ Trí Hải
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà.
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546
QUYỂN BA
CHƯƠNG II
TIẾT III – TU TẬP HẾT THẢY PHÁP
Bấy
giờ Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:
Bạch
Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói pháp môn tinh yếu của sự phân biệt ngôn
thuyết, để con và chư Bồ Tát đại hữu tình biết rõ điều ấy, thông đạt hai nghĩa
năng thuyết sở thuyết, mau thành Vô Thượng Bồ Đề, khiến các chúng sinh được
thanh tịnh đối với hai nghĩa ấy.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Có 4 thứ ngôn thuyết, ấy là: 1. Lời do tướng, 2. Lời do mộng,
3.
Lời do chấp trước lỗi lầm, 4. Lời do vô thỉ vọng tưởng. Đại Huệ !
Lời do tướng là lời nói do chấp văn tự và do phân biệt sắc tướng. Lời nói mộng
là lời nói do mộng thấy các cảnh, khi tỉnh nhớ lại, không theo cảnh thật có.
Lời do chấp trước lỗi lầm là nhớ lại oán thù và những việc đã làm, rồi nói. Lời
do vô thỉ vọng tưởng là lời nói do tập khí vọng chấp từ vô thỉ ưa hí luận. Đó
là 4 thứ ngôn thuyết.
Đại
Huệ bạch:
Bạch
Thế Tôn ! Xin vì con nói các hành tướng của ngôn ngữ ở nơi nào, vì duyên cớ gì,
tại sao khởi phân biệt?
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Do đầu, ngực, yết hầu, lỗ mũi, môi, răng, lưỡi hòa hiệp khởi ra lời nói.
Đại
Huệ:
Bạch
Thế Tôn ! Ngôn ngữ là khác (anyà) hay không khác (anayà) với phân biệt?
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Không khác cũng không không khác. Vì sao? Phân biệt làm nhân khởi ra ngôn
ngữ vậy. Nếu khác, thì lời nói không thể làm nhân cho ngôn ngữ; nhưng nếu không
khác, thì lời nói không thể diễn đạt ý nghĩa. Bởi thế mà nói không khác cũng
không không khác.
Đại
Huệ:
Bạch
Thế Tôn ! Lời nói là đệ nhất nghĩa, hay cái được diễn đạt bằng lời là đệ nhất
nghĩa?
Phật
dạy:
Không
phải lời cũng không phải cái được diễn bằng lời. Vì sao? Đệ nhất nghĩa là cảnh
giới an lạc của bậc thánh, không thể chỉ do lời nói mà vào được, cho nên lời
không phải là đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là cảnh mà Thánh Trí Tự Chứng ở bên
trong, không phải cảnh giới của lời và của trí phân biệt. Lời không thể chỉ rõ
cảnh giới ấy. Đại Huệ ! Lời nói là do nhân duyên sinh, có sinh diệt, giao động,
xoay chuyển, cái gì do duyên sinh và có xoay chuyển thì không thể làm rõ đệ nhất
nghĩa. Đệ nhất nghĩa không có tướng tự tha, ngôn ngữ có tướng nên không thể chỉ
rõ đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là chỉ có ở tự tâm, mọi tướng bên ngoài đều
không, nên ngôn ngữ phân biệt không thể chỉ rõ. Bởi thế, này Đại Huệ ! Ông nên
xa lìa ngôn ngữ phân biệt.
Bấy
giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Các
pháp không tự tính
Cũng
không có ngữ ngôn
Không
thấy nghĩa không không
Nên
ngu phu luân chuyển
Hết
thảy pháp không tính
Lìa
ngôn ngữ phân biệt
Các
hữu là như huyễn
Không
sinh tử, Niết Bàn
Như
vua cùng trưởng giả
Vì
khiến các con vui
Trước
chỉ các tương tự
Sau
cho cái như thật
Ta
nay cũng như thế
Trước
nói pháp tương tự
Về
sau mới tuyên bố
Pháp
tự chứng, thật tế.
Bồ
Tát Đại Huệ bạch:
Xin
Phật vì con nói nghĩa lìa nhất dị (ekatvànyatva), cùng không cùng
(ubhayanobhaya), hữu vô (nàstyastitva), phi hữu vô (naivàstinanàsti), thường vô
thường (nityànitya) v.v.. Những điều mà các ngoại đạo không thể nói, những cảnh
giới của Thánh Trí Tự Chứng. Khi hiểu được, con sẽ viễn ly vọng chấp tự tướng cọng
tướng, nhập cảnh giới chân thật đệ nhất nghĩa, tuần tự được các địa, vào
quả vị Như Lai. Do nguyện lực con sẽ không cần dụng công mà hiện khắp vô biên
cảnh giới như ngọc ma ni, vì liễu tri tất cả pháp đều do tự tâm phân biệt. Khi
được nghe Phật dạy, con và các Bồ Tát đối với những pháp ấy sẽ lìa chấp tự
tính, lìa các kiến chấp tự tướng cọng tướng, mau chứng Vô Thượng Bồ Đề, khiến
chúng sinh được đầy đủ các công đức.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Hay thay, lành thay ! Ông vì thương xót chúng sinh mà hỏi ta nghĩa ấy, vì
lợi ích nhiều người, vì an lạc nhiều người. Đại Huệ ! Kẻ phàm phu vô trí không
biết duy tâm, do tập quán hư vọng mà chấp ngoại vật, phân biệt các tính một,
khác, có, không, không có, thường, vô thường v.v... Đại Huệ ! Như con thú vì
cơn khát hành hạ, do bóng nắng mà tưởng tượng nước, mê hoặc chạy theo, không
biết đấy chẳng phải nước. Kẻ phàm phu cũng vậy, do huân tập hý luận phân biệt
từ vô thỉ, do ba độc thiêu đốt tâm nên ưa cảnh giới sắc, thấy có sinh, trú, diệt,
chấp thủ pháp trong ngoài, sa vào các chấp trước một, khác v.v... Đại Huệ ! Như
thành Càn Thát Bà không phải thành cũng không phải phi thành, kẻ vô trí vì thói
quen chấp trước vào hạt giống “thành” từ vô thỉ, nên tưởng có thành. Ngoại đạo
cũng vậy. Vì vọng tưởng từ vô thỉ nung nấu, nên không hiểu rõ cảnh tự tâm hiện,
bám vào các ngôn thuyết một, khác v.v.. Đại Huệ ! Thí như có người nằm mộng
thấy trai, gái, voi, ngựa, xe, kẻ bộ hành, thành ấp, vườn rừng... các thứ trang
nghiêm. Khi tỉnh nhớ lại cảnh kia vốn không phải chuyện thật. Đại Huệ ! Ý ông
thế nào? Người như thế có khôn ngoan không?
Bạch
Thế Tôn không!
Đại
Huệ ! Ngoại đạo cũng thế. Do ác kiến ngốn ngấu không rõ duy tâm, chấp trước các
quan niệm một, khác, hữu, vô v.v.. Này Đại Huệ ! Thí như tượng vẽ không có chỗ
cao, thấp, kẻ ngu lầm thấy tưởng có cao thấp. Các ngoại đạo đời sau cũng vậy,
do ác kiến huân tập, vọng tâm tăng trưởng, nên chấp một, khác v.v...mà tự hại,
hại người. Đối với thuyết lìa hữu vô, vô sinh thì xem là chuyện không tưởng,
chúng bài bác nhân quả, triệt hết căn lành. Nên biết những kẻ phân biệt có,
không, khởi các tướng tự, tha như thế sẽ đọa vào địa ngục. Muốn cầu pháp thù thắng,
ông hãy xa lìa. Đại Huệ, thí như những người đau mắt thấy hoa đốm (mao luân)
bèn gọi nhau: “Thật là việc hiếm có, đẹp tuyệt!” Kỳ thật hoa đốm ấy lìa có
không, thấy và bị thấy. Ngoại đạo cũng thế, ác kiến phân biệt một, khác, cùng,
không cùng v.v.. phỉ báng chính pháp, tự chôn mình, chôn người. Đại Huệ, thí
như vòng lửa thật không phải vòng, kẻ ngu mới chấp, không phải bậc trí. Ngoại
đạo cũng thế, vì ác kiến chấp trước một, khác, cùng, không cùng... nên khởi
sinh các pháp. Đại Huệ ! Thí như bọt nước giống ngọc pha lê, kẻ ngu chấp thật
chạy theo lượm nhặt. Nhưng bọt nước kia vốn lìa ngọc và phi ngọc. Này Đại Huệ !
