KINH NHẬP
LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên
Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
Quyển thứ chín
PHẨM THỨ MƯỜI
TÁM: TỔNG
I- Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên thâm nghĩa kinh này mà nói kệ rằng:
Như mùa hạ
cầm thú
Lòng mê thấy
sóng tràn
Các cầm thú
thích nước
Nước đó không
thật chân.
Như vậy chủng
tử thức
Thấy cảnh giới
động lên
Các chúng sinh
ngu dại
Thấy vật mắt
có màn (che).
Suy nghĩ, được
suy nghĩ
Hay suy nghĩ (năng tư duy) lìa luôn
Thấy Thật đế
phân biệt
Biết được giải
thoát liền.
Các pháp chẳng
bền vững
Hư vọng phân
biệt sinh
Hư vọng phân
biết trống (không)
Phân biết đó theo
nương.
Năm ấm, thức
các pháp...
Như bóng cây
nước lồng
Như thấy huyễn
hóa, mộng...
Trong thức chớ
biệt phân.
Huyễn khởi
bày máy móc
Mộng, chớp, mây
thường luôn
Dứt ba pháp
tương tục
Giải thoát được
chúng sinh.
Nương các pháp
tà niệm
Vậy nên có
thức sinh
Tám chín đủ
thứ thức
Như sóng trong
nước tràn.
Nương pháp huân
(tập) chủng tử
Thường buộc thân
chắc bền
Lòng lưu chuyển
cảnh giới
(Như) Sắt theo
từ thạch nương.
Y chỉ các
sinh chúng
Lìa các
giác, tính chân
Xa lìa các
việc làm
Lìa tri, khả
tri pháp.
Như huyễn tam
muội hành
Sinh ra hạnh
Thập địa.
Ông quán
pháp tâm vương
Lìa tướng tâm,
cảnh, thức
Thì biết lòng
chuyển luôn
Liền trụ hằng
bất biến.
Trụ cung điện
hoa sen
Như tướng cảnh
giới huyễn
Trụ thắng xứ
đó xong
Được các hạnh
tự tại.
Như Ma ni
hiện lên
Tác độ chúng
sinh nghiệp
Hữu vi, vô
vi không (có)
(Diệt) Trừ những
tâm phân biệt.
Ngu si vô
trí dùng
Như thạch nữ
mơ trẻ (con)
Tịch tịnh và
vô sinh
Người năm ấm
tương tục.
Các cảnh giới
nhân duyên
Không hữu và
phi hữu
Phương tiện
ta nói lên
Không thật tướng
như vậy.
Ngu si cho
thật chân
Không năng tướng,
khả tướng
Tất cả pháp
ta thông
Mà tất cả
chẳng thông.
Ta có Nhất
Thiết Trí
Mà không Nhất
Thiết Trí
Phàm phu ngu
biệt phân
Tự nói trí
thế gian.
Ta chưa từng
giác biết
Cũng chẳng
giác chúng sinh.
Tất cả pháp
duy tâm
Như mao luân,
các ấm
Luân tướng rốt
ráo không
Chỗ nào có
phân biệt?
Vốn vô thỉ
sinh vật
Trong các duyên
cũng không
Con thạch nữ,
hoa không
Hữu vi nếu
hay thấy.
Bấy giờ có
thể thấy
Thấy pháp mê,
trụ liền
Ta chẳng vào
Niết Bàn
Chẳng diệt các
nghiệp tướng.
Phân biệt thức
diệt tan
Đây là Phật
Niết Bàn
Pháp tướng chẳng
phải diệt
Ngu si vọng
phân biệt.
Như nước dữ
khô khan
Bấy giờ chẳng
sinh sóng
Đủ thứ thức
diệt tan
Diệt mà chẳng
sinh nữa.
Vô thức tướng
và không
Vốn chẳng sinh
như huyễn
Có không lìa
có không
Các pháp này
như mộng.
Ta nói một
pháp chân (thật)
Lìa khỏi các
giác quán
Cảnh giới diệu
Thánh nhân
Lìa thể tướng
hai pháp.
Như thấy tướng
lửa huỳnh(đom đóm)
Đủ thứ mà không
thật
Thấy bốn đại
thế gian
Đủ thứ cũng
như vậy.
Như nương đá,
cỏ, cây
Thị hiện các
tướng huyễn
Tướng huyễn
kia là không
Các pháp thể
như vậy.
Thủ trước khả
thủ không
Không giải thoát,
không buộc
Như huyễn như
lửa hừng
Như mộng, màn
trong mắt.
Nếu như vậy
thấy thật
Lìa phân biệt
cấu xong
Liền trụ định
như thật
Thấy ta không
ngờ vực.
Trong này không
tâm thức
Như ngọn lửa,
hư không
Như vậy biết
các pháp
Mà chẳng biết
một pháp.
Lìa có,
không các duyên
Nên chẳng
sinh các pháp
Ba cõi mê
hoặc lòng
Vậy nên đủ
thứ thấy.
Mộng và pháp
thế gian
Hai pháp này
bình đẳng
Khả kiến
cùng tư sinh
Các xúc và
cả lượng
Thế gian thân
vô thường
Đủ thứ sắc
cũng vậy.
Tôn giả nói
thế gian
Việc sở tác
như vậy
Chủng tử ba
cõi lòng
Mê hoặc chưa
thấy hiện.
Biết phân biệt
thế gian
Không thật pháp
như vậy.
Thấy như vậy
thế gian
Hay lìa khỏi
sinh tử
Sinh và cùng
chẳng sinh
Người tu trí
tuệ thấy
Diệu cảnh A
- ca - ni
Lìa chỗ các
hạnh ác.
Thường hành không
phân biệt
Lìa các số
pháp tâm
Được lực thông
tự tại
Đến chỗ những
tam muội.
Chỗ đó Chính
giác thành
Trong này thành
hóa Phật
Các pháp chẳng
diệt, sinh
Thể các pháp
như vậy
Ứng hóa ức
không lường
Ra đời trong
thể đó.
Người ngu nghe
Phật lý
Như vang chẳng
nghĩ bàn
Xa lìa đầu,
giữa, cuối
Và lìa pháp
có không.
Khắp chẳng động,
thanh tịnh
Không các tướng
hiện tướng
Thức tính
che pháp thân
Tất cả có
trong thân
Mê hoặc là
huyễn có
Huyễn chẳng phải
mê nhân(nhân của mê hoặc)
Mê hoặc pháp
tâm không (có)
Chẳng phải chẳng
ít có.
Hai pháp buộc
tâm nương
A lê gia
thức khởi
Thấy như vậy
chỉ tâm
Pháp ta như
nước bạo.
Như vậy quán
thế gian
Bấy giờ các
tâm chuyển
Mới là con
ta chân
Thành tựu hạnh
thật pháp.
Nóng, ướt và
đồng, bền (chắc)
Ngu phân biệt
các pháp
Phi thật (mà)
nghĩ có luôn
Không năng tướng,
khả tướng.
Tám thứ vật
một thân (?)
Hình tướng
và các căn
Ngu phân biệt
có sắc
Mê hoặc lưới
bao thân.
Các nhân duyên
hòa hợp
Ngu si phân
biệt sinh
Chẳng biết pháp
như vậy
Trong ba cõi
chuyển vần.
Các pháp và
ngôn ngữ
Là phân biệt
(của) chúng sinh
Mà các pháp
là không
Như huyễn hóa,
như mộng...
Các pháp như
vậy xem
Chẳng trụ thế
Niết Bàn
Tâm đủ thứ
chủng tử
Hiện thấy cảnh
giới tâm.
Khả kiến phân
biệt sinh
Ngu si ưa
hai pháp
Không trí, ái
và nghiệp
Là tâm, tâm
pháp nhân.
Pháp sinh nương
tha lực
Nên nói, pháp
tha lực
Nương pháp việc
biệt phân
Lòng mê hoặc
cảnh giới
Nên phân biệt
chẳng thành
Mê hoặc tà
phân biệt.
Tâm nương nhân
duyên buộc
Vậy nên sinh
các thân
Nếu lìa các
nhân duyên
Ta nói, chẳng
thấy pháp.
Lìa các pháp
nhân duyên
Lìa khỏi các
tướng pháp
Các pháp, chẳng
trụ trong
Ta nói, chẳng
thấy cảnh
Như trưởng giả,
quốc vương...
Đem đủ loại
cầm thú
Tập họp trong
đầm hoang
Để bày cho các
con.
Ta như vậy
các tướng
Đủ pháp tượng
trong gương
Nội thân trí
là con
Nói lên pháp thật
tế.
Như sóng dậy
biển cả
Từ nhân
duyên gió sinh
Hay khởi dậy
hiện tiền
Mà không có
đoạn tuyệt.
A - lê - gia
thức thường
Nương gió cảnh
giới khởi
Sóng nước thức
đủ loại
Hưng khởi sinh
chẳng dừng.
