KINH PHÁP BẢO ĐÀN
Đôn Hoàng Bản
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Bản dịch tiếng Việt: Hòa thượng Thích Mãn Giác
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội PL. 2547 - DL. 2003
Lời đầu sách
Sự thực lịch sử về việc hình thành Thiền tông được khai quật từ động Đôn Hoàng ở vùng sa mạc Tân Cương tại Trung Á
Nguyên bản
Pháp Bảo Đàn kinh mà tôi dịch đây là bản mới tìm được từ động Đôn Hoàng, vùng
sa mạc Tân Cương, miền Trung Á. Bản này đã được viết ra vào khoảng năm 830 và trễ
nhất là năm 860 (theo giảo nghiệm lối viết chữ thảo ở thời đó, do một chuyên
viên danh tiếng, giáo sư Akira Fujieda của Đại học Tokyo). Đây là bản Pháp Bảo
Đàn xưa nhất của thế giới hiện nay. Trước đây, ở Việt Nam, tôi được biết ít
nhất có ba bản dịch Việt của ba dịch giả (Hòa thượng Thích Minh Trực, ông Đoàn
Trung Còn, và ông Tô Quế), nhưng cả ba bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán
Pháp Bảo Đàn kinh được viết vào thế kỷ thứ XIII (năm 1291), gọi bản Tông Bảo;
bản này không khác lắm với bản Đức Dị được in vào năm 1290 tại Nam Hải (bản Đức
Dị đã được du nhập vào Triều Tiên vào năm 1316 và tất cả bản Pháp Bảo Đàn kinh
bằng tiếng Triều Tiên đều xuất phát từ bản Đức Dị). Bản Pháp Bảo Đàn kinh được
thông dụng nhất hiện nay ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chính là bản Tông
Bảo được viết vào năm 1291 và được in trong Đại Tạng kinh ở đời Minh. Ngoài
những bản vừa kể, ít nhất chúng ta được biết có gần mười bản Pháp Bảo Đàn kinh
khác nhau, ngoài bản xưa nhất tìm lại được ở động Đôn Hoàng, viết vào khoảng
những năm 830-860 (chính là bản tôi dịch), những bản khác là bản Huệ Hân (năm
967), bản Thiều Hồi (năm 1013), bản Tồn Trung (năm 1116), bản Bắc Tống (năm
1153). Ngoài ra có hai bản đáng lưu ý và được coi đầy đủ nhất là hai bản ở Nhật
Bản, bản Đại Thừa Tự (Daijòji) và bản Hưng Thánh Tự (Kòshòji); bản Đại Thừa Tự
thì dựa vào bản Tồn Trung, còn bản Hưng Thánh Tự thì dựa vào bản Bắc Tống và
bản Thiều Hồi. Tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh khác nhau vừa kể trên đều
xuất phát từ bản duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đôn Hoàng (830-860) mà
tôi dịch ở đây. Bản Đôn Hoàng là bản ngắn gọn nhất và chỉ gồm có mười hai ngàn
chữ, còn những bản khác (bản đời Nguyên và Minh) gồm khoảng hai mươi mốt ngàn
chữ. Bản chữ Hán tôi dịch ở đây được dựa theo bản chữ Hán đã được san định kỹ
lưỡng do công phu uyên bác của giáo sư Philip B.Yampolsky của Đại học Columbia
(The Platform Sutra of the Six Patriarch, the Text of the Tun-Huang Manuscript
with Translation, Introduction, and Notes by Philip B.Yampolsky, Columbia
University Press, New York, 1967). Trong phần mở đầu của quyển sách, giáo sư uyên
bác Yampolsky đã cống hiến cho độc giả những dữ kiện lịch sử rõ rệt về sự thành
hình của Thiền tông, căn cứ theo những tài liệu được khai quật từ động Đôn