Khi thành lập 3 lượng (hiện lượng, tỉ lượng và phi lượng) thì Thánh Trí Tự
Chứng xa lìa được hai tự tính (y tha, biến kế). Đại Huệ ! Người tu hành khi chuyển
được tâm, ý, thức, năng thủ, sở thủ, an trú pháp tự chứng ở Như Lai địa, thì
không khởi các tưởng có, không. Đại Huệ! Người tu hành nếu khởi những chấp hữu,
vô tức đã chấp các tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Đại Huệ ! Hết thảy tự
tướng và cọng tướng của các pháp đều do hóa thân Phật nói, không phải pháp thân
Phật nói. Đại Huệ ! Hóa thân Phật nói thì chỉ thuận theo kiến chấp của ngu phu,
không phải khai thị pháp lạc tam muội của Thánh Trí Tự Chứng. Đại Huệ ! Thí như
trong nước có bóng cây, bóng ấy không phải bóng hay phi bóng, không phải không
bóng hay không phi bóng. Ngoại đạo cũng thế, vì ác tà kiến huân tập, không rõ tự
tâm hiện, nên sinh các phân biệt một, khác v.v.. Đại Huệ ! Thí như gương sáng
không phân biệt, tùy duyên mà hiện các hình bóng, những bóng kia không phải
bóng hay phi bóng, mà lại được thấy ra là bóng với phi bóng, là do người ngu
phân biệt, sinh tưởng về bóng. Ngoại đạo cũng thế, đối các hình bóng do
tự tâm hiện, lại khởi chấp các tướng một, khác, cùng, không cùng. Đại Huệ ! Thí
như tiếng vang do các âm thanh của gió, nước, người v.v.. hòa hiệp mà có, tiếng
vang ấy không có cũng không không, vì được nghe như tiếng mà thực không phải
tiếng. Ngoại đạo cũng thế, do sự huân tập phân biệt của tự tâm, nên khởi các
kiến chấp một, khác, cùng, không cùng. Đại Huệ ! Thí như ở trên đất không có cây
cỏ, ánh trời chiếu làm nên những làn sóng nắng. Những làn sóng kia không phải
có cũng không phải không, vì là đảo tưởng, không phải tưởng. Kẻ phàm ngu cũng
vậy, do tập khí sai lầm từ vô thỉ, nên ở trong pháp tính do thánh trí chứng lại
có sinh, trụ, diệt, một, khác, có, không, cùng, không cùng v.v.. Đại Huệ ! Thí
như người gỗ hay thây ma nhờ bùa lực của Tỳ Xá Xà (Pi’sàca) mà cử động chuyển
xoay không ngừng, kẻ vô trí xem là thật. Phàm phu ngu si cũng thế, hùa theo
ngoại đạo khởi ác tà kiến, vọng chấp một, khác v.v... Bởi thế, Đại Huệ ! Ông
nên ở trong pháp Tự Chứng xa lìa hết thảy phân biệt sinh, trụ, diệt, hữu, vô,
cùng, không cùng v.v...
Bấy
giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Các
thức ấm có năm
Như
bóng cây trong nước
Cái
thấy như huyễn mộng
Không
nên vọng phân biệt
Ba
cõi như ảo tượng
Huyễn
mộng và mao luân (hoa đốm)
Nếu
quán được như thế
Hoàn
toàn được giải thoát
Như
bóng nắng mùa hè
Kích
động mê loạn tâm
Thú
khát chấp là nước
Mà
thật không phải nước
Chủng
tử thức cũng vậy
Chuyển
động thấy cảnh giới
Như
mắt thấy không hoa
Ngu
phu sinh mê đắm
Từ
vô thỉ sinh tử
Trói
buộc trong chấp trước
Nay
phải nên xả bỏ
Như
người bị diệt tẩn
Như
vật huyễn, như máy
Như
mây, mộng, điện, chớp
Quán
sát đời như thế
Dứt
sạch ba tương tục
Trong
ấy không có gì
Như
ảo tượng hư không
Biết
các pháp như thế
Thì
hết sở tri chướng
Năm
uẩn như hoa đốm
Không
nên vọng phân biệt
Chỉ
là tên bày đặt
Tìm
tướng bất khả đắc
Như
bức vẽ xỏa tóc
Như
mộng, thành nhạc thần
Vòng
lửa và ảo tượng
Thật
không mà thấy có
Như
vậy thường, vô thường
Một,
khác, cùng, không cùng
Do
trói buộc vô thỉ
Ngu
phu vọng phân biệt
Gương
sáng, mắt pha lê
Ma
ni ngọc đẹp báu
Trong
đó hiện bóng hình
Kỳ
thật không gì có
Tâm
thức cũng như vậy
Hiện
khắp các sắc tướng
Như
mộng, như bóng nước
Lại
như con Thạch nữ
Lại
nữa Đại Huệ ! Pháp chư Phật nói lìa bốn cú nghĩa là lập bác, một khác, cùng
không cùng, có không... Đại huệ ! Pháp Phật lấy tứ đế, duyên khởi, diệt đạo,
giải thoát làm đầu, không tương ưng với những pháp như Thắng tính (praktri), Tự
tại (Isvara), Túc tác (không nhân), tự nhiên, vi trần v.v... Đại Huệ ! Pháp
Phật nói là để thanh tịnh hai thứ chướng ngại là trí chướng và hoặc chướng,
khiến dần an trú trong 108 cú về pháp vô tướng, mà phân biệt rõ các thừa cũng
như thương chủ khéo hướng dẫn người. Lại nữa Đại Huệ ! Có 4 loại thiền : 1. Thiền
ngu phu (Halopacàrikadhyàna), 2. Thiền quán sát nghĩa
(Arthapravicayadhyàna), 3. Thiền phan duyên chân như
(Tathatàlambanadhyàna), 4. Thiền Như Lai (Tathàgatadhyàna). Đại Huệ !
Thiền ngu phu là những người tu hạnh Thanh Văn, Duyên Giác biết nhân vô ngã,
thấy thân mình thân người chỉ là bộ xương ráp lại, đều là tướng vô thường, khổ,
bất tịnh. Quán sát như thế kiên trì không bỏ, dần đạt đến định vô tưởng diệt,
ấy là thiền ngu phu. Sao là thiền quán sát nghĩa? Ấy là khi biết rõ nhân vô ngã
trên phương diện tự tướng, cọng tướng rồi, còn xa lìa chấp ngoại đạo cho mọi pháp
là tự sinh tha sinh, tự tha sinh, thuận theo nghĩa pháp vô ngã của Bồ Tát Địa
mà quán sát, ấy là thiền quán sát nghĩa. Sao gọi là thiền phan duyên chân như ?
Ấy là, nếu phân biệt có hai vô ngã tức là vọng niệm, nếu biết như thật thì niệm
kia không khởi, ấy gọi là thiền phan duyên chân như. Sao gọi là Như Lai thiền ?
Ấy là pháp lạc tam muội khi vào Phật địa, an trú trong cảnh giới của Tự Chứng
Thánh Trí, vì chúng sinh mà làm các việc không thể nghĩ bàn. Bấy giờ Thế Tôn lại
nói bài tụng:
Thiền
của hàng ngu phu
Thiền
quán sát nghĩa tướng
Thiền
phan duyên chân như
Thiền
Như Lai thanh tịnh
Kẻ
tu hành trong định
Quán
thấy bóng nhật nguyệt
Ba
đầu ma thâm hiểm (padmapàtàla)
Lửa
hư không, tranh vẽ
Các
hình tướng như thế
Liền
sa pháp ngoại đạo
Lại
đọa vào cảnh giới
Thanh
Văn, Bích Chi Phật
Xa
lìa tất cả đấy
An
trú vô sở duyên
Tức
có thể thâm nhập
Tướng
như như chân thật
Ở
mười phương quốc độ
Vô
lượng các đức Phật
Liền
đưa tay quang minh
Mà
xoa đầu người ấy
Bấy
giờ Đại Huệ bạch Phật:
Bạch
Thế Tôn ! Pháp Niết Bàn mà chư Phật Như Lai nói là những pháp gì? Phật dạy:
Khi
tập khí và tự tính của các thức cùng thói tà kiến của tạng thức, ý và ý thức
được chuyển hóa, thì ta và chư Phật gọi đó là Niết Bàn, tức là cảnh giới tính
không của các pháp. Lại nữa này Đại Huệ ! Niết Bàn là cảnh giới của Thánh Trí
Tự Chứng, xa lìa đoạn, thường, hữu, vô. Sao gọi là phi thường? Là lìa phân biệt
tự tướng cọng tướng. Sao là phi đoạn? Vì đấy là sở hành của hết thảy các bậc Tự
Chứng Thánh Trí trong cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại nữa, Đại Huệ ! Đại
Niết Bàn không phải hoại không phải chết, nếu chết sẽ sinh lại, nếu hoại sẽ
thành ra hữu vi. Cho nên Niết Bàn không hoại không chết, đấy là chỗ những bậc
tu hành đạt đến. Lại nữa, Đại Huệ, Niết Bàn không xả, không đắc, không đoạn,
không thường, không một, không khác, nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa, Đại Huệ !
Thanh Văn Duyên Giác biết rõ tự tướng cọng tướng, xa lìa huyên náo, không sinh
điên đảo, không khởi phân biệt, do đó liền sinh tưởng là Niết Bàn. Lại nữa, Đại
Huệ ! Có hai loại tướng của tự tính, ấy là: 1. Tướng chấp trước tự tính
ngôn thuyết. 2. Tướng chấp trước tự tính các pháp. “Tướng chấp trước tự
tính ngôn thuyết” là do chấp trước hý luận, và tập khí ngôn thuyết từ vô thỉ mà
khởi lên; “Tướng chấp trước tự tính các pháp” là bởi không biết vạn pháp do tự
tâm hiện, mà khởi lên. Lại nữa, này Đại Huệ ! Chư Phật có hai thứ gia trì để
nâng đỡ các Bồ Tát, khiến các Bồ Tát này đảnh lễ chân Phật thỉnh hỏi các nghĩa
lý. Hai thứ gia trì ấy là khiến cho Bồ Tát nhập tam muội, và hiện thân trước Bồ
Tát đưa tay lấy nước cam lộ rưới đầu. Đại Huệ ! Chư Bồ Tát sơ địa nhờ chư Phật
nâng đỡ mà nhập định “Đại Thừa Quang Minh”. Nhập định ấy xong, chư Phật mười phương
đều hiện thân trước mặt nói lời ủy dụ, như trường hợp Bồ Tát Kim Cương Tạng và
các đại Bồ Tát khác, những vị đã thành tựu đức tướng. Đại Huệ ! Những Bồ Tát ấy
nhờ Phật nâng đỡ mà nhập tam muội xong, lại nhờ thiện căn tích tụ từ trăm ngàn
đời kiếp mà tuần tự tiến lên các địa, thông đạt được cái gì nên làm cái gì
không nên (dịch theo Suzuki). Bồ Tát ấy lên bực Pháp Vân Địa, ở trong cung điện
đẹp hình hoa sen lớn, ngồi trên tòa báu, được các Bồ Tát đồng hàng vây quanh.
Đầu vị ấy đội mão ngọc, thân tỏa ánh sáng như ánh vàng ròng của hoa chiêm bặc,
như mặt trăng tròn, chiếu hào quang lớn. Chư Phật mười phương duỗi bàn tay hoa sen
tới chỗ ngồi của những Bồ Tát này mà rưới đầu với nước cam lộ. Như thái tử con
vua chuyển luân nhờ được quán đảnh mà được tự tại, những Bồ Tát này cũng thế.
Ấy là hai thứ gia trì. Các đại Bồ Tát nhờ hai thứ gia trì này mà diện kiến được
hết thảy chư Phật. Nếu không nhờ gia trì thì không diện kiến được. Lại nữa, Đại
Huệ ! Các Bồ Tát mà nhập được tam muội, hiện thần thông nói pháp, tất cả ấy đều
nhờ hai lực gia trì của chư Phật. Đại Huệ ! Nếu Bồ Tát lìa sự gia trì của Phật
mà thuyết pháp được, thì phàm phu cũng có thể nói pháp. Đại Huệ ! Nơi Như Lai
đến, nhờ lực gia trì của Như Lai mà hết thảy núi rừng, cỏ cây, thành quách,
cung điện và các nhạc khí đều phô diễn pháp âm, huống chi loài hữu tình. Những
kẻ điếc, mù, câm, ngọng, đều được lìa khổ mà giải thoát. Đại Huệ ! Năng lực gia
trì của Như Lai có những tác dụng rộng lớn như vậy.
Đại
Huệ Bồ Tát bạch:
Vì
sao Như Lai phải dùng năng lực gia trì để khiến các Bồ Tát nhập tam muội, và
đạt các địa vị cao?
Phật
dạy:
Này
Đại Huệ ! Vì muốn khiến các Bồ Tát xa lìa phiền não và nghiệp, khiến khỏi sa
vào hàng Thanh Văn, khiến mau vào Như Lai địa, khiến tăng trưởng các pháp đã
chứng. Này Đại Huệ ! Nếu không có sự nâng đỡ của Như Lai thì các Bồ Tát ấy sẽ sa
vào ma cảnh của ngoại đạo, Thanh Văn, không được Vô Thượng Bồ Đề.
Đức
Thế Tôn lại nói bài tụng:
Như
Lai nguyện thanh tịnh
Có
lực gia trì lớn
Ở
sơ địa, thập địa
Cho
tam muội, rưới đầu.
Đại
Huệ Bồ Tát lại bạch:
Bạch
Thế Tôn ! Nghĩa Duyên Khởi Phật nói là, các pháp do có sự xúc tác mà sinh khởi,
không phải tự sinh khởi. Ngoại đạo cũng nói Thắng tính, Tự tại (Isvara), Thời
(kala), ngã, vi trần, sinh ra các pháp, Như vậy đức Thế Tôn chỉ dùng danh từ
khác, chứ ý nghĩa có khác gì thuyết ngoại đạo? Bạch Thế Tôn ! Ngoại đạo nói do
tác giả mà từ không sinh có, Thế Tôn cũng nói do nhân duyên mà hết thảy pháp
vốn không nay sinh, sinh rồi hoàn diệt. Như chỗ Phật nói, vô minh duyên hành
cho đến lão tử, thuyết này là thuyết không nhân, không phải thuyết hữu nhân. Theo
như Thế Tôn dạy: “Vì cái này có nên cái kia có,” nếu đây là đồng thời tạo
thành, không phải kế tục đối đãi nhau, thì nghĩa ấy không đúng. Cho nên thuyết
của ngoại đạo hay hơn, không phải thuyết của Như Lai hay hơn. Vì sao? Ngoại đạo
nói nhân không do duyên sinh mà có sinh kết quả. Thế Tôn nói quả đối đãi với
nhân, nhân lại đối đãi với nhân khác, xoay vần như thế, thành cái lỗi “vô
cùng”. Lại “Cái này có nên cái kia có” tức là không nhân.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Ta thấu rõ các pháp chỉ do tâm hiện, không năng thủ sở thủ, nên nói “Vì
cái này có nên cái kia có”, đây không phải là lỗi không nhân. Đại Huệ ! Nếu
không rõ các pháp đều do tâm hiện, cho là có năng thủ sở thủ, chấp trước cảnh
ngoài hoặc có hoặc không, thì đấy là lỗi của kẻ chấp, không phải thuyết duyên
sinh của ta.
Đại
Huệ Bồ Tát lại bạch:
Thế
Tôn đã có ngôn thuyết tất phải có các pháp, nếu không có các pháp thì ngôn
thuyết do đâu mà khởi?