Tướng năng thủ,
khả thủ
Chúng sinh thấy
như thế
Các tướng khả
kiến không (có)
Mao đạo thấy như
vậy
A lê gia
thức cùng
Ý và cả ý
thức
Năng, khả thủ
lìa xong
Ta nói tướng
như vậy.
Trong năm ấm,
ngã không
Không người,
không sinh chúng
Sinh là các
thức sinh
Diệt là các
thức diệt.
Như trong họa
(vẽ) thấp cao
Khả kiến không
như thế
Như vậy các
vật thể
Tướng như vậy
thấy không(có).
Như Càn thát
bà thành
Cầm thú khát
thích nước
Thấy “Khả kiến”
như trên
Trí quán không
như vậy.
Lìa tưởng và
khả lường (lượng)
Phi quả cũng
phi nhân
Lìa năng giác,
sở giác
Lìa năng kiến,
khả kiến
Giác nương ấm
nhân duyên
Không người thấy
“Khả kiến”
Nếu chẳng thấy
khả kiến
Làm sao tu pháp
kia?
Nhân duyên, nhân,
thí dụ
Lập ý và
nhân duyên
Mộng, Càn
thát bà, luân
Ngọn lửa và
nhật, nguyệt
Ánh sáng, huyễn
vân... vân...
Ta ngăn các
pháp sinh.
Như mộng huyễn
mê hoặc
(Trống)
“Không” phân biệt chúng sinh
Chẳng nương
vào ba cõi
Trong, ngoài cũng
đều không.
Thấy các hữu
chẳng sinh
Mới được Vô sinh
nhẫn
Được tam muội
Như Huyễn
Và cả Như Ý
thân,
Các (thần) thông
và tự tại
Lực, đủ thứ
pháp tâm.
Các pháp vốn
chẳng sinh
“Không”, không thể
tướng pháp.
Người mê chẳng
hiểu thông
Tùy nhân duyên
sinh diệt.
Như ngu si
phân biệt
Tâm thấy được
tự tâm
Thấy đủ thứ
ngoại tướng
Thật Không pháp
khả kiến.
Thấy Phật tượng,
tướng xương.
Và các Đại lìa tan
Giỏi hiểu tâm
hay biết
Trụ trì tướng
thế gian.
Thân trụ trì
tư sinh (của cải để sinh sống).
Chọn lấy ba cảnh
giới
Thức chọn thức
cảnh giới
Ý, thức, phân
biệt ba.
Phân biệt, khả
phân biệt
Cảnh giới có chữ
thôi
Chẳng thể thấy
pháp thật
Mê chẳng thấy
giác kia.
Các pháp không
tự thể
Kẻ trí thì
giác ngộ
Người tu vậy
mới ngưng
Trụ ở chỗ vô
tướng.
Như bức vẽ
về gà
Ngu quyết gà
của ta
Nhu phàm phu
dại lấy
Ba thừa là
một vậy.
Không những người
Thanh Văn
Cũng không Bích
Chi Phật
Hình sắc thấy
Thanh Văn
Và thấy các
đức Phật
Các Đại từ
Bồ tát
Thị hiện là
Hóa thân.
Ba cõi chỉ
là tâm
Lìa hai thứ
thể tướng.
Các tướng đó
chuyển biến
Thì tức là
Chân Như.
Pháp và hành
tướng người
Nhật nguyệt quang,
lửa rực
Những báu lớn
ma ni
Làm việc không
phân biệt.
Như vậy pháp
Thế Tôn
Như mù thủ
mao luân
Như vậy phân
biệt pháp
Ngu si hư
vọng thân.
Lìa khỏi sinh,
trụ, diệt
Và lìa thường,
vô thường
“Khả kiến” nhiễm,
tịnh bỏ
Như vừng
lông trong không.
Như người trúng
Lang tảng (một loại cỏ làm thuốc)
Thấy trên đất,
hình tượng
Tất cả sắc
như vàng
Mà đó chẳng
có vàng.
Như vậy người
ngu dại
Vô thỉ, pháp
nhiễm tâm
Huyễn, ngọn lửa
sinh có
Người ngu cho
là chân (thật).
Một con (tử)
và không con
Biển cả là
nhất tử (một con(?))
Cũng là vô
lượng tử
Ông quán chủng
tử lòng.
Nhất tử như
sạch trong
Chuyển thành
không chủng tử
Bình đẳng không
biệt phân
Khởi tức là
sinh tử.
Hay sinh đủ
thứ con
Vậy chủng tử
gọi tên.
Nhân duyên chẳng
sinh pháp
Nhân duyên chẳng
diệt pháp,
Sinh pháp chỉ
nhân duyên
Tâm phân biệt như
vậy.
Ba cõi chỉ
giả tên
Thật sự không
pháp thể
Quán các pháp
thật thể
Mê hoặc ta
chẳng ngăn.
Thật thể chẳng
sinh pháp
Quán vậy giải
thoát liền
Ta chẳng thấy
huyễn không
Nói các pháp
là có
Điên đảo như
chớp nhanh
Vậy nên nói
như huyễn.
Phi bản
sinh, như sinh
Các nhân duyên
vô thể (không hình thể)
Không có xứ
và thể
Chỉ có lời
ngữ ngôn.
Chẳng ngăn duyên
sinh diệt
Chẳng ngăn hòa
hợp duyên
Ngăn những ngu
si kiến
Phân biệt nhân
duyên sinh.
Thật không thức
thể pháp
Sự việc, bản
thức không
Ngu si sinh
phân biệt
Như ác giác
thây chết.
Ba cõi chỉ
là tâm
Các Phật tử
hay thấy (năng kiến)
Liền được chủng
loại thân
Lìa làm hữu
vi pháp.
Được Lực tự
tại, thông
Và pháp cộng
tương ưng
Hiện tất cả
các sắc
Tâm pháp như
vậy sinh
Mà không tâm
và sắc
Tâm vô thỉ
mê hoặc
Bấy giờ người
tu hành
Được thấy đến
vô tướng.
Trong trí tuệ
xét xem
Chẳng thấy
các sinh chúng
Tướng và việc
giả danh
Ý thủ các
động pháp.
Các con ta
quá hơn
Tu hành không
phân biệt
Huyễn, Càn
thát bà thành
Vừng lông và
ngọn lửa.
Không thật mà
thấy chân
Thể các pháp
như vậy.
Thấy các
pháp như tâm
Không thể tướng
như vậy.
Tất cả pháp
chẳng sinh
Chỉ thấy pháp
mê hoặc
Mao đạo mê
phân biệt
Do trụ pháp
nhị biên.
Sơ thức sinh
phân biệt
Đủ thứ chủng
tử huân (tập)
Thức như nước
bạo khởi
Cắt đứt thì
chẳng sinh.
Đủ thứ niệm
quán pháp
Nếu chỉ sinh
trong lòng
Như trong
vách hư không
Vì sao chẳng
sinh được?
Nếu có ít
tương quan
Thì tâm từ
duyên có
Nếu sinh từ
nhân duyên
Duy tâm, chẳng
được nói.
Tâm thủ ở tự
tâm
Không pháp
không nhân sinh
Pháp thể tâm
thanh tịnh
Không huân (tập)
trong hư không.
Thủ tự tâm
hư vọng
Vậy nên tâm
chẳng sinh
Ngoại pháp không
thể thấy
Vậy nên nói
duy tâm.
Bản thức chỉ
là tâm
Ý hay niệm
cảnh giới
Hay thủ các
cảnh giới
Nên ta nói
duy tâm.
Tâm thường
vô ký pháp
Chọn tướng, ý
nhị biên
Chọn hiện pháp
là thức
Đó là lành,
chẳng lành (bất thiện).
Lìa hai thứ
tướng thức
Là Đệ Nhất
Nghĩa môn
Nói ba thừa
sai biệt
Tướng Tịch tịnh
là không.
Nếu tâm trụ
tịch tịnh
Ở Phật địa
tu hành
Là lời Phật
quá khứ
Hiện, vị lai
cũng thế.
Sơ - thất
địa là tâm
Tịch tịnh Đệ
Bát địa
Nhị địa là
chỗ hành (hành xứ)
Pháp ta là địa
khác (dư địa)
Tự nội thân
sạch trong
Tự tại địa
ta đó
Chỗ tự tại
rốt cùng
Hiện A Ca Ni
Sấc.
Như ngọn lửa
vân... vân...
Mà phát ra
ánh sáng
Đủ thứ khả
lạc tâm
Hóa làm ở ba
cõi.
Hoặc Hữu trước
hóa thành
Mà hóa làm
ba hữu
Chỗ đó pháp
tuyên dương
Tự Tại địa
ta đó.
Các địa không
thời gian
Đất nước chuyển
cũng vậy
Qua nhưng pháp
địa tâm
Là trụ quả
Tịch tịnh,
Thật
không(có) gọi thật chân
Mà thấy được
đủ thứ
Người ngu thủ
đảo điên
Là đủ thứ
điên đảo.
