Larung Gar! Larung Gar! Sừng sững nguy nga Điện đài tráng lệ Ai đã từng đến với Larung Gar, Để ngắm mặt trời lên sáng ngời trên những ngọn đồi xanh ngát? Và trầm tư soi mình xuống thung lũng lúc về đêm?
Larung Gar! Larung Gar! Bỏ lại sau lưng những náo nhiệt phồn hoa Những lo toan tất bật Những danh lợi mịt mù Vượt những rặng núi tuyết cheo leo Những cung đường hiểm trở Những thảo nguyên hoang sơ nắng gió Qua những cánh đồng hoa cải mênh môngrực rỡ sắc vàng óng ả Ta về với Larung Gar Nơi giữa lưng chừngthời gian và trời đất Nơi mà bạc tiền và tri thứcthế gian chẳng đáng giá một xu!
Larung Gar! Larung Gar! Học viện với ngàn ngôi nhà đỏ thẫm kề nhau Được viền quanh bởi những ngọn đồi xanh mướt Đêm đêm trên thung lũng tuyết rơi gió hát Muôn vạn nến đèn rực rỡ ánh huyền linh Trong tĩnh mịch khói sương hoa cỏ hữu tình Tiếng Chuông ngân, tiếng Tù Và rền vang hòa trong lời Kinh trầm lắng: “Aum Mani Pad me Hum….”
Choáng ngợp, ngất ngây đêm Đông phương huyền bí Ôi! Larung Gar kỳ vĩ! Khiến bao kẻ đắm say, sững sờ, mê hoặc Tuyệt tácthiên nhiên, quà tặng của đất trời Ôi Larung Gar! Không phải trí Du-già Nào đủ sức ngợi ca!
Larung Gar! Larung Gar! Đâu rồi dáng Tượng vương Lẫm liệt uy nghi trên đỉnh đồi cao ngất Đâu rồi tiếng Ca-lăng-tần-già Lảnh lót buổi ban mai? Đồi hoa dại trắng xóa li ti sáng nay Còn chưa tan những hạt sương đêm óng ánh Mà từng cọng cỏ non đã thảng thốt trở mình, Nức nở mộng tàn canh!
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Thôi hết rồi một thuở hoàng kim Điện vũ vàng son, đền đài lầu cát Nào nến, nào hoa, nào cờ, nào phướn Nào trầm hương thơm ngát những ngày vàng! Larung Gar hôm qua còn Phật viện thênh thang Muôn tịch cốctrùng trùng san sát Thung lũng đỏ giữa ngàn mây xanh ngát Bốn vạn Tăng sĩ mười phương Rợp đỏ rừng y diệu thường rực rỡ Sáng nay biết phải về đâu?
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Từ nay, mỗi sớm mặt trời lên Sẽ không còn tiếng chuông ngân thanh thoát Tiếng Ốc Loa, chim hót Bánh xeMani ngỡ ngàng chệch choạng Những vòng quay bất chợt đứt lìa “Aum Mani Pad Me Hum”….
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Ngày hai mươi tháng bảy vừa qua Cuồng phong từ đâu ập tới Lửa cháy ngút trời Kèo cột rụng rơi Hàng ngàn tượng, tranh ứa lệ Muôn vạn Kinh sách oằn mình rũ rượi Lớp lớp Tăng chúng chơi vơi! Mạn-đà-la lấp lánh vỡ tan rồi!
Ôi! Larung Gar! Larung Gar! Tuyết sơn sáng nay máu nhuộm đỏ đồi Những ngôi nhà gỗ bậc thang với hàng cờ ngũ sắc Những rừng y rực màu đỏ thẩm Chìm trong biển lửa bạo tàn!
Larung Gar! Larung Gar! Sáng nay chú tiểuthơ ngâytung tăng đi tìm hoa dại Đâu hay đám sài lang kéo đến Nghiến nát nụ cười em Tuổi thơ trong veo em cất kỹ tận cuối chân trời Cách rất xa ngoài kia thế giới Những tưởng an bình, vuốt nanh không với tới Thế mà cũng chẳng thoát nổi móng sắc dài Của loài cọp sói hùm beo!
Ôi Larung Gar! Larung Gar! Ráng đỏ chiều nay vàng vọt mất rồi Thung lũng tươi xanh ủ ê mùi cỏ nát Rừng hoa dại hôm qua còn thơm ngát Chiều nay rúm ró nỗi kinh hoàng! Trên đỉnh đồi từng cụm tuyết điềm nhiên đông đặc
Chẳng nương tay ném thẳng xuống đất Phật bình an!
