10. Tánh Không Là Không Chứng Không Đắc

16/05/20154:26 CH(Xem: 11239)
10. Tánh Không Là Không Chứng Không Đắc

THỰC HÀNH 
KINH KIM CƯƠNG BÁT NHà
Đương Đạo 
Nhà Xuất  Bản: Thiện Tri Thức 2015

TÁNH KHÔNG LÀ KHÔNG CHỨNG KHÔNG ĐẮC

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Vị Tu Đà Hoàn có thể khởi lên niệm này, ‘Ta đắc quả Tu Đà Hoàn’ chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Quả thật không, bạch Thế Tôn. Vì sao thế? Tu Đà Hoàn gọi là Vào Dòng, mà thật không có chỗ vào, không vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là Tu Đà Hoàn.

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Vị Tư Đà Hoàn có thể khởi lên niệm này, ‘Ta đắc quả Tư Đà Hoàn chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Quả thật không, bạch Thế Tôn. Vì sao thế? Tư Đà Hoàn nghĩa là Một Lần Trở Lại, mà không có gì là một lần trở lại, ấy gọi là Tư Đà Hoàn.

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Vị A Na Hàm có thể khởi lên niệm này, ‘Ta đắc quả A Na Hàm’ chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Quả thật không, bạch Thế Tôn. Vì sao thế? A Na Hàm nghĩa là Chẳng Trở Lại, mà thật không có gì là chẳng trở lại, ấy gọi là A Na Hàm.

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Vị A La Hán có thể khởi lên niệm này, ‘Ta đắc đạo A La Hán’ chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Quả thật không, bạch Thế Tôn. Vì sao thế? Thật không có pháp gì gọi là A La Hán. Bạch Thế Tôn, nếu vị A La Hán khởi niệm này, ‘Ta đắc đạo A La Hán’, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.

Bạch Thế Tôn, Phật nói con được Vô tránh tam muội đệ nhất trong loài người, là A La Hán ly dục đệ nhất. Bạch Thế Tôn, con chẳng khởi niệm này, ‘Ta là A La Hán ly dục’. Bạch Thế Tôn, nếu con khởi niệm này, ‘Ta đắc đạo A La Hán’, thì Thế Tôn đã không nói Tu Bồ Đề thường an trụ trong hạnh tịch tịnh. Vì Tu Bồ Đề thật không chỗ hành, nên gọi là Tu Bồ Đề an trụ trong hạnh tịch tịnh.

Một bậc thánh từ Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán thì không có niệm, hay ý nghĩ, về một chủ thể “ta” (vô ngã) và một đối tượng “vào dòng” (vô pháp), nghĩa là không có ai vào, và không có chỗ nào để vào. Tánh Không là sự vô ngãvô pháp này, và tánh Không được chứng tron vẹn ở cấp độ A La Hán.

Không có niệm, hay không có ý nghĩ, đó là trạng thái Vô niệm, hay trạng thái tánh Không của tâm. Ý nghĩ là cái sanh ra giữa một chủ thể và một đối tượng.  Không có ý nghĩ thì chủ thể và đối tượng cũng không có, đó là trạng thái tánh Không.

Không có niệm, đó là trạng thái tánh Không. Nhưng dù có các niệm, đó vẫn là trạng thái tánh Không, bởi vì các niệm là vô tự tánh. Quan sát liên tục điều này, người ta dần dần nhận ra tánh Không. Không có niệm hay có niệm, tâm tĩnh hay động, tánh Không vẫn là nền tảng không nền tảng thường trực luôn luôn có mặt.

Một người đã đạt đến Nền tảng là tánh Không, thì dù có khởi niệm, niệm ấy khởi từ tánh Không, trụ trong tánh Không và diệt mất trong tánh Không, nên niệm ấy tự giải thoát, như tánh Không.

Bậc A La Hán đã đạt đến trọn vẹn tánh Không, không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giảgiải thoát hoàn toàn, sau khi thân mạng này chấm dứt thì vào Niết Bàn. Bậc Bồ tát ở địa thứ tám cũng có thể nhập Niết Bàn như vậy, nhưng vì bổn nguyện đại bi độ cho chúng sanh, nên vẫn tiếp tục con đường cho đến khi thành Phật. Bồ tát vẫn học hỏi tánh Khôngkhông giải tán thân tâm mình vào tánh Không (Kinh Đại Bát Nhã gọi là Học Không Bất Chứng), mà ở trong sanh tử cứu đời, do đó vẫn đi trên con đường thành Phật, con đường trí huệphước đức đầy đủ.

Chính vì đi trên tánh Không đồng thời vẫn ở nơi sanh tử như vậy mà tánh Không của Bồ tát thì cực kỳ vi diệu. Đó là “sắc tức là Không, Không tức là sắc”, nghĩa là “sanh tử tức Niết Bàn, Niết Bàn tức sanh tử”. Đây là vô trụ xứ Niết Bàn của hàng Bồ tát.

Tánh Không của hàng Bồ tát nhấn mạnh vào tánh Như, và do đó tánh Không của Bồ tátChân Không Diệu Hữu.

Nhưng ngay lúc này chẳng phải chúng ta không đang ở trong tánh Không bổn nhiên chăng, không “ thường an trụ trong hạnh thanh tịnh” chăng? Phải thấy hiện giờ tất cả đang ở trong tánh Không bổn nhiên, đang thường an trụ trong hạnh thanh tịnh, đó là cửa giải thoát.





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :