Phần thứ năm

19/09/20143:30 CH(Xem: 6361)
Phần thứ năm
Phạm Thiên Thư
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014

41.    Người mẹ từ hòa       
42.    Hóa thân cứu đời       
43.    Vẽ tranh hoá đạo       
44.    Con rắn cúng ngọc       
45.    Thắng lòng tham dục       
46.    Nước vua Phạm Thiên       
47.    Xuống biển tìm kinh       
48.    Bà buôn tơ trợ đạo       
49.    Con chim soi nước       
50.    Nhân quả chẳng dời       


41.    Người mẹ từ hòa

Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di,
Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung.
Có bảy trai quý nối dòng,
Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi.
Còn em thứ bảy là người
Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa.
Lão quan nghĩ tuổi đã già,
Muốn cho con cái thành gia đủ đầy.
Nhưng tìm dâu út khó thay,
Dẫu trang quốc sắc đất này thiếu chi.
Công dung ngôn hạnh ai bì,
Sắc hương vừa độ dậy thì đào tơ.
Nhưng chàng Bảy vẫn chối từ,
Lòng trai còn mãi trầm tư diệu vời.
Ông khuyên: “cha đã già rồi,
Xuân thu còn ít tuổi trời lui mau.
8.300.  Trước khi nhắm mắt qua cầu,
Muốn nhìn con trẻ có nhau xum vầy.
Mối mai nhắn đó nhờ đây,
Biết bao vóc nguyệt dáng mây khoe đào.
Lại dòng phúc hậu thanh cao,
Lẽ đâu không một nơi nào đáng chăng?
Chỉ vui kinh sách phòng văn,
Khiến cha trông đợi băn khoăn đã nhiều!”
Chàng thưa “đâu dám tự kiêu
Khi song thân đã thương chìu tìm nơi
Xứng danh kiều diễm trang đài,
Song con nghĩ: chỉ một thời rồi qua
Những hương sắc với vinh hoa,
Nén lòng đợi chốn hiền hòa đức cao.
Đồng tâm, sẽ kết tơ đào,
Vui lòng cha mẹ, duyên trao thuận hòa.
Kiếp người chẳng lẽ sinh ra,
Giam trong giả tướng một nhà trầm luân.”
Ông khen: “ý đẹp muôn phần,
Nếu được như vậy đâu cần thêm chi.
Bạn cha có một vị kia
Quen nhiều biết rộng, nhờ gì cũng xong.”
Quả nhiên khi nghe chuyện ông,
Thân tình, lão hữu vui lòng ra đi.
Gót hiền tìm đến thôn kia,
Tình cờ gặp nhóm xuân thì dạo vui.
Một nàng, trong nhóm mảnh mai,
Mặt tươi hoa sớm, tuổi ngoài nửa trăng.
Các cô khi tới suối rừng,
Tự nhiên đều tháo hài cầm trên tay.
Riêng nàng đó để nguyên hài,
Ung dung đi xuống, dáng người dễ thương.
Lão ông thấy vẻ khác thường,
Lưu tâm xem cách thức nàng ra sao.
Các cô đều xắn quần cao,
Riêng nàng vẫn thả ống đào bước qua.
Mấy cô ồn ã nô đùa,
Riêng nàng tươi tỉnh gởi thưa phải lời.
Bạn trèo cây bẻ cành chơi,
Riêng nàng dạo ngắm cỏ tươi lá mềm.
Sau hồi giỡn nghịch huyên thuyên,
Các cô vặt hái cả nghìn trái cây.
Duy nàng chẳng đụng mảy may
Đến khi cùng bạn dắt tay trở về.
Lão ông giả bộ người quê,
Ho khan mệt nhọc, ngồi kề lối qua.
Mấy cô kia mải vua đùa,
Riêng nàng dừng bước, xót xa hỏi người:
“Cụ từ đâu tới đây chơi?”
Lão rằng “vốn ngụ một nơi xa thành.
Còn cô, nhà hẳn gần quanh,
Cho ta hỏi chút thân tình, có nên?”
Nàng thưa “xin cụ tự nhiên,
Điều con biết sẽ trình lên với người.”
Lão ông rằng “thực mừng vui,
Thấy con dung hạnh khác đời lắm thay.
Đã chơi cùng chúng bạn đây,
Mà khi xăn áo, cởi giày lội sang.
Lại khi đập trái cây rừng,
Sao con riêng biệt không cùng đùa theo?”
Thưa: “dù việc chẳng bao nhiêu,
Nhưng lão trượng hỏi, con đều phải thưa.
Áo quần dù vải hay tơ,
Cũng như giày dép, cốt cho người dùng.
Phải tùy lựa trước là xong,
Đã che thân thể nên không tiếc gì.
Còn như cây trái đồi kia,
Dành cho chim chóc đi về có ăn.”
Lão khen “con có thiện căn,
Nên ta mong được đến thăm lệnh đường.”
Nàng vâng lời, dẫn vào làng,
Đến nhà vườn rộng, dưới hàng cây xanh.
Chủ nhân cốt cách lịch thanh,
Hỏi ra mới biết là tình đồng hương.
Vốn dòng quyền quý giàu sang,
Phải khi tai họa tìm đường lánh đây.
Luống khoai, ao cá, vườn cây,
Đất lành chim đậu, tháng ngày thong dong.
Thêm gian nhà mát hướng đông,
Mở trường học nhỏ, dân vùng mừng vui.
Gửi con em tới theo đòi,
Gió thơm đồng nội truyền lời giảng văn.
Sớm thầy ngắm núi hoa sương,
Chiều ôn thế sự ngẫm thương nỗi đời.
Khi cùng dân giã, lưới chài,
Miếng trầu điếu thuốc một vài câu thăm.
Khi xem dệt cửi, ươm tằm,
Khuyên con cháu giữ tính chăm nết hiền.
Được lòng yêu kính suốt miền,
Việc làng việc nước, cậy phiền lo toan.
Làm dân cho đến làm quan,
Góp tay bồi đắp giang san cũng là.
Ngã nhân bởi tự lòng ta,
Xá gì ảo ảnh sương sa cõi người.
Miễn sao thiên hạ cùng vui.
Thuận hòa một gốc đạo trời nhân duyên.
Lão ông mừng gặp người hiền,
Đức cao tâm rộng địa tiên chốn này.
Hàn huyên trà rượu đôi ngày,
Mới đem chuyện bạn ngõ bày xem sao.
Diệu Hoa hiền đức má đào,
8.400.  Xứng cùng chàng Bảy trí cao lòng từ.
Thuận duyên, người gởi, người thưa,
Sang mùa hoàng cúc, một nhà phượng loan.
Đôi bên rể quý dâu hiền,
Gia đình hạnh phúc dưới trên thuận hòa.
Khiêm nhường đối đãi gần xa,
Trong tình chồng vợ ngoài ra bạn hiền.
Diệu Hoa quản trị điền viên,
Lại cùng chàng lúc bút nghiên văn bài.
Tiếng ngoan đồn khắp trong ngoài,
Người trên kẻ dưới nức lời mến thương.
Lại hay cứu vớt tai ương,
Biết bao kẻ khó được nàng giúp cho.
Thấy ai có chút lòng từ
Là nàng khuyến khích coi như thân tình.
Yêu thương khắp loại chúng sinh,
Giữa phồn hoa rắc nhân tình nơi nơi.
Bảy lần sanh, bảy con trai
Đều là cốt cách trí tài vô song.
Tính cha nết mẹ theo dòng,
Kết giao hiền sĩ anh hùng bốn phương.
Thị thành cho đến thâm sơn,
Đều từng in gót bảy chàng dạo qua.
Bởi lòng cầu tiến thiết tha,
Nghe danh ẩn sĩ đâu là tìm ngay.
Khi mong thêm một bạn hay,
Khi cần được một bực thầy bảo ban.
Sự tình khiến một thượng quan,
Vốn tay xiểm nịnh quyền gian bực mình.
Phần ghen lừng lẫy tài danh,
Phần nuôi giận cũ nên sanh oán thù.
Lòng thầm hằng nghĩ mưu mô,
Đặt lời sàm tấu lên vua ngày ngày.
Phải khi dân gặp thiên tai,
Người đau kẻ chết trong ngoài xôn xao.
Anh em lo giúp đồng bào,
Nịnh quan thừa dịp đặt bao bẫy ngầm.
Rồi tâu là họ mưu toan
Xúi dân nổi loạn, tính đường cướp ngôi.
Cớ gian trình sẵn đây rồi,
Vua tin truyền giữ bảy người khảo tra.
Mưu thù quyết hại không tha,
Cho tiền quản ngục bắt tra cực hình.
Được vàng lại sẵn máu tanh,
Mấy tên trâu ngựa hết mình làm theo.
Ngày đêm khảo đã đủ điều,
Đòi ăn đút lót thật nhiều ngọc châu.
Nhưng gia đình có tiền đâu,
Của riêng đã giúp đồng bào tai ương.
Thế là nát thịt tan xương,
8.450.  Anh em chết tại ngục đường lặng im.
Nhưng dù che giấu mọi tin,
Cũng không mấy chốc, dân liền xôn xao.
Gái trai già trẻ khóc gào,
Bên thành kéo đến xin vào kêu oan.
Mặc cho giáo chặn binh giàn,
Quyết lòng tố cáo nịnh quan hại người.
Bây giờ mới rõ mười mươi,
Nhà vua sửng sốt lại mời trăm quan.
Nửa đêm tới họp triều đàng,
Sai vệ binh bắt kẻ gian hạ tù.
Rồi cho quân lính truyền loa
Loan tin dân biết để mà trấn an.
Nhưng dân căm uất vô vàn,
Kêu gào xin điệu kẻ gian ra ngoài
Để dân sẽ tự phanh thây,
Ăn gan, uống máu họa may vui lòng.
Nói rồi toàn thể đám đông
Chẳng nề gươm giáo quyết xông vào thành.
Chí dân làm cả triều đình,
Dẫu đầy quân tướng cũng kinh hoảng người.
Thế cùng sắp máu xương rơi,
Trên thành chợt thấy một người vội ra.
Chính là hiền mẫu Diệu Hoa,
Thiện danh đã khiến nhà nhà kính yêu.
Xuân thu tuổi dẫu qua nhiều,
Nghi dung còn vẻ diễm kiều chưa phai.
Vẫy tay, từ tốn cất lời:
“Đồng bào xin hãy nghe đôi câu này.
Chính tôi sầu thảm nhất đây,
Sinh con đâu biết có ngày tang con!
Hận thù hẳn chất như non
Nếu không nhớ lại: khi còn bình sinh
Các con tôi hướng việc lành,
Nguyện đem thân giúp chúng sanh thuận hòa.
Lẽ đâu chết lại thành ra
Mối cừu hận để nhà nhà máu rơi.
Các người đã thương con tôi,
Thì xin ghi nhớ những lời lẽ xưa.
Oán nào giải oán bao giờ,
Máu nào gội được máu thù cho tan.
Hãy về thể hiện tình thương,
Là cho hồn trẻ suối vàng được vui.”
Dứt câu, sông núi ngậm ngùi,
Từ âm khiến cả lòng người dịu theo.
Lệ tuôn thương nhớ còn nhiều,
Nhưng quay về với những điều từ bi.
Rồi hiền mẫu đến rừng kia
Chắp tay kính đức Đại bi trên tòa.
Phật rằng “tín nữ Diệu Hoa,
Dù cho muôn loại một nhà máu xương.
Cùng trong ải nghiệp vô thường,
Ân ân oán oán trăm đường vào ra.
Chấp người nên mới có ta,
Có mình nên mới có nhà trầm luân.
Giờ con muốn rõ quả nhân,
Thì ta cũng kể một lần cho nghe:
Kiếp xưa có bảy người kia
Không nhà, thất thểu không nghề sinh nhai.
Chúng hay lui tới thôn ngoài,
Nhà bà lão bán hoa lài từ xưa.
Kiếm ăn dù đói hay no,
Cũng dành hoa để dâng chùa sớm hôm.
Nghe lành, ngắm Phật làm gương,
Đài sen như thấy tỏa hương thơm đời.
Một hôm bà lão đi rồi,
Bọn kia dắt trộm trâu người đem ăn.
Bà về gặp bọn sát sanh
Buộc trâu làm thịt thôi đành tính sao.
Biết rằng ác báo kiếp sau,
Nhân nhân quả quả nối nhau chẳng rời.
Nguyện rằng sau có ở đời
Thì xin độ được bảy người hiền lương.
Trần gian ảo hóa vô thường,
Oán xưa chồng chất tìm đường báo nhau.
Quan triều, chính kiếp xưa trâu
Bị đem giết thịt hẹn sau oán đền.
Còn bà lão đã phát nguyền,
Diệu Hoa đó, con hiền bảy trai.
Ác căn còn cũng nhớ người,
Duyên lành hóa cải đổi dời hư không.
Ngộ mê cũng tại nơi lòng,
Quả nay hẳn rõ nhân trồng kiếp xưa.
Dù nơi động thẳm non mờ,
Tránh sao khỏi quả đến giờ báo sinh.
Cõi đời nhục nhục vinh vinh,
Nổi trôi bọt nước bồng bềnh sông mê.
Chỉ còn nguyện đến bờ kia,
Yêu thương vô hạn đi về thênh thang.
Tử sinh như cát sông vàng,
Mười phương cõi giới con đàng vào ra.
Giả hình như bóng chim qua,
Như sông biển réo Ta-bà bọt sôi.
Xá gì một gợn mây trôi,
Mà chân vướng mãi luân hồi trầm luân.
Sông thanh tịnh xả bụi trần,
Đạp muôn quách mộng một lần cho tan.
Ngẫm xem suốt cõi trần hoàn,
Khác gì ảo ảnh mênh mang giữa trời.
Niệm sinh như lớp mây dời,
8.550.  Một, hai: vọng chấp lòng người mà ra.
Hợp, xung cũng một lòng ta,
Mười phương pháp giới đều là thể tâm.”
Bấy giờ giữa chốn tuyền lâm,
Vua quan cũng đã kéo dần tới nghe.
Chắp tay im lặng dưới hè,
Hoa bay thấp thoáng, mây che chập chùng.
Pháp hiền như vẳng hồng chung,
Xóa tan sầu hận vô cùng vô biên.
Lòng người như đóa bạch liên
Giữa nơi mê vọng ưu phiền nở ra.
Vua, quan tỉnh thức trần sa,
Noi gương tín nữ Diệu Hoa đại từ.
Như đêm tỏ hiện chân như,
Như bầy hạc giữa không hư tìm về.
Y nương dưới cội Bồ-đề,
Cây non cỏ nội bốn bề xanh tươi.
Như xuân nhuần thấm đất trời,
Như triêu dương trải nắng tươi ngọn ngành.
Như chim nhạn vượt non thành,
Kiếm hoa dương trải áo xanh dưới cầu.
Thấm câu pháp vị nhiệm mầu,
Như đêm thu vẳng chuông đâu trầm từ.
Như dùi mõ vọng không hư,
Khiến người dứt nỗi ưu tư tục trần.
Khiến cây cỏ dục lòng xuân,
Khiến mây nhớ núi lại vần vũ bay.
Diệu Hoa đứng dậy chắp tay,
Cành bông vương giữa tóc mây đôi bờ.
Gió trời thoang thoảng hương đưa,
Nét môi đào thẫm thốt thưa nhẹ nhàng
Rằng con tỉnh giấc mơ vàng,
Đức này hồi hướng khắp hàng nhân thiên.
Nguyện cho mười cõi dưới trên
Phúc duyên tỉnh giấc sầu miên hận thù.
Quy nương chính đạo tín tu
Ngọn đèn trí huệ nghìn thu dõi hiền.
Trên bờ cỏ úp tay tiên,
Như lan bạch ngọc đặt lên gấm trời.
Lễ xong lui đứng bên Người,
Nhà vua cũng lại phát lời thệ cao.
Quần thần kẻ trước người sau
Cũng xin thệ nguyện lễ đầu thiết tha.
Một bầy chim tự phương xa
Bay về ríu rít trải hoa cúng dường.
Thinh không hiện áng mây hường,
Kết thành quạt báu tỏa hương diệu kỳ.
Cúng dường đại lễ quy y,
Gió thơm thổi sạch mê ly bụi trần.
Người người tuần tự lui chân,
8.600.  Đức vua cùng với quan quân trẩy về.
Lúa xanh ngan ngát đồng quê,
Tiếng ai gọi nghé trên đê vọng đài.
       