Như trí không
biệt phân
Có việc chẳng
tương ứng
Chẳng phải sắc
do tâm
Vậy nên không
phân biệt.
Các thiền và
không lường
Và tam muội
vô sắc
Các tướng rốt
cùng diệt
Vậy nên
trong tâm không.
Tu đà hoàn
quả pháp
Vãng lai và
Bất Hoàn
Và các quả
la hán
Tất cả mê
hoặc lòng.
Sát na, Không,
Vô thường
Hữu vi, ngu
phân biệt
Thí dụ, chủng
tử, sông
Nghĩa sát na
phân biệt
Sát na không
phân biệt
Lìa những
pháp đã làm
Tất cả pháp
chẳng sinh
Ta nói sát
na nghĩa.
Có, không nói
đến sinh
Tăng - Khư...
vọng tuyên nói
Tất cả pháp
không nói
Cũng người
đó nói lên.
Có bốn thứ
nói pháp:
Vãng đáp, phản
vấn đáp
Phân biệt sai
biệt đáp
Mặc đáp, ngăn
ngoại đạo.
Thế đế tất
cả có
Đệ Nhất Nghĩa
đế không
Mà tướng thật
thể không
Là Đệ Nhất
Nghĩa đế.
Thấy pháp hư
vọng xong
Vậy nên nói
thế đế
Nhân ở ngôn
ngữ sinh
Không thật thể
như vậy.
Không việc có
ngữ ngôn
Trong thế đế
thật không
Tức là việc
điên đảo
Khả kiến cũng
là không.
Nếu việc điên
đảo có
Tịch tịnh rốt
cùng không
Nương vào việc
điên đảo
Và thấy các
pháp sinh.
Rốt ráo định
là không
Tức là không
thể tướng
Những đủ thứ
sở kiến
Huân tập não
phiền sinh.
Tâm thấy ngoài
mê hoặc
Hiện thủ cảnh hiện
tiền
Phân biệt không
phân biệt
Là pháp tướng
thật, không (trống).
Các tướng như
huyễn tượng
Như cây lá
màu vàng
Là người thấy
khả kiến
Huân tập tâm
vô minh.
Thánh nhân chẳng
mê thấy
Chẳng thấy thật
trung gian
Mê hoặc tức
là thật
Do thật tức
trung gian
Xa lìa các
mê hoặc
Các tướng nếu
hay sinh
Tức là kia
mê hoặc
Như màn (che)
mắt chẳng trong (sạch)
Như mờ thấy
vừng lông(mao luân)
Nương mê thủ các
pháp.
Ở trong các
cảnh giới
Ngu si thủ
là pháp.
Các pháp như
vừng lông
Ngọn lửa, nước
mê hoặc
Ba cõi như
huyễn mộng
Tu hành được
giải thoát.
Phân biệt, khả
phân biệt
Hay sinh ra phân
biệt
Phược (buộc),
khả phược và nhân.
Sáu thứ nhân giải
thoát.
Không (có) Địa
và các Đế
Không đất nước
và hóa
Phật Bích
Chi, Thanh Văn
Chỉ là tâm
phân biệt.
Thể người (nhân
thể) và năm ấm.
Các duyên và
vi trần
Thắng nhân (người
thắng) tự tại làm.
Chỉ là tâm
phân biệt
Mọi chỗ tâm
khắp cùng
Mọi chỗ đều
là tâm
Do tâm chẳng
giỏi quán
Các tướng
tâm tính không (có).
Trong năm ấm
không ngã
Trong ngã, năm
ấm không (có)
Phân biệt
không là pháp
Mà pháp chẳng phải
không.
Như ngu si
phân biệt
Có tất cả
các pháp
Như vậy thấy
có thật
Tất có nên
thấy thật.
Tất cả pháp
nếu không
Không nhiễm,
tịnh cũng không
Ngu si thấy
như vậy
Pháp đó chẳng
như vậy.
Tướng mê hoặc
biệt phân
Là tha lực
phân biệt
Tướng đó sẵn
có tên
Tên là tướng
phân biệt.
Tên tướng là
phân biệt
Hòa hợp việc
nhân duyên
Nếu chẳng
sinh tâm đó
Là tướng Đệ
nhất nghĩa.
Báo tướng Phật
thể chân(thật)
Và tướng Phật biến
hóa
Bồ tát và
chúng sinh
Cùng đất nước
mười phương.
Pháp tập khí
hóa Phật
Và tạo tác
hóa Phật
Tất cả đều
từ nước
A Di Đà mà
ra
Ứng, hóa Phật
nói pháp
Và Báo Phật
nói pháp
Kinh điển rộng
tuyên dương
Ông nên biết
mật ý.
Phật tử sẵn
có nói
Và với các
Thế Tôn
Là đều hóa
Phật nói
Chẳng phải người
thuần(thục) nói.
Là các pháp
chẳng sinh
(Mà) Pháp đó
chẳng phải không
Huyễn, Càn
thát bà thành
Như mộng hóa
tương tợ.
Đủ thứ chuyển
theo lòng
Chỉ tâm, phi
pháp khác
Tâm sinh, đủ
thứ sinh
Tâm diệt, đủ
thứ diệt.
Chúng sinh vọng
phân biệt
Không vật mà
thấy vật
Không nghĩa chỉ
là tâm
Không phân biệt
được thoát.
Đời vô thỉ
luận suông(hí luận)
Y chỉ ở
phiền não
Các phân biệt
huân tu
Vậy nên sinh
tà kiến.
Thứ không phân
biệt nghĩa
Chân như là
trí cảnh
Chuyển đó là
tịch tịnh
Là cảnh giới
Thánh nhân.
Quan sát nghĩa,
suy nghĩ
Là phàm phu suy
nghĩ.
Niệm Chân như
suy nghĩ.
Là chư Phật
suy nghĩ.
Phân biệt các
pháp thể
Tất cả pháp
chẳng sinh
Nương tha lực
nhân duyên
Chúng sinh mê
phân biệt.
Tha lực nếu
sạch trong (thanh tịnh)
Lìa phân biệt
tương ứng
Chuyển đó tức
Chân như
Lìa phân biệt
là hạnh.
Chớ phân biệt
biệt phân
Phân biệt là
không thật
Phân biệt
pháp mê hoặc
Thủ, khả thủ
chẳng cùng (tận).
Thấy ngoại cảnh
phân biệt
Phân biệt là
thể thật
Tâm phân biệt
biệt phân
Pháp đó nhân duyên
sinh.
Nghĩa ngoại đạo
tà kiến
Vô nghĩa chỉ
là tâm
Quan sát lượng
tương ưng
Hay diệt thủ
khả thủ(lấy).
Cảnh giới
bên ngoài không(có)
Ngu si vọng phân
biệt
Huân tập thêm
lớn lòng
Tượng tợ
sinh các pháp.
Hai phân biệt
diệt tan
Cảnh giới Chân như
trí
Vô pháp tướng
phát sinh
Chẳng nghĩ bàn
Thánh cảnh.
Phân biệt và
tướng danh
Thật thể hai thứ
tướng
Chánh trí và
Chân như
Là thành tựu
thật thể.
Cha mẹ hòa
hợp nương(theo)
A lê gia
thức hợp
Như chuột, váng
sữa, bình...(?)
Chung trắng,
đỏ tăng trưởng.
Mụt nhọt
dày, thây cong
Chẳng sạch nương
họa tiết
Gió nghiệp bốn
đại tăng (trưởng)
Như những trái
thành thục (chín mùi)
Năm và ở năm
năm (ngũ cập ư ngũ ngũ(?))
Và có chín thứ lỗ
Những lông che
khắp cùng
Tăng trưởng sinh
như vậy.
Sinh như
trùng trong phân
Như người thức
trong ngủ
Mắt thấy sắc,
niệm khởi
Sinh phân biệt
lớn thêm.
Phân biệt và
chuyên niệm
Rồi hòa hợp
môi răng
Miệng bắt đầu
nói năng
Như Anh vũ
đùa tiếng (lộng thanh).
Các ngoại đạo
nói định
Đại thừa chẳng
quyết định
Nương tâm chúng
sinh định
Tà kiến chẳng
thể gần.
Thừa ta, trí
nội chứng
Vọng giác chẳng
phải cảnh(giới)
Sau khi Phật
Niết Bàn(Diệt độ)
Vị lai sẽ có
kẻ
Này Đại Tuệ!
Lắng nghe!
Có kẻ trì
pháp ta
Ở trong nước
nam lớn (?)
Có Đại đức
Tỳkheo
Tên Long Thọ
Bồ tát
Giỏi phá thấy
có không (hữu vô kiến)
Pháp ta vì
người nói
Pháp Đại thừa
không trên (Vô thượng).