Đại
Huệ ! Tuy không có pháp cũng có ngôn thuyết được. Vậy ông không thấy lông rùa
sừng thỏ, con của thạch nữ v.v.. thế gian vẫn nói. Đại Huệ ! Những pháp kia phi
có phi không, mà cũng có ngôn thuyết vậy. Đại Huệ ! Như chỗ ông nói, vì có ngôn
thuyết nên có các pháp, luận ấy không thành. Đại Huệ ! Không phải hết thảy các
cõi Phật đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ là giả lập. Đại Huệ ! Có cõi Phật trừng
mắt mà khai thị pháp, hoặc ra dấu, hoặc nhướng mày, hoặc động con ngươi, hoặc
mỉm cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắn, hoặc nhớ nghĩ, hoặc rùng mình... dùng những
cách ấy mà khai thị pháp. Đại Huệ! Trong các cõi Phật, như cõi Bất Thuấn
(Animi- salokadhàtu), cõi Diệu Hương (Gandhaskgandha-dhàtu), cõi Phổ Hiền
(Samantabhadra), chỉ nhìn trừng, không chớp mắt mà khiến các Bồ Tát được vô
sinh pháp nhẫn (anutpattikadharmaksànti) cùng các tam muội thù thắng. Đại Huệ !
Không phải do ngôn ngữ mà các pháp trong thế giới này có; ruồi, kiến, sâu bọ v.v..
tuy không ngôn thuyết mà vẫn thành tựu được các công việc của chúng.
Thế
Tôn lại nói bài tụng:
Như
sừng thỏ, hư không
Cùng
con của Thạch nữ
Không
có mà có lời
Pháp
vọng chấp cũng vậy
Trong
nhân duyên hòa hợp
Ngu
phu vọng chấp sinh
Không
khéo rõ như thật
Nên
trôi lăn ba cõi
Khi
ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:
Bạch
Thế Tôn ! Thế Tôn dạy âm thanh là thường còn, do đâu mà nói như vậy?
(Nityasatda)
Đại
Huệ ! Do nơi vọng pháp (bhrànti) mà nói, vì các vọng chấp ấy Thánh nhân cũng
có, nhưng Thánh nhân không điên đảo. Đại Huệ, thí như bóng nắng, vòng lửa, tóc
rũ, thành Càn thát bà, mộng huyễn, bóng trong gương... Những người vô trí sinh
giải thích điên đảo, người có trí thì không, nhưng không phải chúng không hiện.
Đại Huệ ! Khi vọng pháp hiện lên, có muôn sai ngàn biệt, nhưng không phải vô
thường. Vì sao? Vì lìa hữu vô vậy. Sao là lìa hữu vô? Vì hết thảy ngu phu có đủ
thứ sai biệt, như nước sông Hằng vừa được thấy vừa được không thấy: Ngạ quỷ không
thấy nên không thể nói là có, những loài khác thấy, nên không thể nói là không.
Bậc thánh đối các pháp hư vọng như thế xa lìa kiến chấp điên đảo. Đại Huệ !
Vọng pháp là thường còn vì tướng nó không có sai biệt. Không phải các vọng pháp
có tướng (sai biệt) mà vì phân biệt nên có sai khác. Bởi thế nên nói thể của
vọng pháp là thường. Đại Huệ ! Làm sao gọi là được chân thật của vọng pháp? Ấy
là bậc thánh đối vọng pháp không khởi giác điên đảo, không điên đảo. Nếu có một
ít lý tưởng nơi vọng pháp tất không phải là thánh trí, đấy là hí luận của ngu
phu. Đại Huệ ! Nếu phân biệt vọng pháp là điên đảo, không điên đảo, ấy là thành
tựu hai thứ chủng tính: 1. Thánh chủng tính (Aryagotra). 2. Phạm
thiên chủng tính (Bàlaptrhagjanagotra). Đại Huệ! Thánh chủng tính lại có 3 :
Thanh Văn, Duyên Giác, Phật. Đại Huệ ! Sao gọi là ngu phu phân biệt vọng pháp
sinh ra chủng tính Thanh Văn? Ấy là chấp tự tướng cọng tướng. Đại Huệ ! Sao lại
nói ngu phu phân biệt vọng pháp mà thành chủng tính Duyên Giác? Ấy là khi chấp
trước tự tướng, cọng tướng, rồi xa lìa huyên náo. Đại Huệ ! Sao là người trí
phân biệt vọng pháp mà được thành tựu chủng tính Phật thừa? Ấy là liễu đạt các
pháp đều do tự tâm phân biệt, ngoài tâm không có pháp. Đại Huệ ! Có những người
ngu phân biệt các thứ sự vật của vọng pháp, rồi cả quyết thế này với không thế
nọ, ấy là thành tựu chủng tính sinh tử. Đại Huệ ! Các sự vật thuộc vọng pháp
kia không phải thị vật cũng không phải phi vật. Đại Huệ ! Những bậc trí, nhờ đã
làm một cuộc cách mạng trong tâm, ý, thức, tập khí (tà ác), 3 tự tính, 3 pháp,
nên nói các vọng pháp ấy tức là chân như. Cho nên nói chân như là tâm giải thoát.
Ta nay khai thị rõ ràng nghĩa ấy; lìa phân biệt là lìa hết thảy các phân biệt.
Đại
Huệ Bồ Tát bạch phật:
Bạch
Thế Tôn, cái vọng pháp nói đó là có hay không?
Vọng
pháp ấy cũng như cái huyễn vốn không có chấp trước, nếu nó có tướng chấp trước
thì nó không thể chuyển được, và như vậy tức là lý duyên khởi không khác gì
thuyết “tác giả sinh” của ngoại đạo.
Đại
Huệ lại nói:
Nếu
các vọng pháp đồng như huyễn, tất nó sẽ làm nhân cho những vọng pháp khác.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Không phải các huyễn sự làm nhân cho vọng hoặc, vì các huyễn không sinh
ra cái lỗi lầm, vì các huyễn sự không có tính phân biệt. Đại Huệ ! Phàm huyễn sự
là do bùa chú của người mà sinh, không phải do tập khí lỗi lầm của phân biệt mà
sinh. Cho nên huyễn sự không sinh lỗi lầm. Đại Huệ ! Những pháp mê lầm chỉ là
chấp trước của tâm kẻ ngu, không phải pháp của bậc Thánh.
Bấy
giờ Thế Tôn nói bài tụng:
Thánh
không thấy vọng pháp
Trong
đó cũng không thật
Vì
vọng tức là chân
Trong
ấy cũng chân thật
Nếu
xa lìa vọng pháp
Mà
có tướng sinh ra
Đấy
lại tức là vọng
Như
lòa, chưa thanh tịnh
Lại
nữa, Đại Huệ ! Huyễn không phải là không, vì nó tương tự với không huyễn nên
nói tất cả pháp đều như huyễn.
Đại
Huệ nói:
Bạch
thế Tôn ! Có phải do sự chấp trước các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp như
huyễn? Hay vì do nơi các tướng điên đảo của sự chấp trước ấy mà nói như huyễn?
Bạch Thế Tôn ! Không phải hết thảy các pháp đều như huyễn cả. Vì sao? Thấy các
sắc tướng không có gì là không nhân. Bạch Thế Tôn, nếu hết thảy đều không do
nhân mà hiện các sắc tướng, thì các tướng ấy mới như huyễn. Vậy nên, bạch Thế
Tôn, không thế nói do chấp trước các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp đều tương
tự với huyễn.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Không phải do chấp các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp như huyễn. Đại
Huệ ! Vì hết thảy pháp không thật, mau diệt như làn chớp nên nói là như huyễn.
Đại Huệ ! Thí như làn chớp vừa thấy đã mất, phàm phu ở thế gian đều thấy, cũng
thế, tất cả pháp đều do tự tâm phân biệt tự tướng cọng tướng mà ra, vì không
biết quán sát thật ra không có gì, mà lại vọng chấp các sắc tướng.
Khi
ấy Thế Tôn nói bài tụng:
Hư
huyễn, không tương tự
Cũng
không có các pháp
Không
thật, mau như chớp
Nên
biết là như huyễn
Bồ
Tát Đại Huệ lại bạch:
Bạch
Thế Tôn, như Phật nói trước kia, hết thảy pháp đều không sinh. Nay lại nói như
huyễn, có phải trước sau nói có mâu thuẫn nhau chăng?
Đại
Huệ ! Không mâu thuẫn, vì sao? Ta biết rõ chỗ sinh chính là vô sinh, chỉ vì tự
tâm thấy ra như thế. Tất cả pháp ngoài hoặc có hoặc không đều thấy là vô sinh,
vì chúng vốn không sinh. Đại Huệ ! Vì muốn xa lìa thuyết do nhân sinh của ngoại
đạo nên ta nói các pháp không sinh. Đại Huệ ! Ngoại đạo thi nhau chấn hưng tà
kiến, nói do có, không, sinh ra các pháp, không cho là do chính sự chấp trước
phân biệt của mình. Đại Huệ ! ta nói các pháp không có, vô sinh, nên gọi là vô sinh.
Đại Huệ ! Khi nói các pháp có là vì muốn khiến các đệ tử biết do nghiệp có sinh
tử để ngăn ngừa đoạn kiến (cho rằng không có gì cả). Đại Huệ ! Như Lai nói các
tướng như huyễn là để khiến lìa chấp cho rằng các tướng có tự tính, vì phàm phu
sa đọa vào ác kiến tham dục, không rõ các pháp đều do tự tâm hiện. Vì muốn
chúng lìa chấp trước vào các tướng do nhân duyên sinh khởi, nên nói các pháp
như huyễn như mộng. Các người ngu chấp trước ác kiến, lừa dối mình, người,
không thể thấy rõ chỗ như thật trú (yathàbhùtàvasthàna) của hết thảy pháp. Đại
Huệ ! Thấy chỗ như thật trú của hết thảy pháp nghĩa là hiểu rõ “do tâm hiện”.
Bấy
giờ Thế Tôn nói bài tụng:
Không
tác nên không sinh
Có
pháp có sinh tử
Hiểu
rõ thảy đều huyễn
Đối
tướng, không phân biệt
Lại
này Đại Huệ ! Nay ta sẽ nói tướng trạng của danh, cú, văn. Các Bồ Tát quán
tướng ấy, hiểu rõ nghĩa, sẽ mau thành tựu vô thượng bồ đề, lại có thể khai ngộ
cho hết thảy chúng sinh. Đại Huệ ! Danh thân là gì? Ấy là do sự đặt tên, tên
tức là thân, nên gọi là danh thân. Cú thân có khả năng làm rõ nghĩa quyết định
rốt ráo. Văn thân là từ đó mà thành tên gọi và câu văn. Lại này Đại Huệ ! Cú
thân là sự đầy đủ ý nghĩa diễn đạt trong một câu. Danh thân là tên của các chữ
khác nhau, như từ chữ a đến chữ ha (Akãra – Hakàra). Văn thân là dài ngắn cao thấp.
Lại, cú thân là như dấu chân người, súc vật v.v.. để lại trên ngã tư đường,
danh là thuộc vào 4 uẩn vô hình nên dùng tên gọi. Văn là tự tướng của danh, vì
nhờ văn mà rõ. Ấy là thân của danh, cú văn. Ông hãy tu tập tướng của danh cú
văn ấy.
Rồi
Thế Tôn nói bài kệ:
Thân
của chữ và câu
Cùng
thân vần sai khác
Phàm
phu chấp vào đấy
Như
voi sa bùn sâu
Lại
nữa, Đại Huệ ! Trong đời vị lai có những hạng tà trí theo lối ngu ác, lìa pháp
như thật, vì thấy các tướng một, khác, cùng, không cùng. Khi được người trí hỏi
thì họ đáp: “Hỏi thế này không đúng: sắc v.v.. và vô thường là một hay khác?”
Cũng thế, Niết Bàn và các uẩn (skandhas), tướng, sở tướng, y, sở y, tạo, sở
tạo, kiến, sở kiến, đất, vi trần, trí và kẻ trí... là một hay khác? Các câu hỏi
như thế về những tướng sai khác của hiện hữu nối tiếp nhau dựa từ vấn đề này
đến vấn đề khác không cùng tận. Những người bị hỏi về những vấn đề không thể nói
như thế, sẽ trả lời rằng đức Như Lai đã gạt qua một bên những vấn đề đó, cho là
bất khả thuyết. Tuy nhiên, những người mê lầm kia không thể hiểu ý nghĩa những
gì họ nghe (từ Phật) vì họ thiếu trí giác. Các đức Như Lai Chính Đẳng Giác
không giải thích những việc ấy cho tất cả, bởi vì muốn cho chúng khỏi kinh sợ.
Đại Huệ ! Không nói những điều bất thuyết (vyàhritàni) là vì muốn cho những
người ngoại đạo ra khỏi tà kiến về “Tác giả”. Đại Huệ ! Ngoại đạo chấp có tác
giả, bảo rằng “Mạng với thân là một hay khác?” Những lời như vậy gọi là lời vô
ký (avyàktravàda). Các việc không thể diễn đạt mà ngoại đạo nói không phải là
giáo lý ta, lìa năng thủ sở thủ, không khởi phân biệt. Sao có sự gạt sang một
bên? Này Đại Huệ ! Nếu có chấp năng thủ sở thủ, tức không hiểu mọi vật đều do
tự tâm thấy, nên gạt sang một bên. Đại Huệ ! Chư Phật Như Lai dùng 4 ký luận để
nói pháp cho chúng sinh. Đại Huệ ! Có những luận ta sẽ nói vào một thời khác,
vì căn cơ chúng sinh chưa thuần thục nên chưa nói. Lại này Đại Huệ ! Vì sao hết
thảy pháp không sinh? Vì lìa năng tác sở tác, không có tác giả. Vì sao hết thảy
pháp không tự tính? Vì bậc thánh (chứng trí) quán tự tướng và cọng tướng đều
không thể có. Vì sao hết thảy pháp không đến, đi? Vì các tự tướng cọng tướng
không từ đâu đến cũng không đi đến đâu. Sao lại hết thảy pháp không diệt? Vì
hết thảy pháp không tính, tướng, bất khả đắc. Vì sao hết thảy nói hết thảy pháp
vô thường? Vì các tướng khởi lên đều có đặc tính vô thường. Vì sao nói hết thảy
pháp thường? Vì các tướng khởi tức không khởi, không có gì cả. Cái tính vô
thường vốn thường nên ta nói hết thảy pháp thường.” Rồi Thế Tôn nói bài tụng:
Nhất
hướng và phản vấn
Phân
biệt cùng đáp thẳng
Bốn
cách nói như thế
Phá
phục các ngoại đạo
Số
luận và thắng luận
Nói
sinh từ có, không
Các
thứ thuyết như vậy
Tất
cả đều vô ký
Vì
khi trí quán sát
Thể
tính chúng không có
Bất
khả thuyết như vậy
Nên
nói không tự tính
Khi
ấy Bồ Tát Đại Huệ bạch:
Bạch
Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói về bậc Tu Đà Hoàn và những đặc tính của quả vị
ấy. Con và các Bồ Tát đại hữu tình nhờ nghe nghĩa ấy sẽ biết rõ các phương tiện
để chứng những quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Biết nghĩa ấy
rồi con sẽ diễn nói lại cho chúng sinh, khiến chúng chứng được hai vô ngã, trừ
sạch hai chướng ngại, dần thông đạt đặc tính các địa, được cảnh giới trí tuệ không
thể nghĩ bàn của Như Lai, như ngọc ma ni nhiều màu, khiến khắp chúng sinh đều
được lợi ích.
Phật
dạy:
Đại
Huệ ! Hãy lắng nghe, ta sẽ nói.
Xin
vâng, bạch Thế Tôn.