42.    Hóa thân cứu đời  

Đài hoa còn đọng sương mai,
Khu thành La-duyệt nắng phơi phới vàng.
Chim từ non biếc tìm sang,
Như mây vân tập ca vang rừng tùng.
Bên đồi Phật dạo thung dung,
Ngắm sương đọng nhụy tựa dòng ngọc soi.
Ngàn bông nở cánh tuyệt vời,
Gió thơm cũng thoảng hương trời lan xa.
Phật nguyện cho khắp cỏ hoa
Năm năm tháng tháng rườm rà trái bông.
A-nan hoan hỉ cõi lòng,
Ngàn mai rũ sạch trần hồng tuyết băng.
Khác gì người thấm đạo vàng,
Nhuần cơn pháp nhũ như hàng hoa kia.
Tại sao kẻ ngộ người mê,
Kẻ sau người trước lối về quê chung.
Chẳng như cỏ nội hoa rừng
Cùng soi tỏ dưới tưng bừng nắng mai.
Phật thông cảm nỗi lòng ai,
Mới bày sau trước đôi lời thong dong:
“Tánh người nào khác viền trăng,
Mây che mờ tỏ cung hằng vẫn như…
Thuở xưa trong cõi Diêm-phù
Có vua trí đức đại từ đại bi.
Lòng ngài như suối lưu ly,
Như hang mầu nhiệm diệu kỳ lửa soi.
Lời như trầm ngát cõi trời,
Thân như khuôn ngọc tuyệt vời nhân gian.
Thường rời cung điện cao sang,
Vì dân đi khắp thôn làng gần xa.
Ở đâu có vết chân qua
Là người an lạc thuận hòa dưới trên.
Khiến cho tiêu oán, tan phiền,
Nhân dân khắp nước trọng hiền đãi Tăng.
Một hôm có nhóm thiên văn
Vào tâu vua chuyện muôn phần khẩn trương.
Họ xem điềm hiện khác thường,
Rõ là hạn hán tai ương khắp kề.
Một hỏa tinh nọ hướng về,
Nước nhà tất hẳn muôn bề lầm than!
Vua liền cùng với trăm quan
Tìm phương cách để cứu dân kịp thì.
Đêm ngày bàn lại tính đi,
Chưa tìm được một lối gì tránh qua
Thì trời nắng cháy thịt da,
Dân quê chết đói như là rạ khô.
Đó đây dần cạn ao hồ,
8.650.  Rừng sâu cũng vẻ xác xơ lá cành.
Sớm chiều vắng bặt tiếng chim,
Nơi nơi hiện cảnh im lìm xót xa.
Ngày càng ngày một nóng ra,
Lòng vua đau xót biết là kể bao.
Trông lên thăm thẳm trời cao,
Cây không lá động, thấy nào gợn mây.
Đêm đêm cũng nực như ngày,
Bệnh mùa lan rộng dân đầy hoảng kinh.
Buồn lo trùm khắp triều đình,
Bao nhiêu kế hoạch cũng đành như không.
Lệnh truyền ải Bắc thành Đông,
Theo vua tích thiện thêm lòng giới trai.
Ăn năn ác tội sâu dày,
Thành tâm chuyển cộng nghiệp này mới thôi.
Của công ban phát nơi nơi,
Giúp dân trong lúc nạn tai mịt mờ.
Nhưng sông cũng đến cạn khô,
Khắp nơi người chết không mồ lấp chôn!
Vua truyền ngôi lại cho con,
Một mình tìm chốn động non tu trì.
Nguyện sao được hóa thân đi
Làm mưa rửa sạch sân si tội người.
Làm mây che rợp đất trời,
Khiến cho lúa trổ đòng tươi được mùa.
Quả như đại nguyện nhà vua,
Bảy ngày sau chuyển gió mưa khắp miền.
Triều đình vui sướng vô biên,
Vào hang động thỉnh vua hiền ngự ra.
Nhưng trên cội đá rêu pha,
Ngài đã nhập diệt, tim lòa hào quang.
Nhục thân kết hiện sắc vàng,
Tinh anh hóa chuyển muôn làn mây bay.
Xôn xao tin khắp đó đây,
Nguyện vua khiến hỏa tinh xoay khỏi vùng.
Ở đâu gió gợn, lá rung,
Là như còn vọng trầm hùng tiếng xưa.
Ruộng vườn tươi mát dưới mưa,
Tiếng chim đây đó cũng vừa tiếng ru.
Suối còn chảy mãi thiên thu,
Sông còn nhắc chuyện đức vua hóa hình.
Đêm còn trăng tỏa lung linh,
Vẳng nghe khúc hát thanh bình dân gian.”
Bấy giờ hiền giả A-nan
Hiểu vua xưa: chính tiền thân của Ngài.
Biết bao kiếp trước, Như Lai
Đã phát nguyện lớn độ người trầm luân.
Ví mà diệt hết tham sân,
Niết-bàn hóa hiện cõi trần đâu xa.
Lòng người nào khác muôn hoa,
8.700.  Mỗi hương mỗi sắc mặn mà kém chi.
Trước sau rồi vẫn đến kỳ
Nụ khai, trái kết cũng thì đua tươi.
Tiệm tu thiện nghiệp đời đời,
Trăm năm đâu phải kiếp người là xong.
Quẩn quanh sáu cửa bụi hồng,
Mình đem mình buộc trong vòng quẩn quanh.
Như chim bói cá màu xanh,
Nhớ hồ xưa lại tìm cành đậu soi.
Sao như cánh trắng hạc trời,
Vút đi chẳng vết đường đời giữa mây.
Bấy giờ một bước xa bay,
Chuyển mê ngộ nhập phút giây tức thì.
Nắng hồng rực giải thoát y,
Ngàn hoa khiến bướm say về lả lơi.
Một dòng hoa nổi giữa trời,
Một dòng hoa nở trong người trầm tư.
Cánh nào mở cõi không hư,
Phiến băng tuyết khảm một tờ tim cang.
    
43.    Vẽ tranh hoá đạo     

Nắng mai tươi sắc y vàng,
Phật cùng hiền giả A-nan lên đường.
Bầy chim rời cội lá sông,
Bay theo cất giọng hát mừng chân như.
Tiếng nào lạnh giữa tâm hư,
Lòng hoa hồ cũng trầm tư diệu vời.
Thành xa một giải chân trời,
Cờ pha mây đỏ ủn hơi vọng đài.
Sương vương giải áo Như Lai,
Sáng như ngọc nạm trên vai tỏ ngời.
Cổng thành vừa ghé tới nơi,
Ngựa xe phố thị vọng lời xôn xao.
Bên đường, cạnh gốc thông cao,
Có một chú bé hồng hào xinh thay.
Đương chơi đất cát đắp xây,
Lũy thành như thật, đủ đầy dinh cơ,
Phố phường cung điện nguy nga,
Trại, sông, kho, chợ, lại nhà chúng dân…
Mừng vui thấy Phật tới gần,
Bé lựa miếng đất đưa dâng lên ngài.
Thế tôn nhận lấy mỉm cười,
Tay xoa đầu trẻ, xong Người bước êm.
Dấu chân hóa độ uy nghi,
Gần trưa, trở lại rừng hiền thênh thang.
Bấy giờ Phật bảo A-nan,
Đem miếng đất trẻ cúng dàng cất đi.
A-nan thấy sự lạ kỳ,
Nghĩ đây hẳn có duyên gì sâu xa.
Cất rồi trầm mặc dưới hoa,
Việc kia chẳng dám đem ra thưa bày.
Phật nhìn thấu rõ lòng ngay,
8.750. Gọi A-nan đến dưới cây hạnh đào.
Phật nằm trên võng tơ chao,
Một đôi bướm trắng đậu vào tóc xanh.
A-nan bên đức cha lành,
Ngồi trên phiến đá dưới cành hoa vương.
Phật cho hay: hạnh cúng dường,
Tâm vô cầu ấy dị thường phúc duyên.
Kiếp sau trẻ nhỏ ngoan hiền,
Là vua A-dục miền miền đội ơn.
Sẽ vì xá-lợi Thế tôn,
Mà xây bốn vạn tám ngàn tháp cao.
Để chia linh ngọc cất vào,
Cho người các nước mai sau phụng thờ.
Còn bao công đức nhà vua,
Làm nên sáng tỏ bốn mùa khói hương.
Trần gian là Chuyển luân vương,
Khiến người ngộ đạo chân thường Như Lai.
Thương dân, hòa hợp đất trời,
Dựng lên triều đại lưu đời vẻ vang.
Đó là phúc báo cúng dàng,
Nguyện kia như ngọc kim cang diệu vời.
Lại sau thị hiện cõi ngoài,
Phương Nam sẽ đến, chuyển khai đạo hiền.
Xuất thân từ chốn am thiền,
Trị bình thiên hạ, uy quyền không hai.
A-nan lại hỏi thêm lời,
Vì sao ngài được đời đời tôn xưng.
Phật cười, kể chuyện tiền thân,
Của ngài trong một kiếp trần xa xưa.
Ở nơi cường quốc làm vua,
Đương khi có Phật Phất-sa độ đời.
Nhà vua thường được tới lui,
Đạo tràng nhuần thấm những lời Phật ban.
Thấy là lợi lạc vô vàn,
Nên thương các nước lân bang, chư hầu.
Xa xôi, nào tới được đâu,
chiêm ngưỡng Phật, mà cầu tiến tu!
Vua truyền mời khắp họa sư
Tới đạo tràng, dụng công phu hết mình.
Ngắm Phật mà vẽ vào tranh,
Bao giờ xong, sẽ đem hình dâng vua.
Năm sau được tám vạn tư
Bức tranh giống đức Phật-đà như in.
Lòng vua mừng rỡ vô biên,
Vội đem trao tặng các miền trời xa.
Được tranh như thấy Phật-đà,
Muôn muôn người ở nơi xa vui mừng.
Đức vua lại thệ nguyện rằng:
“Hóa khai Phật đạo, khó khăn chẳng nề.
Giúp đường vượt thoát tham mê,
8.800. Nhân gian trồng cội Bồ-đề xanh tươi.
Yêu thương sáu ngả, muôn loài,
Dẫu bao nhiêu kiếp cứu đời, xả thân…”.
Nguyện vua lớn rộng vô ngần,
Cõi sinh tử đã bao lần vào ra.
Nhờ công đức ấy bao la,
Khơi nguồn chính đạo, truyền loa pháp hiền.
Phúc căn đầy cõi tam thiên,
Ta-bà thị hiện hóa duyên Bồ-đề.
Khiến người khai ngộ chuyển mê,
Xa lìa tham hận nương về tánh chung.
Đại bi, đại trí, đại hùng,
Nguyện thề độ lớn vô cùng chúng sinh.
Quả này gieo tự nhân trên,
Giờ thành chính giác bốn bên hộ trì.
Khiến cho ngàn cõi quy về,
Muôn sông cũng lặng sóng mê thì thào.
Nói xong Phật nhặt cành đào,
Trong lòng tay ngọc hồng hào tỏa hương.
Một đôi sáo đất viễn phương,
Về ăn hạt hạnh bên đường rụng rơi.
Phật cầm y đỏ giáng trời,
Nghe trong gió thoảng còn lời diệu âm.
Dường như tiếng vọng tuyền lâm,
Dường như hương thoảng rừng trầm non mai.
 