Chứng được Hoan
Hỷ địa
Vãng sinh nước Lạc
An.
Trí tuệ quan
sát pháp
Chẳng thấy pháp
thể chân(thật)
Vậy nên chẳng
thể nói
Và nói thể
cũng không.
Nếu nhân
duyên sanh pháp
Chẳng được
nói có, không
Trong nhân duyên
có vật
Ngu phân biệt có,
không.
Tà kiến, hai
tà pháp
Tà biết lìa
pháp ta
Tất cả danh
tự pháp
Thường học vô
lượng kiếp.
Đã học lại
học thêm
Cùng chung nhau
phân biệt
Nếu chẳng
nói các tên
Thì thế gian
mê hoặc.
Vậy nên tạo
tự danh
Vì trừ nghiệp
mê hoặc
Ba thứ phân
biệt nương
Ngu si phân
biệt pháp.
Mê phân biệt
nương danh(tên)
Và nhân
duyên hay sinh
Pháp chẳng sinh,
chẳng diệt
Tự tính như
hư không.
Pháp vô thể
là thể
Tướng phân biệt
tức thể
Huyễn hóa và
bóng hình
Ngọn lửa, mộng,
tiếng vang
Càn thát bà,
vừng lửa...
Các pháp như
vậy sinh
Chẳng hai, Chân
như, không(trống không)
Thật tế và
pháp thể.
Ta nói, phân
biệt không (có)
Thành tựu pháp
tướng đó
Cảnh giới rỗng
miệng, lòng
Thật mới lập
hư vọng (?)
Tâm rơi vào
hai biên
Vậy nên lập
phân biệt.
Có, không
rơi hai biên
Do tại cảnh
giới tâm
Xa lìa các
cảnh giới
Bấy giờ chính
diệt tâm.
Do lìa cảnh
giới thủ
Đó diệt, chẳng
có, không
Như cảnh giới
Thánh nhân
Người ngu chẳng
thể biết.
Trụ Chân như
có diệt
Kẻ trí có
thể nhìn
Như các pháp
đó trụ
Người trí có
thể nhìn
Pháp thể chẳng
như vậy
Do tướng các pháp
không
Kẻ ngu si
thấy sắt
Phân biệt cho là
vàng.
Chẳng phải vàng
(mà) thấy vàng
Ngoại đạo thủ pháp
vậy.
Vốn không nói
trước sinh(thỉ sinh).
Trước sinh sau
hoàn(trở lại) diệt.
Từ nhân
duyên có, không
Lời này ta
chẳng dạy
Pháp vô thỉ
vô chung
Không tướng trụ
như vậy.
Do trụ tướng
thế gian
Người tà giác
chẳng biết
Pháp quá khứ
chẳng không
Pháp vị lai
là có
Pháp hiện tại
cũng có
Chẳng nên
nói pháp sinh.
Khi chuyển và
hành tướng
Các đại và các căn
Hư vọng thủ
“trung ấm”(phần còn lại sau khi chết)
Nếu thủ (lấy)
phi giác thì
Tất cả Phật
Thế Tôn
Chẳng nói
nhân duyên sinh.
Nhân duyên tức
cõi thế
Như Càn thát bà
thành
Chỉ pháp duyên
hòa hợp
Nương pháp
này sinh pháp.
Lìa các pháp
hòa hợp
Chẳng diệt cũng
chẳng sinh
Gương và ở
trong nước
Mắt và khí
(đồ) ma ni
Mà thấy các
cảnh tượng (hình dáng trong gương).
Các ảnh tượng là
không
Như thú thích
“không thủy”
Thấy đủ thứ
sắc hình
Đủ thứ tựa
như có
Như mộng, con
thạch mỡ.
Thừa ta phi
Đại thừa
Phi thanh cũng
phi tự (chữ)
Phi giải thoát,
phi đế
Phi cảnh giới
tịch tịnh
Mà thừa ta,
Đại thừa
Các tam muội
tự tại.
Thân như ý
đủ thứ
Hoa tự tại trang
nghiêm
Nhất thể và
biệt thể
Không pháp
trong nhân duyên.
Lược nói các
pháp sinh
Rộng nói các
pháp diệt.
Chẳng sinh, không
là một
Mà sinh,
không là hai.
Chẳng sinh, không
là thắng
Sinh, diệt tức là
không.
Chân như, không,
thật tế
Pháp giới cùng
Niết Bàn
Thân và ý đủ
thứ
Ta nói pháp
khác tên (dị danh).
Kinh, Tỳ Ni,
Tỳ Đàm
Phân biệt ngã
thanh tịnh
Chẳng y nghĩa,
y danh
Đó chẳng biết
vô ngã.
Phi Phật, phi
ngoại đạo
Phi ngã cũng
chẳng (phải) còn (phi dư)
Từ duyên
thành có pháp
Thì sao các
pháp không? (có)
Người nào thành
tựu có
Từ nhân
duyên nói không?
Nói pháp sinh
tà kiến
Vọng phân biệt
có, không.
Nếu người thấy
chẳng sinh
Cũng thấy pháp
chẳng diệt
Người đó lìa
có, không
Thấy thế gian
tịch tịnh.
Chúng sinh thấy
biệt phân
Khả kiến như
sừng thỏ
Phân biệt là
hoặc mê
Như chim yêu
ánh lửa.
Hư vọng phân
biệt pháp
Nương thấy phân
biệt kia
Không nhân duyên
phân biệt
Không nhân chẳng
nên chia.
Như nước mà
lấy nước
Như thủ vọng sinh
yêu.
Ngu si thấy
như vậy
Thánh nhân không
như vậy.
Thánh nhân thấy
sạch trong
Do sinh ba
giải thoát
Lìa các pháp
tử sinh
Tu hành chỗ
tịch tịnh.
Rất khoái diệu
phương tiện
Biết việc diệu
nước non
Ta vì các
con nói
Chẳng vì những
thừa nhỏ (tiểu thừa).
Ba cõi là vô
thường
Không, vô
ngã, lìa ngã
Tướng riêng (biệt
tướng) và tướng đồng.
Ta nói vì Thanh
Văn.
Mọi pháp chẳng
chấp trước
Độc hành lìa
thế gian
Ta nói quả
Duyên Giác
Phi cảnh giới
tư lương.
Phân biệt ngoài
thật thể
Từ tha lực
nên sinh
Thấy tự thân
mê hoặc
Bấy giờ chuyển
các tâm.
Thập địa tức
Sơ địa
Sơ địa tức
Bát địa
Cữu địa tức
Thất địa
Thất địa tức
Bát địa
Nhị địa tức
Tam địa
Tứ địa tức
Ngũ địa
Tam địa tức
Lục địa
Tịch tịnh không
thứ lớp
Các pháp tịch
tịnh luôn
Người tu
hành không pháp
Bình đẳng
pháp có không
Bấy giờ Thánh
được quả.
Thể tướng
các pháp không
Làm sao ở
không (có) pháp
Mà tạo tác
ngang bằng (bình đẳng)
Tịch diệt không
phân biệt.
Nếu chẳng thấy
các tâm
Pháp trong và
ngoài động
Bấy giờ diệt
pháp xong
Thì thấy tâm
bình đẳng.
Ngu vô thỉ
lưu chuyển
Thủ pháp như
ôm mang
Lừa (dối) phàm
phu mà chuyển.
Như nhân quế, quế
sinh.
Nương nhân
đó mà quán
Ý thủ cảnh
giới chung
Nương vào chủng
tử thức
Có thể tạo tâm
nhân.
Tu được và
trụ giữ
Tùy chủng loại
được thân
Và sở đắc
trong mộng
Thông này có
bốn giống (thứ).
Trong mộng sở
đắc thông
Và với ân
chư Phật
Thủ chủng loại
thân được
Thông đó chẳng
thật thông.
Huân tập tâm,
chủng tử
Tựa có pháp
chuyển sinh
Người ngu chẳng
hay biết
Vì họ, nói
pháp sinh.
Phân biệt ở
ngoại vật
Các pháp tướng
được thành.
Bấy giờ lòng
buồn bực
Chẳng thấy tự
mê hoặc.
Vì sao nói
có sinh?
Vì sao nói
không thấy?
Chẳng thể thấy
mà thấy ?
Nguyện xin
nói vì con!
Vì đối với
những ai?
Nói những
pháp nào có?
Vì đối với
những ai?
Nói những pháp
nào không?
Tâm thể tự
thanh tịnh
Ý khởi vẩn
đục chung
Ý và tất cả
thức
Hay huân tập
chủng tử
A lê gia
xuất thân
Ý xuất cầu
các pháp
Ý thức chọn
cảnh giới
Mê hoặc kiến
tham lấy.
Pháp sở kiến
tự tâm
Ngoại pháp, không
ngoại pháp
Quán như vậy
mê lầm
Chân như luôn
nhớ nghĩ
Cảnh giới người
tu thiền
Nghiệp đại sự
chư Phật
Ba (thứ) này
chẳng nghĩ bàn
Là cảnh giới kẻ
trí.
Quá khứ, hiện,
vị lai
Niết Bàn và
hư không
Ta nương thế
đế nói
Chân đế không
tự danh.
Nhị thừa và
ngoại đạo
Đều chấp trước
tà kiến
Mê mất ở
trong tâm
Phân biệt ở
ngoại pháp.
Bích Chi Phật,
Bồ tát
La hán thấy
chư Phật
Chủng tử Bồ
Đề bền
Và trong mộng
thành tựu.
Ở đâu? Vì
những gì?
Tại sao? Vì
nhân gì?
Việc làm vì
nghĩa gì?
Nguyện xin
nói vì con!
Tâm huyễn khử
tịch tịnh
Bè đảng nói có,
không
Trong lòng mê
bền chắc
Nói huyễn có,
huyễn không.
Tướng sinh diệt
tương ứng
Tướng, khả tưởng
có không,
Phân biệt chỉ là ý
Năm thứ thức cùng chung.
Bóng gương cùng sóng nước...
Từ tâm chủng tử sinh
Nếu tâm và cả ý
Mà các thức chẳng sinh
Thì được Như ý thân
Cho đến ngôi Phật địa.
Ấm, giới và các duyên
Là pháp tự thể tướng
Giả danh và nhân tâm
Như mộng như mao luân.
Thế gian như huyễn, mộng
Thấy y chỉ thật chân
Các tướng thật tương ứng
Lìa các nhân đo lường.
Nội cảnh các Thánh nhân
Thường quán các diệu hạnh
Mê che nhân đo lường
Khiến thế gian thật giải.
Lìa mọi luận bàn suông (hí luận)
Trí chẳng trụ mê hoặc
Thể tướng các pháp không (có).
Không và thường, vô thường.
Lòng trụ ở ngu dại
Mê hoặc nên biệt phân
Nói về những pháp đó
Chẳng phải nói vô sinh.
Một, hai và cả hai(?)
Bỗng nhiên tự tại có
Nương thời(gian) thắng vi trần.
Duyên phân biệt thế gian.
Hạt giống đời là thức
Y chỉ nhân đó sinh
Như nương vách vẽ tượng(hình dáng)
Biết thật là diệt tan.
Như người thấy ở huyễn
Cũng vậy, thấy tử sinh
Người ngu nương bóng tối
Trói buộc, giải thoát sinh.
Những đủ thứ nội ngoại
Các pháp và nhân duyên
Tu hành quán như vậy
Chỗ tịch tịnh trụ yên.
Vô tâm trong huân tập
Lòng chẳng huân tập chung
Lòng không tướng sai biệt
Huân tập trói buộc lòng.
Như cấu(cấu bẩn) thấy huân tập.
Ý từ ở thức sinh
Như lụa, tâm cũng thế
Nương huân tập chẳng rõ (rệt).
Như vật phi vô vật
Ta nói hư không vậy.
Trong A lê gia thân
Lìa khỏi vật có không
Ý thức chuyển diệt xong
Lòng lìa khỏi pháp bẩn.
Tất cả pháp biết thông
Nên ta nói tâm Phật.
Ỏ ba cõi đoạn tuyệt
Lìa khỏi pháp có không.
Thế gian bốn tương ứng
Các hữu đều như huyễn
Là hai pháp thể tướng
Thất địa từ tâm sinh.
Địa khác cũng viên thành
Nhị địa và Phật địa
Sắc giới, Vô sắc giới
Dục giới và Niết Bàn.
Tất cả tâm cảnh giới
Chẳng lìa khỏi trong thân
Nếu thấy các pháp sinh
Là sinh pháp mê hoặc.
Hiểu tự tâm mê hoặc
Là chẳng sinh các pháp,
Không sinh thể tướng pháp
Sinh tức chấp thế gian.
Thấy các tướng như huyễn
Như vậy pháp thể tướng
Thủ hư vọng tư tâm
Chớ phân biệt các pháp.
Vì si không trí nói
Ba thừa cùng một thừa
Và nói đến vô thừa
Các thánh nhân tịch tịnh.
Pháp ta có hai thứ
Tướng pháp và chứng nữa
Bốn thứ tướng châm lường
Lập lượng, pháp tương ứng.
Hình và tướng thắng chủng
Thấy mê hoặc biệt phân
Danh tự và hành xứ
Hạnh Thánh thật sạch trong (thanh tịnh).
Nương phân biệt (mà) phân biệt
Nên có tướng phân biệt
Lìa phân biệt (mà) biệt phân
Cảnh giới Thánh thật thể.
Chẳng biến (đổi) thật thường hằng
Tính sự và thật thể
Chân như lìa pháp tâm
Xa lìa khỏi phân biệt.
Nếu có pháp sạch trong (thanh tịnh)
Cũng không có nhiễm pháp
Do có thanh tịnh tâm
Mà thấy có nhiễm pháp.
Cảnh giới Thánh sạch trong
Vậy nên không thật sự
Là tướng các pháp thể
Cảnh giới của Thánh nhân.
Từ nhân sinh thế gian
Lìa khỏi các phân biệt
Như huyễn, mộng vân...vân..
Thấy pháp được giải thoát.
Huân tập nhiều não phiền (đủ thứ)
Chung tâm tương ứng sinh
Chúng sinh thấy ngoại pháp
Chẳng phải pháp thể tâm.
Tâm pháp thường thanh tịnh
Chẳng phải mê hoặc sinh
Mê từ phiền não khởi
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Mê hoặc tức thật chân
Chỗ khác chẳng thể được
Chẳng ấm, chẳng chỗ khác
Quán ấm, hành thật chân.
Lìa thấy, giỏi thấy tướng
Nếu thấy pháp hữu vi
Thấy tự tâm thế gian
Người đó giỏi lìa tướng
Chớ thấy pháp duy tâm
Chớ phân biệt ngoại nghĩa
Trụ Chân như xét xem
Qua khỏi tâm cảnh giới
Qua cảnh giới tâm xong
Xa lìa các tịch tịnh
Tu hành trụ tịch tịnh
Hành giả trụ lặng yên (tịch tịnh).
Chẳng thấy Ma ha diễn (Đại thừa)
Tịch tịnh là tự nhiên
Nương các nguyện tịch tịnh
Trí vô ngã tịch tịnh.
Nên quán cảnh giới tâm
Cũng quán cảnh giới trí
Trí tuệ quán cảnh giới
Ở trong tướng chẳng mê.
Cảnh giới tâm: Khổ đế
Tập là cảnh giới trí
Nhị đế và Phật địa
Là cảnh giới Bát nhã.
Đắc quả và Niết Bàn
Và cả tám thánh đạo
Tất cả pháp, biết thông
Được Phật trí thanh tịnh.
Nhãn sắc và cả minh (ánh sáng)
Hư không cùng tâm ý
Như vậy hòa hợp lại
Thức từ Lê gia sinh
Năng thủ, khả thủ thọ (nhận)
Vô sự cũng vô danh.
Không có nhân phân biệt
Nếu thủ lấy ở giác
Thì trong nghĩa không danh
Trong danh, nghĩa cũng vậy.
Nhân không nhân mà sinh
Chớ phân biệt (mà) phân biệt
Tất cả pháp không thật
Cũng vậy lời ngữ ngôn.
Nghĩa vậy không, chẳng không.
Ngu si thấy pháp đúng
Vọng lấy mà trụ chân (thật)
Tà kiến nói giả danh.
Một pháp thành năm thứ (?)
Như thật giỏi lìa xa
Năm thứ là pháp ma
Có, không vượt qua khỏi.
Chẳng phải tu cảnh giới
Là pháp ngoại đạo mà!
Chẳng cầu có pháp tà
Cũng không tương kiến ngã.
Do là pháp mình thường
Chỉ từ ngôn ngữ sinh
Thật đế chẳng thể nói
Tịch diệt thấy pháp liền.
A lê gia y chỉ
Ý thức hay chuyển sinh
Nương hư, hư vọng thành
Chân như là tâm pháp
Như vậy người tu hành
Hay biết tâm tính thể
Phân biệt thường, vô thường
Ý tướng và sự việc
Sinh và cùng chẳng sinh
Hành giả chẳng nên thủ (lấy)
Hai pháp chớ biệt phân
Thức từ Lê gia sinh
Một nghĩa hai tâm pháp
Chẳng biết như vậy sinh.
Thủ (lấy) một pháp, hai pháp
Là cảnh giới người phàm
Không người nói và nói
Chẳng không do thấy tâm.
Chẳng thấy ở tự tâm
Nên sinh màn lưới thấy
Các nhân duyên chẳng sinh
Các căn cũng như vậy.
Giới và năm ấm không
Không hữu vi, không tham
Vốn không có tác nghiệp
Phi hữu vi, chẳng làm.
Không trừ, cũng không buộc
Không buộc, không giải thoát
Không vô ký, vô vật
Không pháp, không phi pháp
Không thời không Niết Bàn
Pháp thể cũng là không
Không Phật, không thật đế
Không nhân cũng không quả
Không diệt, không đảo điên
Không diệt cũng không sinh
Mười hai chi cũng không
Biên, vô biên cũng vậy
Các tà kiến lìa khỏi
Vậy nên nói duy tâm.
Phiền não, nghiệp và thân
Tác giả cùng quả báo
Như mộng và ngọn lửa
Như Càn thát bà thành...
Trụ ở trong tâm pháp
Các pháp tướng mà sinh
Trụ ở trong tâm pháp
Mà thấy pháp đoạn, thường.
Trong Niết Bàn không ấm
Tưởng vô ngã cũng không
Hay vào chỉ là tâm
Giải thoát chẳng chọn tướng.
Thấy lỗi gì tha nhân
Bên ngoài chúng sinh thấy
Tâm chẳng phải có, không
Do huân tập chẳng hiển (rõ rệt).
Trong bẩn chẳng thấy trắng
Trong trắng chẳng thấy bẩn
Như mây che hư không
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Tâm hay tạo tác nghiệp
Trí ở trong phân biệt
Tuệ hay quán lặng yên (tịch tịnh).
Được pháp thể đại diệu.
Cảnh giới buộc, tâm nương
Trí nưong giác quán sinh
Cảnh giới thắng tịch tịnh
Tuệ hay hành ở trong.
Tâm ý và ý thức
Ở trong tướng biệt phân
Được thể không phân biệt
Nhị thừa chẳng (phải) các con.
Tướng thắng nhân tịch tịnh
Chư Phật trí tuệ tịnh
Với thắng nghĩa hay sinh
Đã lìa các tướng hành
Phân biệt pháp thể có
Tha lực pháp là không
Mê hoặc thủ phân biệt
Chẳng phân biệt tha lực.
Phi các đại có sắc
Có sắc phi các đại
Mộng, huyễn, càn thát bà
Thú khát yêu không nước.
Ta có ba thứ tuệ
Được y chỉ Thánh danh
Tâm trong không pháp sinh
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Trụ giữ thân tư sinh (của sinh sống của thân)
Chúng sinh nương huân (tập) kiến
Nương tướng phân biệt kia
Mà nói đến các pháp.
Lìa tương ứng nhị thừa
Tuệ lìa hiện pháp tướng
Hư vọng thủ (lấy) pháp nên
Thanh Văn nhìn thấy pháp.
Hay vào chỉ là Tâm
Trí Như Lai vô cấu
Hoặc thật và chẳng chân (thật).
Từ nhân duyên sinh pháp.
Một hai là thấy tà
Rốt ráo hay thủ trước
Đủ thứ các nhân duyên
Như huyễn không thật có.
Tướng như vậy đủ thứ
Phân biệt chẳng thể thành
Nương vào tướng phiền não
Trói buộc từ tâm sinh.
Chẳng biết pháp phân biệt
Tha lực là phân biệt
Thể phân biệt có thành
Tức là pháp tha lực.
Đủ thứ thấy phân biệt
Ở phân biệt tha lực
Nghĩa thế đế đệ nhất
Đệ tam không nhân sinh (?)
Phân biệt nói tương tục
Đoạn là cảnh thánh nhân
Người tu hành một việc
Thấy đủ thứ chỉ tâm.
Chỗ đó không thể tâm
Tướng phân biệt như vậy
Người trong mắt bị màn
Ngăn phi sắc phi sắc
Như ngu thấy tha lực.
Như vàng lìa bụi trần
Như nước lìa bùn đục
Như hư không lìa vân (mây)
Phân biệt tịnh như vậy.
Có ba thứ Thanh Văn
Ứng, hóa và nguyện sinh
Lìa các tham si bẩn
Tướng các Như Lai không(có).
Trong lòng chúng sinh tâm
Thấy tượng Như Lai Phật
Phân biệt không như vậy
Pháp thể tha lực có.
Thấy có, không hai biên
Thấy nên thấy phân biệt
Nếu không pháp phân biệt
Tha lực làm sao có?
Xa lìa có pháp thể
Thật có pháp thể sinh
Y chỉ ở phân biệt
Mà thấy ở tha lực.
Nương hòa hợp tướng, danh
Mà sinh ra phân biệt
Việc thành tựu thường không
Tha lực phân biệt sinh.
Bấy giờ biết thật thể
Đệ Nhất Nghĩa sạch trong (thanh tịnh).
Phân biệt có mười thứ
Tha lực có sáu thứ
Chân như là nội thân
Vậy nên không tướng khác.
Năm pháp là pháp chân (thật)
Và ba thứ thật tướng
Như vậy người tu hành
Chẳng hoại Chân như pháp
Tinh tú, mây, dáng hình
Tợ như thể nhật, nguyệt
Các chúng sinh thấy tâm
Khả kiến huân tập sinh.
Các Đại không tự thể
Phi năng kiến, khả kiến
Nếu sắc từ Đại sinh
(Thì) Các Đại sinh các Đại.
Như vậy Đại chẳng sinh
Trong Đại không bốn Đại
Nếu quả là bốn Đại
Thì đất, nước... là nhân
Thật và giả Danh sắc
Cũng vậy mà huyễn sinh.
Càn thát bà và mộng
Thú thích nước thứ năm
Nhất xiển đề năm thứ
Các tính cũng như thế.
Năm thừa và phi thừa
Niết Bàn có sáu thứ
Ấm có hai mươi tư
Sắc lại có tám thứ.
Phật có hai mươi tư
Phật tử có hai thứ
Cửa độ có trăm thứ
Thanh Văn có ba thứ.
Nước chư Phật chỉ một
Mà Phật cũng có một
Giải thoát có ba thứ
Lòng nghĩ có bốn thứ
Ngã, vô ngã sáu thứ
Cảnh khả tri bốn thứ.
Lìa khỏi các nhân duyên
Cũng lìa lỗi tà kiến
Biết ly cấu nội thân
Pháp Đại Thừa Vô thượng.
Sinh và cả chẳng sinh
Có tám thứ, chín thứ
Thứ lớp nhất thời thành (chứng)
Lập pháp chỉ là một.
Vô sắc có tám thứ
Thiền sai biệt sáu thứ
Duyên Giác và Phật tử
Năng thủ có bảy thứ.
Không có pháp ba đời
Thường, vô thường cũng vậy,
Nghiệp quả và việc làm
Như làm việc trong mộng.
Phật tùng lai (từ xưa đến nay) chẳng sinh
Phật tử và Thanh Văn
Lòng lìa khỏi khả kiến
Cũng thường như pháp huyễn:
Thai sinh, chuyển pháp luân
Xuất gia và Đâu suất
Trụ trong những đất nước
Khả kiến và chẳng sinh
Khứ, hành và chúng sinh
Nói pháp và Niết Bàn.
Hiểu thật đế đất nước
Pháp sinh từ nhân duyên
Các rừng cây thế gian
Vô ngã ngoại đạo hạnh.
Thiền thừa A lê gia
Chứng quả chẳng nghĩ bàn
Tính trăng và tinh tú
Các vua A tu la
Dạ xoa, Càn thát bà
Nhân nghiệp mà phát sinh
Chẳng thể nghĩ bàn biến(biến đổi).
Lùi nương huân tập duyên
Đoạn tuyệt các biến dịch
Thì tội phiền não diệt.
Tất cả các Bồ tát
Mà như thật tu hành
Chẳng chứa các của báu
Voi ngựa và bạc vàng
Trâu dê cùng nô bộc...
Lúa gạo với ruộng vườn...
Chẳng nằm “xuyên khổng sàn” (giường xuyên lỗ (?))
Chẳng được “nên đồ địa”(bùn trét đất (?))
Đồng đỏ trắng, bạc, vàng
Đồ dùng và chén, bát...
Người tu hành tịnh hạnh
Tất cả chẳng được chứa.
Quần áo Kiều-xa-gia
Tất cả chẳng được mặc.
Cà sa Khâm-bà-la
Phân trâu, cỏ, trái, lá
Nước bùn đất xanh, đỏ
Nhuộm hoại màu trắng đi.
Bát bằng đá, gốm, sắt
Ngọc kha và lưu ly...
Bát như vậy cho giữ
Đủ đầy lượng Ma đà.
Vì cắt may quần áo
Cho giữ tứ thốn đao(dao bốn tấc)
Lưỡi cong như bán nguyệt
Chẳng được học kỹ thuật.
Người như thật tu hành
Chẳng ra chợ buôn bán
Chạy theo người thế gian
Và những ưu-bà-tắc
Thường hộ giữ các căn
Biết được nghĩa như thật
Kinh điển đọc tụng luôn
Những Tỳ ni học tập
Chẳng xen lẫn thế gian
Người tu hành như vậy.
Chỗ trống cùng nghĩa trang
Dưới cây rừng, trong hang
Rừng Thi đà trong cỏ
Cho đến đất ngoài đồng
Người tu hành như thật
Trụ những chỗ như trên.
Ba y thường tùy thân
Chẳng chứa của tiền khác
Vì thân cần áo quần
Người khác cho, được nhận.
Ra đi vì xin ăn
Cũng chẳng nhìn phải, trái
Sáu thước trước được nhìn
An tường mà thẳng tiến.
Như ong hút mật bông(hoa)
Xin ăn cũng như vậy.
Tỳkheo, Tỳkheo ni
Trong chúng xen lẫn chúng
Ta vì Phật tử xướng:
Đây là “ác mạng họat” (cách kiếm sống xấu, ác)
Người như thật tu hành.
Chẳng được ăn chỗ ấy.
Vương tử, tiểu vương, vương
Đại thần và trưởng giả
Vì cầu xin uống ăn
Tất cả chẳng được đến.
Nhà chết và nhà sinh
Nhà yêu thích, nhà thân (quen).
Chúng Tỳkheo tạp nhạp...
Người tu hành chẳng ăn.
Chùa, nhà khói chẳng dứt
Thường là đủ thứ ăn
Nên vì người tạo tác
Hành giả chẳng nên ăn.
Lìa bè đảng có, không
Năng kiến, khả kiến buộc
Hành giả xem thế gian
Lìa khỏi pháp sinh diệt.
Sức tam muội tương ưng
Và các thông tự tại
Phân biệt nếu chẳng sinh
Chẳng lâu được Như pháp.
Từ người thắng, vi trần...
Trong duyên chớ phân biệt
Hòa hợp các nhân duyên
Hành giả chẳng phân biệt.
Phân biệt các thế gian
Từ huân (tập) sinh đủ thứ
Hành giả như thật xem
Ba hữu như huyễn, mộng.
Ba hữu chớ biệt phân
Của nuôi thân trụ giữ
Lìa bài báng có, không
Cũng lìa thấy có, không.
Ăn uống như uống thuốc
Thân tâm thường chánh trực
Chuyên cung kính một lòng
Phật và các Bồ tát
Người như thật tu hành
Nên biết những tướng luật
Và cả những điển Kinh
Giản trạch (chọn lựa) các pháp tướng.
Năm pháp thể và lòng
Tu hành không ngũ tướng
Thanh tịnh nội pháp thân
Các Địa và Phật địa
Người như vậy tu hành
Trụ ở hoa sen lớn
Chư Phật đại từ bi
Tay Như ý xoa đầu.
Ở sáu đường đến, đi
Các hữu sinh lòng chán
Phát khởi hạnh thật chân
Đến trong Thi Đà lâm.
Tướng hình thể nhật nguyệt
Và với tướng biển hoa
Lửa hư không đủ thứ
Người tu hành thấy pháp.
Thấy các tướng như trên
Chọn lấy pháp ngoại đạo
Cũng theo đạo Thanh Văn
Và cảnh giới Duyên Giác.
Lìa như vậy vân... vân...
Trụ ở chỗ tịch tịnh
Thì Phật diệu quang minh
Đi đến các đất nước,
Xoa đỉnh đầu Bồ tát
Tướng diệu xoa đỉnh này
Thuận theo Chân như pháp
Bấy giờ được diệu thân.
Có không nhân pháp thể
Lìa khỏi pháp đoạn thường
Bài báng pháp có không
Là phân biệt trung đạo.
Phân biệt không các nhân
Không nhân là đoạn kiến
Thấy đủ thứ ngoại pháp
Là người diệt trung đạo.
Chẳng xả các tướng pháp
Sợ có tướng đoạn tuyệt
Có, không là báng pháp
Như vậy nói trung đạo.
Giác chỉ là nội tâm
Ở ngoại pháp chẳng diệt
Chuyển hư phân biệt
Tức là pháp trung đạo.
Duy tâm không thể thấy
Lìa khỏi tâm chẳng sinh
Tức là pháp trung đạo
Ta và chư Phật nói,
Sinh và với chẳng sinh
Hữu vật, vô vật không
Các pháp không tự thể
Chớ phân biệt hai pháp.
Phân biệt là có pháp
Ngu phân biệt giải thoát
Chẳng giác tâm phân biệt
Lìa khỏi hai tướng thủ.
Giác biết tự tâm kiến
Thì lìa khỏi hai kiến
Như thật biết xa lìa
Chẳng diệt phân biệt tướng.
Thật biết tâm khả kiến
Thì biết phân biệt sinh
Chẳng sinh các phân biệt
Là Chân như lìa tâm
Lìa các lỗi ngoại đạo
Các pháp nếu thấy sinh
Kẻ trí kia nên lấy
Mà chẳng diệt Niết Bàn
Biết pháp này là Phật
Ta nói và Phật khác
Nếu thấy khác các pháp
Là nói việc ngoại đạo.
Chẳng sinh hiện ra sinh
Chẳng thoái hiện ra thoái
Như trăng nước đồng thời
Vạn ức nước nhìn thấy.
Một thân và không lường
Rót mưa và đốt lửa
Tâm, tâm thể chẳng khác
Nên nói chỉ là tâm.
Trong tâm chỉ là tâm
Tâm không tâm mà sinh
Đủ thứ tướng sắc hình
Cái thấy chỉ là tâm.
Thân Phật và Thanh Văn
Cùng thân Bích Chi Phật...
Lại đủ thứ sắc thân
Chỉ nói là nội tâm
Cõi Vô sắc không sắc
Cõi Sắc và địa ngục
Sắc hiện làm chúng sinh
Chỉ là nhân duyên tâm.
Pháp Như huyễn tam muội
Mà thân như ý sinh
Tâm Thập địa tự tại
Bồ tát chuyển được đó.
Tự tâm phân biệt danh
Hí luận mà lay động
Nương thấy nghe, biết sinh
Ngu si nương tướng biết.
Tướng là thể Tha lực
Nó nương danh phân biệt
Phân biệt là các tướng
Nương tha lực pháp sinh.
Trí tuệ quán các pháp
Không tha lực, tướng không
Rốt ráo không thành tựu
Trí nương đâu biệt phân?
Nếu có pháp thành tựu
Lìa khỏi pháp có, không
Lìa khỏi thể có, không
Hai thể làm sao có?
Phân biệt hai thứ thể
Hai thứ thể nên có
Phân biệt thấy đủ thứ.
Cảnh giới Thánh sạch trong.
Phân biệt là đủ thứ
Phân biệt là tha lực
Nếu phân biệt khác thì
Rơi vào ngoại đạo thuyết.
Phân biệt là phân biệt
Thấy là thể tướng (của) nhân
Phân biệt nói phân biệt
Thấy là nhân tướng sinh.
Lìa khỏi hai phân biệt
Tức là pháp viên thành
Đất nước hóa thân Phật
Một thừa và ba thừa.
Không Niết Bàn tất cả
“Không” lìa tất cả sinh
Phật ba mươi sai biệt
Riêng lại có mười thứ.
Khí dụng của mọi nước
Nương vào lòng chúng sinh
Như phân biệt tướng pháp
Hiện thấy đủ thứ pháp.
Pháp đó không đủ thứ
Pháp Phật (pháp thân Phật) ở thế gian.
Pháp Phật là chân Phật
Còn thì nương đó sinh (hóa sinh ra)
Chúng sinh tự chủng tử
Thấy tướng Phật tất cả
Nương mê hoặc chuyển lòng
Có thể sinh phân biệt.
Phân biệt chẳng lìa chân
Và chẳng lìa khỏi tướng
Thọ lạc và thể chân (thật)
Hóa lại làm các hóa (biến hóa).
Phật chúng ba mươi sáu (?)
Là thể Phật thật chân
Như xanh, đỏ và muối
Sữa trắng và mật đường
Lá, quả, hoa vân... vân...
Như những ánh sáng trăng
Phi nhất cũng phi dị
Như sóng trong nước dậy.
Như vậy bảy thức cùng
Chung hòa hợp với lòng
Như biển cả chuyển biến
Vậy nên sóng dậy lên.
A lê gia cũng vậy
Danh thức cũng như vậy
Tâm ý và ý thức
Nghĩa ngoại tướng phân biệt.
Tám tướng không sai biệt
Chẳng phải năng, khả kiến
Như sóng nước biển lớn
Không có tướng sai biệt.
Các thức ở trong tâm
Chuyển biến chẳng thể được
Tâm hay tạo các nghiệp
Ý là hay phân biệt
Ý thức hay biết pháp
Năm thức hư vọng thấy
Đủ thứ trắng, đỏ, xanh
Thức chúng sinh hiện thấy
Đối pháp tướng sóng nước
Là ta nói tịch mặc (Mâu Ni).