Đại
Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn, và Tư Đà Hàm có 3 cấp bực khác nhau, là hạ, trung,
thượng. Bực hạ là còn sinh lại trong các cõi bảy lần, bực trung còn sinh ba
lần, năm lần, bực thượng thì ngay đời này đã nhập Niết Bàn. Đại Huệ ! Ba hạng
người ấy đã cắt đức 3 món kết sử (Samyojana) là thân kiến (sathàyadrsti), nghi
(vicikitsà), giới cấm thủ (sìlavratapasàmar’sa), lần lần tiến lên đắc quả A La
Hán. Đại Huệ ! Thân kiến có hai loại, ấy là câu sinh và phân biệt. Phân biệt
thân kiến là, như do duyên khởi có vọng chấp về ba cõi. Đại Huệ ! Thí như do
tính duyên khởi mà sinh các chấp trước vào vọng kế (tưởng tượng sai lầm). Các pháp
ấy chỉ là tướng do phân biệt sai lầm sinh ra, chúng lìa hữu và vô, cũng không
phải là cũng có cũng không. Kẻ phàm phu ngu si chấp càn, như con thú khát tưởng
tượng ra nước. Đại Huệ ! Đây là kiến chấp về một cái ngã riêng biệt mà do không
có trí tuệ, vị ấy đã tích tập từ lâu đời, đến khi thấy được nhân vô ngã thì xa
lìa được. Đại Huệ ! Câu sinh thân kiến là quán sát khắp thân mình và thân
người, các tướng uẩn vô sắc như tho, tưởng v.v.. và sắc do tứ đại tạo, các đại
ấy làm nhân cho nhau, nên không có cái gọi là sắc uẩn (theo Suzuki trang 102)
quán như vậy rồi thấy rõ quan niệm hữu, vô là một quan niệm phiến diện về chân lý,
liền xa lìa hữu vô. Vì đã xả thân kiến nên không sinh tham dục. Đó gọi là tướng
thân kiến. Đại Huệ ! Nghi tướng là khi rõ thấy tướng các pháp sở chứng, và khi
hai kiến chấp và phân biệt thân nói trên đã đoạn trừ, thì không còn sinh hoài
nghi gì đối với chính pháp của Phật, lại cũng không có ý tưởng theo một bậc
thầy nào khác vì (phân biệt) tịnh, bất tịnh. Đấy gọi là nghi tướng (mà bậc Dự
Lưu từ bỏ được). Đại Huệ ! Vì sao Tu Đà Hoàn không giữ giới cấm? Vì đã thấy rõ
tướng khổ của mọi chỗ thọ sinh, cho nên không giữ. Giữ giới là vì kẻ phàm phu
ngu tham trước dục lạc thế tục ở trong các cõi cho nên mới khổ hạnh giữ giới
nguyện sinh vào các cõi vui. Bậc Tu Đà Hoàn không giữ tướng ấy, chỉ vì cầu
chứng được pháp vô lậu, vô phân biệt, rất thù thắng mà tu hành các giới phẩm.
Ấy gọi là tướng giới cấm thủ. Đại Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn xả ba kết nên lìa tham
sân si.
Đại
Huệ Bồ Tát bạch: Tham có nhiều món. Xả những món tham nào?
Đại
Huệ ! Xả các tham dục triền miên về nữ sắc, vì thấy rõ cái vui hiện tại sẽ sinh
các khổ về sau, lại vì đã được pháp lạc tam muội thù thắng, nên xả cái tham ấy,
không phải xả cái tham Niết Bàn. Đại Huệ ! Sao gọi là quả Tư Đà Hàm? Ấy là vì
không rõ tướng của sắc, khởi phân biệt về sắc, khi sinh trở lại một lần trong
đời, khéo tu các thiền định, dứt các khổ mà thực hiện Niết Bàn. Ấy gọi là Tư Đà
Hàm. Đại Huệ ! Sao gọi là quả A Na Hàm? Ấy là cũng thấy hữu, vô của các sắc tướng
quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng các phân biệt lỗi lầm không do mắt mà khởi,
vĩnh viễn xa lìa các ràng buộc, không trở lại, ấy gọi là A Na Hàm. Đại Huệ ! A
La Hán ấy là, đã thành tựu tất cả thiền tam muội, giải thoát, các lực, thần
thông, đã dứt trừ vĩnh viễn các phiền não, khổ, phân biệt, ấy gọi là A La Hán.
Đại
Huệ bạch:
Bạch
Thế Tôn ! A La Hán có 3 hạng là: Một mực cầu tịch, thối nguyện bồ đề, do Phật
biến hóa. Đây Phật muốn dạy A La Hán nào?
Đại
Huệ ! Đây nói về hạng A La Hán cầu tịch diệt, không phải hai hạng kia. Này Đại
Huệ ! Hai hạng kia là những người đã phát nguyện thực hành phương tiện thiện
xảo và những người muốn trang nghiêm hội chúng của Phật mà hóa sinh. Này Đại
Huệ ! Họ ở chỗ hư dối mà nói các pháp, nghĩa là họ đã lìa các việc như chứng
quả, thiền, thiền giả cùng các các bực thiền, và vì biết rằng thế giới này
không gì khác hơn là do tâm thấy, họ giảng về quả đạt được (cho tất cả chúng
sinh). Này Đại Huệ ! Nếu Tu Đà Hoàn nghĩ thế này: “ Ta đã lìa các trói buộc”, như
vậy tức có hai lỗi, lỗi sa vào ngã kiến, và lỗi không đoạn các trói buộc. Lại
nữa, này Đại Huệ ! Nếu vượt khỏi các bực thiền, các món vô lượng và vô sắc
giới, thì hãy xa lìa các tướng do tự tâm thấy. Đại Huệ ! Diệt tưởng định và
diệt thọ định không thể siêu việt được cảnh do tự tâm thấy, vì vẫn chưa lìa
được tự tâm vậy.
Thế
Tôn lại nói bài tụng:
Các
thiền cùng vô lượng
Vô
sắc tam ma đề
Cùng
định diệt tưởng thọ
Ngoài
tâm không thể có
Quả
Dự Lưu, Nhất Lai
Bất
Hoàn, A La Hán
Các
thánh nhân như thế
Đều
nương cọng tâm có
Thiền
giả duyên nơi thiền
Dứt
hoặc, thấy chân thường
Đấy
đều là vọng tưởng
Biết
rõ tất giải thoát
Lại
này Đại Huệ ! Có 2 món giác trí, ấy là : 1. Trí quán sát (pravicayaby-
dhi) và 2. Trí thủ tướng phân biệt chấp trước kiến lập
(vikalpalaksanagrà- hàbhinive’sapratisthàpika-budhi). Trí quán sát là quán hết
thảy pháp lìa bốn câu, bất khả đắc. Bốn câu là gì? Ấy là một khác, câu bất câu,
hữu vô, thường vô thường. Lìa bốn trường hợp ấy về các pháp gọi là lìa hết thảy
pháp. Đại Huệ ! Ông nên tu học quán các pháp như thế. Sao gọi là trí thủ tướng
phân biệt chấp trước kiến lập? Ấy là đối với các đại cứng, ẩm, ấm, động, bám
giữ tướng, chấp trước hư không, vọng phân biệt, dùng tôn, nhân, dụ
(pratijna-hetu-drstanta) mà vọng cho là có, ấy là trí thủ tướng phân biệt chấp
trước kiến lập. Đấy là hai món tướng giác trí. Bậc Bồ Tát đại hữu tình biết các
tướng ấy của trí, liền có thể thông đạt nhân pháp đều vô ngã, dùng trí vô tướng
khéo quán sát các địa, giải và thành, nhập vào sơ địa, được 100 thứ định, dùng
tam muội thù thắng thấy được trăm Phật trăm Bồ Tát, biết các chuyện trước và
sau 100 kiếp, hào quang chiếu sáng 100 cõi Phật, khéo rõ biết tướng của các địa
vị cao tột, dùng nguyện lực thù thắng mà biến hiện tự tại, đến cõi Pháp Vân,
được Phật quán đảnh, vào các cõi Phật theo 10 nguyện vô tận mà giáo hóa chúng
sinh được thành tựu, làm các sự ứng hiện không ngừng, mà vẫn thường an trú
trong pháp lạc tam muội thù thắng của cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng. Lại nữa,
Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên rõ biết các sắc do tứ đại tạo. Rõ biết thế
nào? Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên quán thế này: Các đại chủng kia thật ra
vốn không sinh, vì ba cõi chỉ là phân biệt, chỉ có tâm hiện, không có ngoại
vật. Quán sát như thế liền xa lìa tính của các sắc do tứ đại tạo, vượt ngoài tứ
cú, lìa ngã, ngã sở, an trú chỗ như thật, thành tựu tướng vô sinh. Đại Huệ ! các
đại chủng kia làm sao tạo sắc? Đại Huệ ! Ấy là Đại chủng do hư vọng phân biệt
cho là ướt, nảy sinh ra nước bên trong và bên ngoài, đại chủng được phân biệt
là mãnh liệt sinh ra lửa bên trong và ngoài, đại chủng phân biệt là động sinh
ra gió trong và ngoài, đại chủng được cho là phân đoạn các hình sắc sinh ra đất
và không gian bên trong và ngoài. Lìa hư không, do chấp trước các tà đế nên có
sự nhóm họp của năm uẩn, sinh ra các đại chủng và các sắc do đại chủng tạo. Đại
Huệ ! Thức là do sự chấp trước cảnh giới và ngôn thuyết làm nhân khởi, ở các
cõi tiếp nối thọ sinh. Đại Huệ ! Các đại tạo sắc v.v.. (được cho là) có các đại
chủng làm nhân, tuy nhiên những đại chủng này là phi hữu. Bởi vì, Đại Huệ ! Về
những vật có hình tướng, chỗ ở, tác dụng, v.v.. người ta có thể nói chúng do sự
phối hợp của nhiều phần tử sinh quả khác nhau, nhưng về những sự vật không hình
tướng đặc biệt thì không thể nói. Bởi lẽ ấy Đại Huệ, những đại chủng và sở tạo
sắc đều là phân biệt của ngoại đạo, không phải thuyết của ta. Lại nữa, Đại Huệ
! Nay ta sẽ nói thể tướng của năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đại Huệ !