44.    Con rắn cúng ngọc     

Thế tôn nhìn ngắm mây bay
Sớm qua núi biếc, chiều này sông lam.
Ngài truyền hiền giả A-nan
Bảo cho đại chúng khóa an cư là:
“Như sông gợn bóng mây qua,
Như non bát ngát đường hoa vân trình,
Trầm tư khai mở trí mình,
Từ bi hóa độ chúng sinh mọi loài.
Đem mình giới hạn trì trai,
Phá tan mê chấp trong ngoài có không.
Như đuốc tỏ chốn bụi hồng,
Như than bích ngọc thoát vòng trần lao.
Tâm tư vạn cửa bạch hào,
Trải y phước địa lối vào nhân thiên…”
Sớm mai từ giã non thiền,
Hàng hàng Tăng chúng các miền vân du.
Như hạt quý trải Diêm-phù,
Thôn lan, thành trúc, động du hoa vàng.
Ta-bà xông giải thoát hương,
Như xuân nắng đượm mười phương đất lành.
Thời gian thấm thoát qua nhanh,
Đã nghe rừng hạ phơi cành lá thu.
Gót chân trầm mặc thiền sư,
Đất in đậm dấu đại từ liên hoa.
An cư kiết hạ vừa qua,
8.850.  Giờ về Xá-vệ nơi Cha tụ lành.
Như ngàn hạc lướt mây xanh,
Đem hoa khắp cõi về thành cúng hương.
Phật ngự tòa pháp chân thường,
Chung quanh Tăng chúng y hường như mây.
Vui mừng nụ cũng đơm cây,
Cúng dường chim cũng họp bầy nhã ca.
Lưng trời mây kết tàn hoa,
Chập chùng núi khoác giang hà thiên thanh.
Sương giăng lưới ngọc trên cành,
Cát hồng mã não trở mình khói sương.
Bấy giờ đức Phật Thế tôn
Hiện hào quang đẹp dị thường tỏa soi.
Lắng nghe tâm kệ từng người,
Môi tươi nét ngọc mỉm cười ngậm hoa.
A-nan khoác tấm y đà,
Miên man dưới gốc cội hoa lắng nhìn.
Thấy Phật hoan hỉ trang nghiêm,
Chẳng hay do tự cơ duyên thế nào
Kiếp này trong ánh bạch hào
Mênh mang biển trí thanh cao khác thường.
Da người mây nhuộm triêu dương,
Mắt ngời vẻ ngọc chân thường tỏa soi.
Tai người như cánh bạch mai,
Răng đều như hạt trên đài sen hương.
Thoáng trông Phật đã tỏ tường,
Biết A-nan nọ vấn vương cõi lòng.
Muốn cho đệ tử tỏ thông,
Dẫn vào biển pháp mênh mông nhiệm huyền.
Nói ra tiền kiếp nhân duyên,
Có ông trưởng giả nổi tên một vùng.
Quá tham giữ ngọc cất vàng,
Giấu chôn sáu hố dưới hàng liễu dương.
Nhưng rồi nào khỏi vô thường,
Ngày kia rồi cũng mồ sương tiêu điều!
Vì tâm tham đắm mạn kiêu,
Đọa làm thân rắn sớm chiều giữ kho.
Sống ôm tiền bạc bo bo,
Chết đi vẫn lại trong lò nghiệp căn.
Quẩn quanh bên hố ngọc vàng,
Gặp khi Bồ-tát thênh thang tới miền.
Nghĩ thương nghiệp rắn đảo điên
U mê trong cõi triền miên đọa đày.
Nhà sư giải nghiệp sâu dày
Khiến cho rắn nọ tỉnh ngay mộng trường.
Ngài khuyên trong cõi vô thường,
Tham mê là gốc con đường chúng sinh.
Vì dày nghiệp cội vô minh,
Tù thân trong cõi giả hình giả danh.
Tiếc gì mấy hũ ngọc vàng,
8.900.  Mà làm kiếp rắn hổ mang nhọc nhằn.
Nên đem làm phước tu nhân,
Cúng dường, bố thí, giải sân si này.
Rắn nghe lệ cũng rơi đầy,
Dẫn về sáu hố khai bày ngọc châu.
Rồi khoanh thân cúi sát đầu
Bò vào bình bát nhiệm mầu thiền sư.
Ngài mang về đến sân chùa,
Gặp khi Tăng chú đương giờ thụ trai.
Nhà sư đem chuyện giãi bày,
Trong bình rắn mới nghe thầy bò ra.
Cúng dường sáu hố ngọc ngà,
Cúi xin trước vị duy-na chứng giùm.
Giờ đây khắp cả trai đường,
Nghe ra thấy chuyện dị thường lạ thay.
Rồi liền sau bữa thụ trai,
Tụng kinh trì chú người người nhất tâm.
Khiến cho rắn sạch mê lầm,
Quy y Tam bảo gieo mầm hóa sinh.
Cõi trời rắn được hiển vinh,
Cũng do phước quả sáu bình ngọc châu.
Nhớ ơn pháp nhũ nhiệm mầu,
Lại cùng Tăng chúng nguyện cầu hóa duyên.
Bao đời sạch oán tan phiền,
Tiến tu vượt cõi sầu miên tuyệt vời.
Còn như chuỗi bọt sóng sôi,
Quẩn quanh sáu nẻo luân hồi tham sân.
Chấp mê ảo huyễn hồng trần,
Khiến thân khẩu ý muôn phần đảo điên.
Sáu căn như cửa sông phiền,
Nghiệp lực như nước triều lên trùng trùng.
Mắt người như sóng xuôi sông,
Ý người như ngựa trên đồng chạy hoang.
Thức người như lớp thành vàng,
Mông mênh huyễn giác muôn làn khói mây.
Cơn cơn mộng ảo trùng vây,
Khác chi từng bẹ thân cây chuối này.
Khiến thành nghiệp thức mê say,
Đẩy vào mãi chốn đêm dài vô minh.
Thế nên sáu loại chúng sinh
Tù giam trong chốn ngụy hình chẳng ra.
Quẩn quanh cõi mộng Ta-bà,
Chuỗi đời vô lượng trần sa khác nào.
Khởi duyên như sóng theo nhau,
Tự đem oan trái buộc vào lụy thân.
Long đong nhật nguyệt xoay vần,
Hợp tan một cõi phù vân rạc rời.
Chân tâm chẳng bến chẳng nơi,
Niết-bàn cũng chỉ như hơi khói đùn.
Để người vượt cõi mây un,
8.950.  Khác chi chớp lóe sương phun nhạt nhòa.
Cũng do phương tiện hóa ra
Hư không một cõi thành hoa diệu vời.
Là đẩu tinh dẫn người người,
Long dong trôi dạt trùng khơi mê mờ.
Mãi tìm bến đậu trong mơ,
Chấp tham sáu cửa vật vờ bước chân.
Thôi thì này nọ ngã nhân
Khiến cho mầm cội mê sân khởi hoài.
Như cơn nước dữ đưa người,
Bánh xe nhân quả luân hồi mãi xoay.
Bây giờ nương dấu thành mây
Vượt qua huyễn giới, theo thầy quy y.
Bóc từng bẹ chuối thân kia,
Vượt muôn bờ vực tế vi tự mình.
Cửa vào cõi giới tâm linh,
Như hoa nở giữa bình minh nắng hồng.
Như chim cánh vút từng không,
Chẳng lưu dấu giữa bềnh bồng mây trôi.
Chân tâm chẳng bến chẳng nơi,
Cũng không biểu tượng, chẳng lời chia phân.
Con đường ngộ nhập tánh chân
Là đường chẳng một dấu chân kiếm tìm.
Mười phương pháp giới vi trần
Cũng là điên đảo mê sân hiện bày.
Như cơn bệnh lớn trong người,
Từ vô thủy kiếp bao đời trầm luân.
Bây giờ gặp được hiền nhân
Chỉ phương diệu dược chữa thân an lành.
Một khi vọng nghiệp tan tành,
Từ trong sân ngục mê thành thoát ra.
Bấy giờ khắp cõi Ta-bà,
Niết-bàn cũng tự trần sa trở mình.
Chân tâm tối diệu, tối linh,
Ngữ ngôn cũng bặt, bóng hình cũng tan.
Đó là đường xuất thế gian,
Cũng là lối nhập trần hoàn độ tha.
Như xuân nắng đượm muôn hoa,
Như hư không nọ chói lòa từ quang.
Mười phương pháp giới bụi vàng
Nằm trong hơi thở một làn sương bay.
Đạo tràng phơ phất hoa lay
Kết thành sương quý quanh đài pháp vương.
Phật ngồi áo nhuộm tà dương,
Chúng Tăng như bụi mây hường nổi quanh.
Núi nghiêng thành quách chàm xanh,
Gió xa cuốn tự mấy cành vàng rơi.
Đàn chim lác đác chơi vơi,
Tụ về ca hát dâng lời dưới hoa.
Lưng non chuông vọng từ hòa,
9.000.  Mây vàng lãng đãng trên tà y bay.
Sông xa triều đã dâng đầy,
Non xa suối vẳng âm dây độc huyền.
Bốn bề xanh ngắt thiên nhiên,
Vẳng đâu tiếng mõ bên triền ngân sương.
 