Ôi Padmakara! Ôi Milarepa! Người có hay chăng? Larung Gar giờ này Rã rời một bãi tha ma Rập rờn bóng rằn ri, họng súng Những đàn chim Kên chờ chực Mùi tử khí bao trùm khắp rặng núi Tuyết đớn đau! Những cánh hoa rừng quắc quéo tụm vào nhau Thung lũng chiều nay mặt trời ứa ra màu máu Núi không còn xanh, núi ngằn ngặt tím. Ba ngàn thế giới im lìm Nhìn Larung Gar trút hơi tàn vĩnh biệt!
Larung Gar! Larung Gar! Tiếng kêu cứu chìm trong tuyệt vọng Bởi người ta đang bận dự Hội nghịNhân quyền Người ta đang bận vỗ tay tán thưởng những Tham luậntriền miên Về một thếgiới tự do, không bạo cường, không xâm lấn. Những giọng người vẫn hùng hồn trong những Hội trường kín mít Biết nổi sao, Larung Garđang hấp hối, cong oằn? Nghe làm sao tiếng gió rít trở trăn? Tiếng giầy đinh đóng xuống đường nhức nhối Phật điệntrang nghiêm lố nhố bọn sài langphách lối Tăm tắp những cánh tay trụi trần hắc ám Và dùi cui giáng thẳng xuống đời nhau!
Larung Gar! Larung Gar! Tiếng kêu cứu chìm trong tuyệt vọng Chỉ có núi rừnghoang vu gào thét xé lòng Đêm nay Larung Gar Không tiếng Kinh cầu Không tiếng Linh, Tiêu, Loa, Ốc Chỉ có tiếng ma quỷ rú lên ghê rợn Tiếng đập cánh hả hê của bầy Kên Kên, và Quạ, và Diều Loẹt xoẹt ngấu nghiến trên những thân người sõng sượt… Nhì nhùng…. day dứt…. Những làn roi quất thẳng vào tim! Đau lịm thắt trời xanh ơi, tình Linh sơn cốt nhục!
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Giấc mộngNalada một thời thôi tan vỡ! Larung Gar huy hoàng, Larung Gar điêu tàn Rừng núi xác xơ! Thung lũng đỏ chìm trong màn lửa đỏ Chiều nay, loang lỗ trên vùng cỏ xanh tuyết trắng Rực lên, đỏ ối những phận người!
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Nỗi đau câm lặng Hong lên buổi chiều tàn thu Khói sập soài không dứt Trợn trạo rừng xanh nuốt không trôi niềm tủi nhục Quốc phá gia vong!
Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar! Gió vẫn rít từng cơn đau nhói Nến khuya nức nở nghẹn ngào Tràng hạt đứt lìa lăn lóc Hiền giả tôi, biết phải về đâu?
Từ tạ nhé Larung Gar! Đêm trắng này ta tặng nhau khúc trường ca vĩnh biệt Như bao người, như bao loài có máu, có tim Qua khỏi đêm nay, tôi sẽ không nhớ về một Larung Gar kỳ ảo Ở tận vùng đất Tạng xa xôi Bởi trong tim tôi Larung Gar đã có sẵn đây rồi! Tượng Phật không còn, Điện đài thành tro bụi Nhưng có một điều nhân loại phải tin Rằng Phật Tâm vẫn bất diệt dẫu vô hình Những ngôi Chùa tâm linh vẫn sáng ngờivững vàng hùng vĩ Trong muôn vạn tâm hồn Tăng sĩ nơi đây. Lửa dẫu thiêu tàn hàng ngàn Kinh sách Đốt làm sao Trí tuệ bậc xuất trần? Đèn nến gãy rời, tràng hạt dẫu đứt tung Ngăn sao nỗi đạo tâm hàng Thượng sĩ? Chùa vẫn trong ta Phật đang trong ta Trời Tự Tánhbao la Tâm Kim Cương bất hoại Trí Bát Nhã nào xa! Ngọc thiêu sắc vẫn trong ngần Sen trong biển lửa thơm lừng trổ hoa.[1]
ĐTL, 23:30, 20/7/2016
Sakya Như Bảo
[1] Dịch ý từ hai câu cuối trong bài kệThị Tịch của Thiền sưNgộ Ấn (thời Lý):
“Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, Liên phát lô trung thấp vị càn.”
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới.
Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN
Một đồng.. giữa lúc nguy nan
Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình..
Bão giông tan tác quê mình..
Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia....
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.