Sắc là 4 đại và sở tạo sắc. Những thứ này tướng đều khác nhau. Thọ v.v.. không
có sắc. Đại Huệ ! Nhưng các uẩn vô sắc không thể đếm được có bốn, vì nó như hư không.
Đại Huệ, ví như hư không vượt ngoài số đếm và tướng, nhưng do phân biệt mà nói
đây là hư không, các uẩn vô sắc cũng thế, lìa số đếm và tướng, lìa hữu, vô
v.v.. bốn cú. Số đếm là do phàm phu nói, không phải thánh giả. Các bậc thánh
chỉ nói như huyễn làm ra, giả lập, lìa khác và không khác, như mộng với bóng,
không có tướng riêng biệt. Vì không hiểu cảnh giới của thánh trí nên thấy có
các uẩn phân biệt trước mắt, ấy là tướng tự tính của các uẩn. Đại Huệ ! Những
phân biệt như vậy ông nên xa lìa, xa lìa đó rồi liền nói các pháp tịch diệt
thanh tịnh, được pháp vô ngã, nhập “Viễn Hành Địa” (Dùramyamà), thành tựu vô
lượng tam muội tự tại, được thân “ý sinh”, các định như huyễn, các lực thần
thông tự tại đều đầy đủ, như đất lớn lợi ích khắp quần sinh. Lại này Đại Huệ !
Niết Bàn có 4 thứ. Bốn thứ ấy là gì? Ấy là:
Niết
Bàn các pháp tự tính vô tính (Bhàvasvabhàvàbhàvanirvana),
Niết
Bàn các tướng tính vô tính (Laksanavicitrabhàvabhàvanirvàna),
Niết
Bàn giác tự tướng tính vô tính
(Svalaksanabhàvàbhàvàvabodhanirvàna),
Niết
Bàn đoạn tự tướng cọng tướng các uẩn
(Skandhànàmsvasàmànyalaksanasamtatiprabandhabyucchedanirvàna).
Đại
Huệ ! Bốn thứ Niết Bàn này là nghĩa của ngoại đạo, không phải do ta nói. Đại
Huệ ! Điều Ta nói là, các thức phân biệt nóng v.v.. diệt gọi là Niết Bàn.
Đại
Huệ Bồ Tát bạch:
Bạch
Thế Tôn ! Vậy chớ Thế Tôn không lập có 8 thức đấy hay sao?
Ta
có lập.
Nếu
đã lập thì sao chỉ nói ý thức diệt mà không nói 7 thức kia diệt?
Đại
Huệ ! Do ý thức làm nhân cùng các sở duyên mà sinh 7 thức kia. Đại Huệ ! Khi ý
thức phân biệt khởi chấp trước, liền sinh các tập khí nuôi dưỡng tạng thức. Mạt
na thức cùng ngã, ngã sở mà nó chấp trước tính toán đều nương tạng thức mà có,
không có thể tướng riêng biệt. Tạng thức làm nhân và duyên cho nó, chấp trước
các cảnh giới do tự tâm hiện, nên toàn thể hệ thống tâm thức đắp đổi làm nhân
lẫn nhau. Đại Huệ ! Thí như sóng biển, cảnh do tự tâm hiện cũng bị ngọn gió cảnh
giới thổi mà có sinh ra diệt. Bởi thế, khi ý thức diệt thì bảy thức kia cũng
diệt. Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:
Ta
không chấp tự tính
Cùng
các tướng đã làm
Hết
phân biệt cảnh giới
Thế
gọi là Niết Bàn
Ý
thức nhân của tâm
Tâm
làm nhân, sở duyên
Cho
cảnh giới của ý
Các
thức từ đó sinh
Như
thác nước tuôn chảy
Sóng
lớn tất không khởi
Cũng
thế ý thức diệt
Thì
các thức không sinh
Lại
nữa, Đại Huệ ! Ta sẽ nói tướng sai biệt của tự tính vọng kế (parikalpi-
tasvabhàvaprabhedanyalaksana) khiến ông và các Bồ Tát biết nghĩa ấy mà vượt
ngoài các vọng tướng, chứng cảnh giới của Thánh Trí, biết được các pháp ngoại
đạo, xa lìa phân biệt năng thủ sở thủ, đối với tướng y tha khởi (paratantra),
không còn sinh bám víu vọng chấp. Đại Huệ ! Sao gọi là những tướng sai biệt của
vọng kế? Ấy là phân biệt ngôn thuyết (abhilàpa- vikalpa), phân biệt sở thuyết (abhidheyavikalpa),
phân biệt tướng (laksa- navikalpa), phân biệt tài, phân biệt tự tính
(svabhàva), phân biệt nhân (hetu), phân biệt kiến (drsti), phân biệt lý
(yukti), phân biệt sinh (utpàda), phân biệt bất sinh (anutpàda), phân biệt
tương thuộc (sambandha), phân biệt phược giải (bandhàbandha). Đại Huệ ! Ấy là
các tướng sai biệt của vọng kế. Sao là phân biệt ngôn thuyết? Ấy là chấp trước
các tiếng lời hay đẹp. Sao là phân biệt ý nghĩa? Là chấp rằng thật có những sự
vật như đã được nói ra cho rằng đây là cảnh mà Thánh Trí đã chứng và theo đó mà
nói, ấy là phân biệt sở thuyết (ý nghĩa). Sao gọi là phân biệt tướng? Ấy là
chấp vào các sự vật đã được diễn đạt, như con thú khát tưởng tượng ra nước,
phân biệt các tướng cứng, ẩm, ấm, động. Ấy là phân biệt tướng. Sao gọi là phân
biệt tài? Là bám giữ các thứ tiền tài vàng bạc v.v.. các thứ báu vật, mà nói ra
ngôn thuyết. Sao là phân biệt tự tính? Ấy là dùng ác kiến mà phân biệt như thế này:
đây là tự tính, nhất định không phải những cái khác. Sao gọi là phân biệt nhân?
Là đối với nhân duyên, khởi phân biệt có không. Sao là phân biệt kiến? Ấy là sự
chấp trước ác kiến của ngoại đạo, chấp có không, khác không khác, cùng không
cùng v.v.. Sao là phân biệt lý? Ấy là chấp có tướng ngã, ngã sở mà sinh ra ngôn
thuyết. Sao là phân biệt sinh? Ấy là kể các pháp hoặc có hoặc không do nhân duyên
mà sinh. Sao là phân biệt bất sinh? Ấy là chấp rằng tất cả bản lai không sinh.
Sao gọi là phân biệt tương thuộc? Ấy là đây và đó y cứ vào nhau, hỗ tương hệ
thuộc, như vàng và dây vàng. Sao là phân biệt phược giải? Ấy là chấp do có cái
trói buộc mà có cái bị trói buộc, như dùng sợi dây mà cột rồi lại mở. Ấy là
phân biệt trói mở. Đại Huệ ! đấy là những tướng sai biệt của vọng kế, hết thảy
phàm phu đều chấp trước vào đó hoặc chấp có hoặc chấp không. Đại Huệ, ở nơi
pháp duyên khởi chấp các tự tính vọng kế, như thấy những huyễn vật khác nhau mà
phân biệt vật này huyễn vật kia khác với huyễn (Suzuki 112). Đại Huệ ! Huyễn và
các vật không phải một cũng không phải khác. Nếu khác thì huyễn không làm nhân
cho các sự vật. Nếu là một thì huyễn và các vật đáng lẽ không khác nhau, nhưng
vì có khác nên biết không phải một. Đại Huệ ! Ông và các Bồ Tát không nên do
huyễn mà sinh chấp trước hữu vô. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Tâm
bị cảnh trói buộc
Do
đó có giác tướng
Nơi
vô tướng cao thượng
Trí
tuệ bình đẳng sinh
Theo
vọng kế thì có
Theo
duyên khởi tất không
Vọng
kế tức mê hoặc
Duyên
khởi lìa phân biệt
Các
thứ phân biệt sinh
Đều
huyễn, không thành tựu
Các
tướng trạng chỉ hiện
Vọng
phân biệt, không chân
Các
tướng ấy là lỗi
Do
tâm trói buộc sinh
Kẻ
vọng chấp không hiểu
Phân
biệt pháp duyên khởi
Các
tính vọng kế ấy
Đều
tức là duyên khởi
Vọng
kế có nhiều loại
Trong
duyên khởi phân biệt
Thế
tục, đệ nhất nghĩa
Thứ
ba không nhân sinh
Vọng
kế là thế tục
Dứt
vọng tức thánh cảnh
Như
kẻ tu quán hạnh
Nơi
một, hiện các tướng
Kỳ
thật không có gì
Tướng
vọng kế cũng vậy
Như
mắt bị đau màn
Vọng
tưởng thấy các màu
Màu
không sắc phi sắc
Không
hiểu duyên khởi vậy
Như
vàng lìa cấu bẩn
Như
nước lìa bùn dơ
Như
hư không không mây
Sạch
vọng tưởng cũng thế
Vọng
chấp vốn là không
Theo
duyên khởi thì có
Kiến
lập và bác bỏ
Đều
do phân biệt sinh
Nếu
không tính vọng kế
Mà
có các duyên khởi
Không
pháp mà có pháp
Pháp
có từ không sinh
Do
nhân nơi vọng kế
Mà
có các duyên khởi
Tướng,
nên thường theo nhau
Mà
sinh ra vọng kế
Vì
duyên khởi nương vọng
Rốt
ráo không thật có
Khi
thanh tịnh hiển bày
Gọi
là đệ nhất nghĩa
Vọng
kế có mười hai
Duyên
khởi có sáu thứ
Cảnh
tự chứng chân như
Thì
không có sai biệt
Chân
lý là năm pháp
Cùng
với ba tự tính
Người
tu hành quán đấy
Không
làm trái chân như
Do
nơi tướng duyên khởi
Vọng
chấp các thứ danh
Tướng
các vọng kế kia
Có
ra từ duyên khởi
Trí
tuệ khéo quán sát
Không
duyên, không vọng kế
Trong
chân như không vật
Làm
sao phân biệt sinh
Trí
viên thành nếu có
Tất
phải lìa hữu vô
Đã
xa lìa hữu vô
Làm
sao có hai tính
Vọng
kế thành hai tính
Hai
tính do an lập
Phân
biệt thấy các tướng
Thanh
tịnh là thánh hạnh
Các
tướng của vọng kế
Trong
duyên khởi phân biệt
Nếu
phân biệt khác thế
Là
sa luận ngoại đạo
Vì
cái thấy sai lầm
Vọng
chấp vào cảnh vọng
Lìa
hai thứ chấp ấy
Gọi
là pháp chân thật.
Đại
Huệ Bồ Tát bạch Phật:
Bạch
Thế Tôn xin vì con nói các hành tướng Tự Chứng Thánh Trí và hành tướng của Nhất
Thừa, con và các Bồ Tát được hiểu rõ chỗ ấy sẽ không còn tùy kẻ khác mà giác
ngộ.
Phật
dạy:
Ông
hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho.
Xin
vâng, bạch Thế Tôn.
Đại
Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình y nơi thánh giáo, không phân biệt, nên ở một mình chỗ
vắng lặng tu quán nội tâm, không do kẻ khác mà ngộ, lìa kiến phân biệt, dần
tiến lên Phật địa, tu hạnh như thế gọi là hành tướng của Tự Chứng Thánh Trí.
Sao gọi là hành tướng của Nhất Thừa? Ấy là chứng được đạo Nhất Thừa vậy. Sao
gọi là biết đạo Nhất Thừa? Là lìa phân biệt năng thủ sở thủ, an trú trong như
thật. Đại Huệ ! Đạo Nhất Thừa này ngoài Như Lai, ngoại đạo, nhị thừa, phạm
vương v.v.. không thể đạt đến.
Bạch
Thế Tôn ! Vì sao nói có 3 thừa mà không nói một thừa?
Đại
Huệ ! Vì Thanh Văn, Duyên Giác không có pháp để tự Niết Bàn, nên ta không nói
một thừa, vì những kẻ kia thường nương theo lời Như Lai dạy mà hàng phục, xa
lìa, nhờ tu hành như vậy mà được giải thoát, không phải tự chứng đắc. Lại những
người kia chưa thể trừ được chướng ngại của trí và tập khí của nghiệp, chưa
giác ngộ được pháp vô ngã, chưa thoát khỏi bất tư nghì biến dị tử, cho nên ta
nói có 3 thừa. Nếu những kẻ kia hay trừ được hết các tập khí lỗi lầm, giác ngộ pháp
vô ngã, liền xa lìa sự mê say trong định để giác ngộ cảnh giới vô lậu, ở trong
các cảnh giới vô lậu cao thượng xuất thế gian mà tu các công đức, đầy đủ các
phương tiện, được pháp thân tự tại không thể nghĩ bàn.
Bây
giờ Thế Tôn nói bài tụng:
Thiên
thừa cùng phạm thừa
Thanh
Văn, Duyên Giác thừa
Chư
Phật Như Lai thừa
Các
thừa mà ta nói
Nếu
còn chứa tâm khởi
Các
thừa chưa rốt ráo
Khi
tâm “bị chuyển” diệt
Không
có thừa, thừa giả
(xe
và người ngồi xe)
Không
có thừa độc lập
Nên
ta gọi Nhất thừa
Vì
nhiếp phục kẻ ngu
Nói
các thừa sai biệt
Giải
thoát có ba thứ
Là
lìa các phiền não
Cùng
với pháp vô ngã
Trí
bình đẳng giải thoát.
Thí
như gỗ trong nước
Theo
làn sóng bồng bềnh
Tâm
Thanh Văn cũng thế
Bị
gió tưởng thổi động
Tuy
hết khởi phiền não
Tập
khí kia vẫn chuyển
Say
vì rượu tam muội
Chấp
trước cảnh vô lậu
Không
phải đường cứu cánh
Lại
cũng không thối chuyển
Được
thân tam muội rồi
Hết
kiếp vẫn chưa tỉnh
Như
người say bí tỉ
Nhả
rượu liền tỉnh ngộ
Thanh
Văn cũng như vậy
Giác rồi sẽ thành Phật.