45.    Thắng lòng tham dục     

Ngày xưa trong xóm Trầm Hương,
Từng đôi cò đậu trên đường tre xanh.
Chân non suối lụa viền quanh
Nhịp cầu trúc nhỏ uốn ngành kiêu sa.
Là nơi trang trại cúc hoa
Của một dật sĩ khề khà thu đông.
Ngày ngày trồng cải ươm bông
Hoặc chôn mấy hũ rượu hồng đợi xuân.
Con ông tên gọi Thanh Vân,
Tuổi vừa đôi tám đương ngần đào tơ.
Nghiêng nghiêng tóc xỏa vai bờ,
Đêm đêm dệt sợi hững hờ gió bay.
Một chiều hong lụa suối tây,
Dòng xanh xanh nhận chìm mây vàng vàng.
Lưng trời xao xác chim sang,
Tiếng như lá rụng trên giàn thiên thanh.
Nàng nghe thiền trượng khua gần,
Nhà sư vân thủy dừng chân cổng ngoài.
Như hoa tuyết phủ đôi mày,
Dáng đâu hạc nổi từng mây hiện về.
Sư rằng “hong lụa tơ kia,
Sao còn chiếc áo Bồ-đề chẳng phơi?”
Nàng thưa “từ thuở ra đời,
Chưa từng thấy áo như lời thiền sư.”
Sư cười: “vẫn ngủ say ư?
Y nương từ thuở bao giờ đã quên.
Hãy mang thuốc đến làng bên
Cứu người đang bệnh, biết liền áo đâu.”
Lời như tia sáng nhiệm mầu
Chiếu vào trong cõi trời sâu u huyền.
Nàng theo lời đến làng bên,
Rừng cao thú vọng sương đêm mịt mù.
Nguyện rằng đã mấy năm tu
Thượng cầu hạ hóa cho dù tan thân.
Đời đời nối mãi dòng chân,
Là dòng hoa nở cõi trần ngậm hương.
Bỗng dưng Vân thấy bên đường
Hiện ra cửa động kim cương chói lòa.
Xuyên mây lầu tháp muôn tòa,
Quanh quanh đường cuộn bờ hoa ngát trời.
Nhạc ca cung điệu lả lơi,
Đèn sao muôn dặm chiếu ngời hào quang.
Nội hoa đồng cỏ mênh mang
Bên dòng nước biếc đôi hàng liễu tơ.
Soi dòng, nai nhỏ ngẩn ngơ,
9.050.  Thinh không hạc trắng lững lờ vờn bay.
Dưới bờ hoa tím tầng cây,
Thuyền ai buông giữa dòng mây gác chèo.
Vẳng đâu tiêu khúc dặt dìu
Tơ vàng theo gió như chiều mưa giăng.
Rẽ hoa chợt thấy ba nàng
Từ trong cửa động dịu dàng bước ra.
Cánh hồng nhường thẹn làn da,
Giọng xuân ríu rít như là oanh kêu.
Tóc đôi dòng cuộn mây chiều,
Bước đi chầm chậm dặt dìu hái tơ.
Tới bên nàng cất tiếng thưa:
“Hôm nay sao lại tình cờ gặp nhau?
Hay là duyên nghiệp từ lâu,
Xin dừng bước để ít câu chuyện trò.
Chúng mình thân tự đời xưa,
Em tiên, chị tục, bây giờ nhận ra.
Này đây điện ngọc lầu hoa,
Này đây suối cuộn mây sa bờ đào.
Chị em ta hãy cùng nhau
Dắt tay dạo nguyệt bên bờ liễu tơ.
Nhìn trời họa mấy vần thơ,
Khơi trầm thanh tịnh, bày cờ thiên thai.
Nơi đây cảnh trí Bồng Lai,
Sông đào còn đợi tay ai dạo thuyền.”
Ngọt ngào thay giọng người tiên,
Nhưng Vân đã nguyện lẽ quên được nào.
Đành thưa: “xin tạ lòng nhau,
Duyên may được gặp, dám đâu khước từ.
Nhưng vì hứa với thiền sư
Cứu người bệnh khổ, chần chừ được sao.
Mai sau mong có dịp nào
Qua đây, sẽ lại xin vào tạ nhau.”
Nói rồi nhẹ gót đi mau,
Vì còn hình ảnh đớn đau nằm chờ.
Lại xa trong đám bụi mờ,
Có ba quỉ hiện đứng chờ một bên.
Hầm hừ cầm búa giơ lên
Hỏi “sao mi dám qua miền động ta?”
Trả lời: “khắp cõi trần sa,
Thân còn chẳng có nữa là cõi riêng.
Tôi vì trợ đạo hóa duyên,
Cứu người tật bệnh dù đêm ngại gì.
Qua đây để đến làng kia,
Nếu ông cần mạng, lúc về tôi dâng.”
Nghe xong ba quỉ bẽ bàng
Bước đi, lại hiện ba nàng liễu mai:
“Chúng em vừa thử lòng người,
Quả nhiên nguyện lớn chuyển dời được sao.
Hiện ra động ngọc non đào,
9.100.  Hiện làm ác quỉ: chị nào đổi thay!
Giờ xin giới thiệu em đây
Là mê, tham, giận, hiện bày đó thôi.
Khiến người chín nẻo luân hồi,
Khiến người bể khổ nổi trôi bọt bèo.
Bây giờ lòng nguyện xin theo
Hộ trì chính đạo một chiều chẳng sai.
Em xin tặng chị bùa này
Phá tan nghiệp mệnh trần ai khó gì.”
Nói rồi phá đám mây đi,
Trời cao như cõi lưu ly tỏ ngời.
Thôn bên nàng đã tới nơi,
Thuốc đem giải độc cho người đớn đau.
Lần hồi kẻ trước người sau,
Bao nhiêu bệnh não tham sầu sạch băng.
Lối về vượt mấy cầu trăng,
Non xa mây phủ, sông giăng khói mờ.
Lòng này không vực không bờ,
Như mây vô trụ hững hờ từng cao.
Như chim hoàng hạc non đào
Phiêu bay muôn cõi khác nào bóng hoa.
Mây hồng đã hiện vừng xa,
Sông tây chênh chếch gương ngà nhạt soi.
Đường sương lóng lánh tía ngời,
Bước chân vô ngại, cõi đời đua tranh.
 