Đủ thứ trắng, đỏ, xanh
Trong sóng nước không vậy
Các tướng, ngu si thấy
Nói chuyển ở trong lòng
Trong tâm không là thể
Lìa tâm không thấy ngoài
Nếu có được khả thủ
Nên có được năng thủ.
Trụ giữ thân tư sinh(của cải thân sinh sống)
Nói sóng nước tương tợ
Hiện thấy thức chúng sinh
Sóng nước chung tương tợ.
Sóng biển cả khởi lên
Hiện thấy như múa chuyển
Bản thức như vậy chuyển
Biết chẳng thủ vì sao?
Ngu si không trí tuệ
Bản thức như sóng bể (biển)
Sóng nước đối tướng chuyển
Vậy nên nói thí dụ:
Mặt trời mọc thế gian
Bình đẳng soi sinh chúng
Như vậy đèn Thế Tôn
Chẳngvì ngu (mà) nói pháp.
Trụ ở Chân như pháp
Chẳng nói thật vì sao?
Nếu nói ra pháp thật
Trong lòng không pháp thật
Như trong mộng và gương
Như sóng nước trong bể
Như cảnh giới tự tâm
Đều thấy không sau, trước
Cảnh giới nhất thời không
Vậy nên sinh thứ lớp.
Thức hay biết các pháp
Ý lại hay biệt phân
Năm thức hiện thấy pháp
Tịch tịnh không thứ lớp.
Như thầy vẽ thế gian
Và đệ tử thầy vẽ
Ở diệu pháp ta trụ
Nói vì thật tu hành.
Lìa phân biệt phân biệt
Là thật trí nội thân
Ta nói vì Phật tử
Chẳng vì những ngu nhân.
Cũng như huyễn đủ thứ
Khả kiến không như thế
Nói đủ thứ cũng vậy
Nói cũng vậy chẳng vậy.
Vì một người nói pháp
Chẳng nói vì người khác
Như người bệnh chẳng đồng
Thầy thuốc cho thuốc riêng.
Chư Phật vì sinh chúng
Nói các pháp tùy lòng
Nương chủng tử ngoại pháp
Phân biệt nói hiện pháp.
Tâm thủ (lấy) pháp tha lực
Khả thủ là phân biệt
Y chỉ chủng tử tâm
Quán lấy ngoại cảnh giới.
Hai thứ chuyển mê hoặc
Lại không đệ tam nhân
Do mê hoặc chẳng sinh
Nương pháp nào chẳng sinh?
Sáu mươi, mười tám pháp
Vậy nên chỉ nói tâm.
Tự tâm thấy ngoại pháp
Thấy kia lìa khỏi ngã
Nếu vào lòng biệt phân
Thì lìa các pháp tướng.
Nương vào A lê gia
Hay sinh ra các thức
Ngu si vào nội thân
Tâm thấy ở ngoại nhập.
Thủ (lấy) tinh tú, mao luân
Như trong mơ thấy sắc
Hữu vi, vô vi thường
Phân biệt không như vậy.
Huyễn, Càn thát bà thành
Như cầm thú thích nước
Không vậy mà thấy có
Pháp tha lực cũng thế.
Hình tướng ngã, các căn
Ta nói ba thứ tâm
Tâm ý và ý thức
Lìa khỏi tự thể tướng
Tâm ý và ý thức
Lìa khỏi tha thể tướng
Tâm ý và ý thức
Không ngã, không hai thể.
Tướng năm pháp tự thể
Là cảnh giới Thế Tôn
Về tướng có ba thử
Nương vào một huân (tập) nhân
Như màu sắc một thứ
Thấy đủ thứ trên tường.
Hai thứ tâm vô ngã
Ý và các thức tướng
Năm thứ pháp thể tướng
Tính ngã không như vậy.
Xa lìa các tướng tâm
Thức lìa khỏi ý tướng
Thể các pháp như thế
Là cảnh giới của Ngã.
Lìa khỏi các pháp thể
Là tính của Như Lai
Nghiệp thân, miệng và ý
Kia chẳng tạo bạch pháp.
Tính Như Lai sạch trong
Lìa khỏi các tu hành
Tự tại tịnh các thông
Trang nghiêm lực tam muội
Đủ thứ ý sinh thân
Là tính Như Lai tịnh
Lìa bẩn, trí nội thân
Lìa khỏi các tướng nhân.
Bát địa và Phật địa
Là tính các Như Lai
Viễn Hành, Thiện Thệ địa
Pháp Vân cùng Phật địa
Là tính của chư Phật
Địa khác xem ba thừa.
Nương riêng thân chúng sinh
Và vì ngu phế tướng
Vì nói bảy thứ địa
Nên Phật nói tâm địa.
Các chướng thân, miệng, lòng
Trong Thất địa không thế
Trong Bát địa diệu thân
Như mơ tướng bạo thủy.
Bát địa và Ngũ địa
Học đủ thứ kỹ thuật
Tất cả các Phật tử
Trong ba hữu làm vua.
Sinh và cùng chẳng sinh
Chẳng phân không chẳng không
Thật và cả chẳng thật
Không như vậy trong lòng.
Đây thật, đây phi thật
Chớ phân biệt thật này
Duyên Giác và Thanh Văn
Chẳng vì Phật tử nói
Có không có phi thật
Cũng không có tướng không
Giả danh và thật pháp
Trong lòng tất cả không.
Nương thế đế có pháp
Đệ nhất nghĩa đều không
Không thật pháp mê hoặc
Là các pháp thế đế.
Tất cả pháp, không pháp
Ta nói đến giả danh
Ngôn ngữ và thọ dụng
Ngu si thấy thật chân (như thật).
Theo với pháp ngữ ngôn
Là thật có cảnh giới
Từ ngôn ngữ pháp sinh
Thấy pháp không như vậy.
Như lìa vách, vẽ không (có)
Cũng như ảnh lìa tượng
Bản tịnh thức cũng vậy
Vì sóng chẳng hiện lên.
Như huyễn, tâm cũng vậy
Ý như người giảo hoạt
Thức với năm thứ chung
Phân biệt thấy như thải (năm sắc xen lẫn).
Nói là tập (quen) pháp chân
Tập (gom) sở hữu hóa làm
Là chư Phật căn bản
Còn thì ứng hóa Phật.
Lòng mê trong khả kiến
Trong lòng khả kiến không
Của nuôi thân trụ giữ
A lê gia hiện liền.
Tâm ý và ý thức
Thật thể năm thứ pháp
Hai thứ vô ngã tịnh
Lời nói Phật Như Lai.
Hư vọng giác phi cảnh
Và cũng vậy Thanh Văn
Là cảnh giới nội thân
Lời nói Như Lai Phật.
Dài ngắn đợi chờ nhau
Đó đây sinh nương nhau
Có có thể thành không
Không có thể thành có
Và phân biệt vi trần
Sắc thể chẳng phân biệt.
Nói chỉ là ở tâm
Tà kiến chẳng thể tịnh
Trong đó phân biệt không
Chẳng không cũng như vậy.
Chỉ phân biệt có, không
Khả thuyết không như vậy
Hợp công đức vi trần
Ngu si phân biệt sắc.
Mỗi một vi trần không
Vậy nên không là nghĩa
Tự tâm thấy tướng hình
Chúng sinh thấy ngoại hữu (có ở bên ngoài)
Pháp khả kiến ngoài không
Vậy nên không là nghĩa.
Tâm như huyễn, mao luân
Càn thát bà thành, mộng
Cầm thú yêu hỏa luân
Thật không mà người thấy.
Một và thường, vô thường
Hai và chẳng hai nữa
Lỗi vô thỉ buộc ràng
Ngu si mê phân biệt.
Ta chẳng nói ba thừa
Mà chỉ nói một thừa
Vì nhiếp lấy sinh chúng
Vậy nên nói một thừa.
Giải thoát có ba thứ
Cũng nó pháp vô ngã
Trí bình đẳng, não phiền
Nương giải thoát phân biệt.
Cũng như cây trong nước
Bị sóng cuốn lênh đênh
Như vậy si Thanh Văn
Vì các tướng phiêu đãng.
Họ không chỗ rốt cùng
Cũng lại chẳng hoàn sinh (sinh trở lại).
Được Tịch diệt tam muội
Chẳng hay (biết) kiếp không lường.
Định của Thanh Văn đó
Chẳng phải Bồ tát ta
Lìa các tùy phiền não
Buộc phiền não nương theo.
Say cảnh vui tam muội
Trụ cõi Vô Lậu kia
Như người say cõi thế
Rượu tan thì tỉnh ra.
Người đó nhiên hậu được
Thân thể Phật pháp ta
Như kẻ chìm bùn sâu
Thân vùng vẫy đây đó.
Như vậy Thanh Văn say
Tam muội, chìm cũng vậy.
KINH NHẬP LĂNG GIÀ
- Quyển thứ chín hết -