Hoàng; giáo sư đã chịu khó tham khảo hàng ngàn thiên khảo cứu Trung Hoa và Nhật
Bản, cho độc giả nhìn thấy lại sự diễn biến của Thiền tông tại Trung Hoa từ
những thế kỷ thứ VI, VII, VIII và IX, giáo sư đã tham khảo tất cả những tài liệu
dữ kiện liên hệ đến Thiền tông ở những thế kỷ ấy, mà ngay rất nhiều học giả
Trung Hoa và Nhật Bản cũng ít biết đến. Bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán do
giáo sư Yampolsky san nhuận thấu đáo, nhưng tôi không hẳn hoàn toàn đồng ý với
giáo sư ở nhiều điểm quan trọng, và khi dịch thì tôi dựa hẳn theo nguyên tắc
chữ Hán và không đồng ý với giáo sư trong vài ba chi tiết ở nguyên bản. Giáo sư
đã tự ý sửa đổi nhiều và thường lấy tiêu chuẩn nơi bản Hưng Thánh Tự. Tôi thì
chỉ chú trọng giữ lại sắc thái độc đáo của nguyên bản động Đôn Hoàng, chỉ trừi
ra có những điểm chép sai quá lộ liễu thì tự ý sửa lại cho đúng văn pháp. Khi
dịch, tôi cũng dịch trung thành theo những thành ngữ thông tục ở đời Đường, chẳng
hạn thành ngữ “đệ nhất vật” (phân đoạn 13 của bản kinh) là một thành ngữ thông
tục ở đời Đường có nghĩa là “không bao giờ trông bất cứ trường hợp nào” chứ
không có nghĩa ngày nay là “vật thứ nhất”, chẳng hạn thành ngữ “ưng thị” (phân
đoạn 35 bản kinh) cũng là chữ thông tục đời Đường có nghĩa là “tất cả”. Còn chữ
“đường” (phân đoạn 35), tôi không đồng ý với Yampolsky mà dịch là “Trung Quốc”
(hiểu theo nghĩa đời Đường). Tôi hiểu “đường” ở đây có nghĩa là “hành lang”,
“con đường đi từ thềm ra cửa”; ý kiến này cũng đồng ý với giáo sư Nhật nổi tiếng
về Thiền học Ui Hakuju, tác giả bộ Zenshu shi kenkyu, cuốn II, trang 148
(Tokyo, 1939-43). Tôi tạm đưa ra vài thí dụ vừa rồi có tính cách kỹ thuật về
phương diện khảo cứu ngôn ngữ học, nhưng có một điểm cần phải nhấn mạnh nơi
đây, trong mọi trường hợp thảo luận và quyết định về những điểm dị đồng trong
những bản khác nhau trong kinh điển Phật giáo, tiêu chuẩn quyết định vẫn là nội
dung giáo lý căn bản; nói một cách khác, không thể chỉ thuần túy đứng về mặt
khảo sát ngôn ngữ học mà có thể quyết định việc san nhuận kinh điển mà đồng
thời phải lấy ánh sáng căn bản của giáo lý được thuyết minh trong chính kinh
điển ấy để soi chiếu và giải minh những vấn đề dị biệt ở bình diện hình thức
văn từ có tính cách lịch sử cục bộ giới hạn. Có nắm được giáo lý căn bản của
ngài Huệ Năng thì tất cả những vấn đề nan giải về sử học và ngôn ngữ học sẽ
được giải quyết một cách nghiêm chỉnh. Nói một cách khác hơn nữa, phải nhìn con
người và hành trạng của ngài Huệ Năng, phải nhìn bản Pháp Bảo Đàn kinh với cái
nhìn của một thiền sư, một người đã được nuôi dưỡng trong truyền thống của
Thiền tông, thì mới thấy được những gì mà những người khác, dù là học giả uyên
bác nhất, cũng không có đủ điều kiện tâm linh để nhìn thấy được. Đó là lý do
tại sao tôi cảm thấy cần thiết phải dịch lại nguyên bản xưa nhất của Pháp Bảo
Đàn kinh và nhất là giới thiệu cho dân tộc Việt