46.    Nước vua Phạm Thiên  

Một hôm bên La-duyệt thành,
Nơi vườn mai trúc đôi cành hoa bay.
A-nan ngồi dưới cội cây,
Trên tòa đá trắng sớm ngày sương vương.
Bỗng đâu gió thoảng trầm hương,
Ngài nhìn đôi bướm cánh hường ngất ngây.
Nghĩ rằng hoa để thơm cây,
Khác gì Phật hiện cõi này trần sa.
Như chiên đàn ngát Ta-bà,
Mây hương giới định cõi xa ngạt ngào.
Mười phương rợp bóng tàn đào,
Chúng sinh nương tựa khác nào cỏ non.
Vượt ba cõi mộng chon von,
Trải mưa chính pháp mãi còn nơi nơi.
Tạng kinh diệu lý trụ đời,
Làm nên suối mạch lũng đồi kết hoa.
Niết-bàn là cõi trần sa,
Chúng sinh hiện tướng Phật-đà hóa thân.
Lòng như mây nổi chuyển vần,
Khiến đôi hàng lệ còn ngần mắt thu.
A-nan dưới cội hoa mưa,
Về nơi nhà cỏ trình thưa Cha hiền.
Giữa rừng suối thoảng chim thiêng,
Như sông ngọc cuộn não phiền cát xuôi.
Dưới hoa pháp hội người người,
9.150.  Trên cây ríu rít chim trời hoan ca.
Áo Phật như thái dương pha,
Như chuông ngọc úp giữa tòa hương bay.
Ngài giơ lên một nhành tay
Như lan bạch ngọc diễn bày pháp thiêng.
A-nan ngồi xuống một bên,
Ngưỡng trông thềm đá tỏ viền trăng cao.
Miệng ngài như nụ nhiệm mầu,
Mày cong cong uốn đôi cầu thanh vân.
A-nan quanh Phật ba lần,
Trật y vai phải dáng ngần đá thơm.
Gối quì bạch Phật Thế tôn:
“Nhân gì phúc báo lưu tồn thiên thu.
Mở khai cửa ngọc Diêm-phù,
Như chiêu dương hiện bên bờ đại dương.
Che tàn ngọc khắp mười phương,
Dựng cờ cứu độ sáu đường chúng sinh.
Hằn trong kiếp kiếp phù trần,
Mỗi đời là một dấu chân đại từ.
Mỗi thân là ngọc chân như,
Mỗi lời là một thần thư diễn bày?”
Phật rằng “tâm chẳng đó đây,
Nghìn xưa cho đến giờ này khác chi.
Mười phương thế giới lưu ly
Sinh ra rồi lại đến kỳ trụ không.
Vẫn là một thể tâm đồng,
Khác chi ảnh nguyệt trên sông sóng dời.
Như Lai thị hiện cõi đời,
Ứng thân giữa khắp cõi trời hóa duyên
Cũng là một lẽ thiêng liêng
Trong đời mê vọng dong thuyền độ tha.
Rồi ngài kể chuyện đời qua,
Trong quốc độ nọ, vua là Phạm Thiên.
Có bốn sông chảy quanh miền,
Dòng thiêng vi diệu hóa duyên độ đời.
Trên sông bọt nước nổi trôi
Tạo thành pháp bảo diệu vời vô ngôn.
Một sông diễn pháp vô thường,
Ghềnh sông nghi ngút khói hường hợp tan.
Khiến cho khắp cõi trần hoàn
Nhìn sông người lại vượt đàn vọng ma.
Hai sông thuyết lẽ không ta,
Bọt sông hóa hiện muôn tòa kim lâu.
Soi mình dưới đáy cát sâu,
Khiến người vắng lặng hận sầu ngã nhân.
Ba sông thuyết bất tịnh thân,
Trên sông cát nổi muôn phần tanh hôi.
Soi mình mặt nước phù trôi
Tự nhiên vượt thoát luân hồi chấp mê.
Bốn sông gió nổi bốn bề,
9.200.  Thổi tan cảm thọ quy về tánh không.
Tâm vua hóa hiện bốn dòng,
Trí vua hóa mặt trời hồng tỏa soi
Khiến cho nghiệp thức người người
Phá tan tập kiến chuyển dời y nương.
Dù nơi làng trúc non sương,
Đâu đâu cũng hiện y hường tàn che.
Kết thành hoa báu diệu kỳ,
Ngọc thêu ẩn hiện muôn vì sao trôi.
Lại thêm khánh bạc bồi hồi,
Bao âm thanh báu lưng trời vi vu
Khiến người sạch oán tan thù
Khiến người phát khởi tâm tu đạo mầu.
Lại thêm mấy núi trân châu,
Hào quang chiếu diệu muôn lầu ảo hoa.
Gió đưa vi vút âm ba
Khiến tâm thanh tịnh hiếu hòa hiếu sinh.
Dân muôn cõi nước hòa bình,
Đâu đâu cũng vẳng giao tình ca vui.
Thánh nhân thị hiện trị người
Gây nên sức sống nơi nơi thuận hòa.
Một hôm mây kết tàn hoa,
Ngàn con chim trắng bay về hót vui.
Xa xa từ phía mặt trời,
Cổ xe mây hiện tỏa ngời hào quang.
Trên xe đặt cánh cung vàng,
Một con ấn ngọc, một tràng bảo châu.
Xe kim luân bảo đến đâu,
Tàn mây nhạc báu nhiệm mầu đạo ca
Khiến cho rừng trổ trăm hoa,
Gió đưa hương đến muôn nhà gieo vui.
Vua ra thềm trước đứng coi,
Xe mây hạ xuống đón mời thánh quân.
Trong xe ngai báu sẵn sàng,
Vua ngồi giữa ánh hào quang sáng lòa.
Tay ngài giương chiếc cung ra,
Lưng mây lại trải mưa hoa cúng dường.
Rõ ràng đức Chuyển luân vương,
Bốn dòng sông hóa, bốn đường vàng châu.
Xe vua chuyển đạo nhiệm mầu,
Bốn đường là bốn nhịp cầu trí bi.
Người qua nghiệp sạch tham si,
Thần thông hóa hiện diệu kỳ lạ thay.
Vua là tiền thân Phật đây,
Thuở xưa trị nước, ngày nay độ đời.
Nghiệp nhân vẫn tại lòng người,
Tự mình kiến tạo lấy nơi trú mình.
Khác gì chiếc kén tươi xinh,
Khác gì trăng rọi bóng hình không hai.
Cũng là tâm thể hiện bày,
9.250.  Cũng là ảo hóa họp vầy duyên sinh.”
A-nan cung kính thưa trình:
“Nhân chi tích tụ thánh luân tụ thành?”
Phật rằng “vô lượng kiếp trần,
Non cao có một thánh nhân ẩn mình.
Làm thơ giáo hóa chúng sinh,
Khiến người thoát khỏi vô minh nghiệp dầy.
Đến ngày thân trả gió mây,
Thành kia mới có người xây tháp thờ.
Khắc lưu pháp kệ thần thơ,
Trầm hoa cúng trải bốn mùa tôn nghinh
Khiến người khai mở trí minh,
Đại từ bi cứu chúng sinh mọi loài.
Phước này thành quả vị lai,
Làm vua trị cõi trần ai bao lần.
Kiếp xưa làm Chuyển thánh luân,
Kiếp này thành Phật muôn phần viên dung.
Cõi truyền vô thủy vô chung,
Hết mê đến ngộ hết cùng đến thông.
Ngại chi kiếp kiếp trần hồng,
Nụ cười tự tại trong vòng trần lao.
Pháp hiền lưu chuyển nghìn sau,
Trong mê vọng hiện nhịp cầu từ quang.
Đó là tám nẻo đường vàng
Đưa người thoát khỏi hầm hang lửa hồng.
Quy về diệu hữu chân không,
Vào ra vô ngại viên thông xá gì.”
Dưới thềm rêu biếc lưu ly,
Khe hoa vẳng tiếng chim gì vọng âm.
Gió xa phảng phất non trầm
Dưới dòng suối giục dây cầm nao nao.
Đôi con chim lạc sông nào,
Phiêu bay trong đám mây đào đầu non.
Thông già đôi ngọn chon von,
Thiên thu biền biệt dấu còn xanh tươi.
    
47.    Xuống biển tìm kinh    

Một hôm đỉnh núi ùn hơi,
Mây trên Linh Thứu như trời rắc hoa.
Lưng non dưới cội mai già,
Bên hàng liễu rũ là nhà tịnh tâm.
Có suối vang vọng thần âm,
Tiếng đưa dường thoảng hương trầm lan bay.
Xa trông như biếc tàn cây,
Bóng che chở thế gian này khác chi.
Chư Tăng đang tụng Đại bi,
Trong đôi liễu rũ hoàng y chờn vờn.
Còn nơi động đá trầm thơm,
Riêng tòa bạch thạch Thế tôn trầm từ.
Mắt ngài khép cõi không hư,
Môi tươi mỉm nụ chân như diệu vời.
Tay hoa định mấy từng trời,
9.300.  Dáng như chuông ngọc khiến đời tịnh thanh.
Dưới hàng liễu họp thánh Tăng,
Tôn phong hiền giả A-nan hầu người.
hiền giả trí như trời,
Từ tâm vô lượng cõi đời không hai.
Nghe qua lòng nhớ chẳng sai,
Lại thêm biện thuyết là tài chuyên môn.
Quả như xứng bực nhân tôn,
Để thay đại chúng sớm hôm hầu Thầy.
Trên thềm cỏ mướt xanh tươi,
A-nan quì lạy tạ lời tấn phong.
Nguyện rằng “xin khắc ghi lòng,
Chuyển lời Phật dạy đến trong giáo đoàn.
Nguyện đem công đức này san
Ra khắp muôn loại thế gian đồng đều.”
Nắng mai rực rỡ y điều
Vây quanh rừng liễu của nhiều chúng Tăng.
Tôn giả Ca-diếp tuyên rằng:
“A-nan xưa đã thường hằng hộ bên,
Trải qua muôn kiếp nhân duyên,
Bây giờ lại được bầu lên hầu Người.
Quẩn quanh theo Phật chẳng rời,
Giữ kho tạng báu đời đời truyền lưu.”
Mục-liên thưa “lẽ cao siêu,
Thỉnh xin ngài dạy ít nhiều duyên cơ.”
Chung quanh hàng liễu bây giờ,
Bâng khuâng dải biếc hững hờ gió lay.
Ca-diếp rằng “thế gian này,
Chúng sinh duyên nghiệp họp vầy mà ra.
Khác gì ảo ảnh mây hoa,
Khác gì bọt sóng la đà ghềnh sông.
Bồ-tát hiện giữa trần hồng,
Tuyên lưu chính pháp suốt dòng thu xuân.
Như thông đỉnh tuyết xanh ngần,
Như trăng sáng giữa chuyển vần gió mây.
Xa xưa cũng ở châu này,
Lưng non kia có một ngài tịnh thanh.
Hiền tài khắp cõi truyền danh,
Vua muôn cõi nước dâng thành dưới tay.
Khác gì ngọn cỏ lá cây
Tắm trong nắng mới một ngày đầu xuân.
Cậy nhờ đức lớn hiền nhân,
Đổi thay nghiệp cội, xa gần an vui.
Một đêm giấc điệp chơi vơi,
Vợ ngài mộng thấy hai người đáy sông.
Nhấp nhô theo sóng xuôi dòng,
Rẽ lên dâng khối ngọc hồng sáng soi.
Thưa rằng “pháp tạng bao đời,
Nhân duyên giờ mới gặp người nên trao.
Phúc nhà như thể non cao,
9.350.  Ta đem thánh chủng gửi vào cậy trông.
Bồ-tát dẫn cõi trần hồng,
Tuyên lưu chính đạo nối dòng Phật gia.
Chúng sinh như nước phù sa,
Tâm tâm kiến dựng muôn tòa trí bi.
Đức ngài là biển lưu ly,
Trí ngài nhật nguyệt diệu kỳ mở khai.
Ngự tòa vô thượng Như Lai,
Dắt dìu sáu loại lên đài vinh quang.”
Nói xong hóa cánh hạc vàng,
Với mây hồng tía đôi hàng bay cao.
Phu nhân tỉnh giấc chiêm bao,
Còn nghe hương thoảng cõi nào vấn vương.
Cứ như điềm mộng dị thường,
Hẳn sinh quý tử nối đường thanh cao.
Mới đem chuyện giấc mơ đào
Bàn cùng chồng tính lẽ nào nên chăng.
Chàng rằng “nhân quả thường hằng,
Chúng mình tích đức sánh bằng biển sông.
Hẳn là cảm ứng hóa công,
Quả lành kết tụ trong dòng nhà ta.”
Thế rồi sắm sửa trầm hoa
Đến chùa cầu tự để mà ân chiêm.
Lại cùng nhau gắng tu thêm,
Phát nguyền cứu giúp quanh miền đó đây.
Kết thêm duyên phước sây dầy,
Vợ chồng tâm niệm đợi ngày trổ bông.
Lần hồi hết hạ sang đông,
Màn đêm đã hé vừng hồng một phương.
Sân chùa có triệu cát tường,
Cây hoa cổ đại trái hường kết đôi.
Phu nhân sinh trẻ khác đời,
Mình rồng uy dũng, rạng ngời tướng tinh.
Vừa ra hương ngát quanh mình,
Chim tha hoa đến cung nghinh bực hiền.
Lưng trời đàn vẳng tơ tiên,
Mây che một ngọn tàn lên diệu kỳ.
Cán bằng mã não lưu ly,
Như sao lấp lánh muôn vì chiếu soi.
Hiện ra cả mấy tầng trời,
Lầu vàng nền bích rạng ngời minh châu.
Lại nao dòng nước dưới cầu
Hiện in một cõi nhiệm mầu long cung.
San hô thành quách trùng trùng,
Đây lầu hổ phách nọ vùng cỏ hoa.
Lại thêm đặt một ngọc tòa,
Phượng long uốn khúc như là vàng soi.
Chất lên ngàn bộ sách trời,
Hào quang chiếu rọi khắp mười cõi xa.
Xếp trong một chiếc hộp ngà,
9.400.  Chạm vàng giát ngọc như là pha lê.
Chầu quanh hải vật bốn bề,
Nép bên ngai ngọc hướng về ánh quang.
Bao la sỏi ngọc cát vàng
Hiện ra lấp lánh dưới hàng hoa tươi.
Lại khi đứa trẻ mỉm cười,
Vang vang nhã nhạc đất trời reo ca.
Một hàng nhạn trắng lượn qua,
Tha hoa trải xuống như là mưa hương.
Ba ngày mây kéo tán hường,
Cây đơm trái quý cúng dường thánh sinh.
Vườn hương mừng ánh bình minh,
Song thân phát nguyện sinh linh độ trì.
Muôn kho thóc gạo phát đi,
Quên thân bố thí kể gì vàng châu.
Thế nên đặt tên con cầu
Quý danh Đại Thí mong sau dõi truyền.
Thu xuân tròn khuyết trăng thuyền,
Hoa theo hoa nở khoé duyên dịu dàng.
Lớn lên tên tuổi đã vang,
Dù cho cõi Bắc thành Nam cũng lừng.
Ngày chàng thơ thẩn trong rừng,
Vun cây tưới cỏ tưng bừng quẩn quanh.
Nhập cùng đạo lớn hóa sanh,
Đức dầy là đất, thân lành là hoa.
Đêm thường ngồi dưới trăng tà
Trầm tư lý đạo vượt qua giả hình.
Thí lười tham cứu nghĩa kinh,
Ngâm thân suối chảy, thả tình mây bay.
Vui cùng gió thoảng qua lay,
Như con bướm nhỏ ngày ngày tìm hương.
Chí người như búa kim cương,
Lòng người như bốn đại dương nước tràn.
Lời như hương gỗ chiên đàn,
Ý như xuân quyện muôn ngàn hoa khai.
Nguyện chàng như cội đông mai,
Dù cho đá lở cát bồi sá chi.

Tự tâm đại trí đại bi
Tỏa trên vừng tráng lạ kỳ đôi mươi.
Tai chàng như cánh sen tươi,
Hòa nhan ái ngữ nói cười ung dung.
Một đêm trăng dải không trung,
Tơ trăng vàng quyện một vùng bao la.
Nghe con chim lạc về qua,
Thư phòng đẩy cửa Thí ra ngó trời.
Dưới trăng hoa tỏ tuyệt vời,
Sương sa giàn thấp mây rời núi cao.
Nền trời lấp lánh ngàn sao,
Trông lên như một hố nào hút sâu.
Chợt nghe một sức nhiệm mầu,
9.450.  Xô tan thành quách trên đầu bỗng dưng.
Xanh ôi cỏ nội hoa rừng,
Dường như vạn vật tưng bừng reo ca.
Cõi lòng vời vợi bao la,
Xót thương muôn loại như là một thân.
Đắm chìm trong lửa tham sân,
Sinh, già, bệnh, tử muôn phần khổ thay.
Kiếp người như bóng mây bay,
Như sương ngọn cỏ đầu ngày nắng tan.
Thế mà suối lệ tuôn tràn,
Giả danh một cõi ai chan máu thầm.
Luân lưu ngục khổ mê lầm,
Tự mình mình lại giam trong hận thù.
Biển còn tích lệ nghìn thu,
Lửa còn nung cõi Diêm-phù mãi sao.
Nguyện này xin có trời cao:
Ta thề xô cõi chiêm bao thế tình.
Cứu cho muôn loại sinh linh
Khỏi cơn ác mộng giả hình giả danh.
Bỗng dưng trong đám mây xanh
Hiện bầy tiên nữ dâng nhành hoa tươi.
Cánh hoa vàng ửng chói ngời,
Từ bàn tay ngọc trao người chùm bông.
Vi vu sáo nhạc từng không,
Lửng lơ như áng tơ hồng vờn quanh.
Sớm sau Đại Thí vào thành
Xin cha cho chút duyên lành kết gieo.
Lập nên mấy gánh hát chèo
Diễn toàn những vở mong treo gương dầy.
Đạo hiền lan khắp đó đây,
Thần dân một cõi vui vầy ngợi ca.
Ví dù núi ngọc san ra
Chẳng bằng khuyến hóa người ta tự mình
Dứt lìa hết nghiệp vô minh,
Ở ăn sao được công bình đó đây.
Bao nhiêu chuyện tích xưa nay
Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà.
Soạn xong Thí mới xuất gia,
Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành.
Trầm tư phá mộng huyễn trần,
Đời đời giả tướng một lần tan mây.
Thế rồi đi khắp đó đây,
Tóc xanh nhuốm bụi áo mây nhạt màu.
Thênh thang cánh hạc về đâu,
Bước chân vô ngã vô cầu ngại chi.
Cõi đời còn nặng tham si,
Cứu đời ta có, ước gì ngàn tay.
Cầm bằng chuộc tội cõi này,
Nguyện vào địa ngục đọa đày thiên thu.
Một chiều chàng đứng trầm tư,
9.500.  Trùng dương vang mãi tiếng ru muộn phiền.
Chợt người tinh tấn bước lên,
Nghĩ rằng chân cứng đá mềm mới hay.
Nếu như cõi thế gian này,
Chẳng mê vọng ấy sao dầy trí bi.
Nếu ta chuyển được tham si
Thì vào đáy biển khác gì đường mây.
Nguyện xong đáy nước hiện bày
Rõ ràng một cõi cỏ cây nhiệm mầu.
Trùng trùng ngọc quách vàng lâu,
Lưng non mã não trân châu chói lòa.
Lại thêm ao ngát liên hoa,
Mỗi đài ẩn chứa một tòa diệu kinh.
Sóng dâng bọt đến bên mình,
Kết thành hoa báu dưới chân người lành.
Đại Thí đi đến bên thành,
Ác trùng thủy quái vây quanh bước ngài
Hỏi rằng “đến kiếm chi đây?
Lấy gì để vượt cửa này cho qua?”
Ngài đáp “ta có lòng ta,
Yêu thương muôn loại trong nhà trầm luân.
mười phương lớn làm thân,
Đi tìm thuốc chữa tham sân bệnh dầy.
Giờ ta tìm xuống thành đây,
Thử tìm diệu pháp khai bày nhân thiên.”
Ác trùng thủy quái quì bên
Reo to: “hơn hẳn thánh hiền xưa nay.
Chúng con trấn giữ cửa này,
Do tham sân nghiệp sâu dầy hiện ra.
Giờ xin ngài tự bước qua,
Chỉ là ảo ảnh sương sa mịt mù.”
Thí dạy: “khắp cõi Diêm-phù
Cũng từ nghiệp thức thiên thu hiện bày.
Chúng sinh mười cõi đất này
Khác gì sóng nổi sương bay vật vờ.
Tụ tan như đám mây mờ,
Một nhân ái dục đôi bờ diệt sinh.
Mê thì sóng nổi mông mênh,
Ngộ rồi muôn cõi một hình vóc không.
Bao la hiện thể tâm đồng,
Dù cho hạt cải dù bông tuyết đào.
Cũng từ tâm cõi nhiệm mầu,
Khởi duyên như nước qua cầu nổi trôi.”
Nghe xong thành quách sáng ngời,
Nào là thủy quái nào trời hồng vân
Tan đi như bóng vi trần,
Chỉ còn ánh sáng ngọc thần tỏa soi.
Đại Thí nhặt ngọc cầm tay,
Trùng dương như một cõi mây chuyển dời.
Thung dung ngài bước dạo chơi,
9.550.  Dưới lòng bể cả nơi nơi đón chào.
Lại xa xa hiện lầu cao,
Có rừng trái đỏ có hào sen hương.
Có thành thất bảo kim cương,
Sáng soi chiếu khắp bốn phương ngời ngời.
Đại Thí lại tìm tới nơi,
Bao nhiêu quỉ sứ vây người giương tên.
Thành đao lũy kiếm vững bền,
Tên bay giáo phóng dưới trên vụt vù.
Đại Thí vừa niệm nam-mô,
Cung tên thấp thoáng mơ hồ rụng bên.
Hóa ra muôn cánh bạch liên
Cúng dường trải xuống đất liền ngọc châu.
Bao nhiêu quỉ oán ma sầu
Vây quanh thánh chúa cúi đầu quy y.
Xin người đại trí đại bi
Độ cho tỉnh thức mê si nghiệp mình.
Đại Thí vừa qua cửa thành,
Một con rùa biển hóa mình xe mây.
Tàn vàng lọng gấm đủ đầy
Rước qua mấy dặm thành xây ngọc vàng.
Đến tòa bảo tháp kim cang,
Nóc cao thần bút giữa hàng hoa dương.
Ngõ vào cổng khép sóng hường,
Cát xanh biêng biếc trải đường cheo leo.
Đại hồng chuông trái rêu treo,
Thêm đôi phụng múa trên đèo hoàng hoa.
Cửa trong có tiếng vọng ra
Rằng đây chính pháp riêng tòa tạng kinh.
Cửa vào là nghiệp hóa sinh,
Đố ai mở được bồng bềnh cánh mây?
Xin người mau trả lời ngay
Nếu không tất hẳn đường này chẳng qua.
“Cái gì là pháp là ta?
Cái gì khiến một cánh hoa rụng rời?
Cái gì là ý là lời?
Cái gì khiến hạt mưa rơi bàng hoàng?”
Ngài rằng “ngã, pháp đôi đàng,
Chẳng qua lớp lớp sương vàng hóa sinh.
Cỏ hoa một cõi giả hình,
Vị gì mà để vọng tình tiếc thương.
Ý lời như áng mây vương,
Cho dù trăm nẻo trăm đường ngại chi.
Bao giờ dứt sạch tham si,
Giọt mưa cũng thể một vì sao rơi.”
Đáp xong lầu các rạng ngời,
Tan như một đám sương rời sớm mai.
Giữa lòng cát hiện con trai
Ôm nghiêng hạt ngọc như đài phù vân.
Đại Thí cất ngọc vào mình,
9.600.  Bước chân dạo khắp u minh biển dầy.
Lần theo một đàn cá bay,
Lửng lơ nổi mở đường mây dẫn người.
Thung dung chàng đến một nơi
Có hang sâu thẳm tỏa ngời hào quang.
Bọt vần uốn mấy bực thang,
Dưới lòng vực hiện xóm làng cỏ hoa.
Nào là lầu các nguy nga,
Sóng xô thành nhạc rêu sa thành tàn.
Nào là sân bích vườn lam,
Bãi hoa nụ thắm đồi cam trái hồng.
Vân du Thí lại sanh lòng,
Đã đi đi hết dưới lòng biển khơi.
Tụt thang bọt nước tới nơi,
Thôn kia đã hiện tơi bời xương khô.
Nào là quỉ hú mơ hồ,
Nào là ma khóc lạc mồ tỉ tê.
Hôi tanh máu mủ gớm ghê,
Chung quanh lại sủi bốn bề nước đen.
Thương thay bao cuộc đua chen,
Nắm xương phơi trắng là phen cuối cùng.
Càng trông càng thấy não lòng,
Bùi ngùi nhỏ nước mắt trong, hai hàng.
Giọt vừa sa, bãi xương tàn,
Tan đi hóa đám bụi vàng đùn cao.
Dưới trên như lỗ huyệt đào,
Dù trên hóa gió ra vào được đâu.
Tưởng rằng lấp ngọc vùi châu,
Cát từ từ đổ trên đầu bao la.
Thí ngồi quán tưởng trần sa,
Hòa cùng cát bụi một tòa thịt xương.
Cũng là tâm thể chân thường,
Hợp tan như áng mây vương sớm chiều.
Tâm thần bay bổng phiêu diêu,
Lâng lâng như một cánh diều lưng mây.
Thoáng như cát chạm bên người,
Lại như mai hạnh rụng rơi đầy mình.
Lòng thương trải khắp mông mênh,
Nghe thân thể nổi bồng bềnh đâu xa.
Giờ lâu ngài xả thiền-na,
Dưới lòng hang đã vượt ra lúc nào.
Dặm xa thoáng gợn mây đào,
Vờn trên ngọn núi mù cao ngút trời.
Nào là hang động ùn hơi,
Đèn ma lửa quỉ nơi nơi chập chờn.
Tiếng người thét rợn từng cơn
Lẫn trong tiếng sóng oán hờn giá băng.
Thí liền chỉ đất nguyện rằng:
“Quyết vào địa ngục thắp trăng đại từ.
Mười phương tỏ cõi Chân như,
9.650.  Tan cơn vọng nghiệp qua bờ mê tân.
Lòng người chưa cạn tham sân,
Vạc dầu còn lửa nung thân đời đời,
Ý còn điên đảo dối lời,
Lưỡi còn cưa xẻ tơi bời xương da.
Ngục sầu chẳng khép, khó ra.
Tự mình mình lại tìm nhà gai chông.
Đầy thân bảy hố lửa hồng,
Đeo thêm cùm kẹp là vòng nghiệp duyên.
Niết-bàn tám cửa thanh vân,
Xa thì muôn dặm mà gần tấc gang.
Thương thay sáu ngả bụi vàng,
Luân lưu kiếp kiếp con đàng vô minh.
Hỏi ai ai cứu được mình,
Tâm kia là đảo quang minh cậy nhờ.
Ngộ, mê chẳng cách đôi bờ,
Bừng con mắt dậy tan mơ giả hình.
Nguyện đau tâm bệnh chúng sinh,
Thân là cam lộ một bình lợi tha.
Nguyện yên sóng gió Ta-bà,
Chúng sinh vô lượng trần sa trở về.
Thệ lòng quyết bước chân đi,
Vừa vào địa ngục Thiết vi trùng trùng.
Núi xưa tỏa động ngọc hồng,
Vạc dầu chuyển hóa thành bông sen ngời.
Tiếng kêu thương hóa hương trời,
Kết thành sương báu quanh người đại bi.
Đức ngài chuyển ngục Thiết vi
Thành trời Tịnh độ lưu ly ngọc hồng.
Đau thương thành giải thoát trầm,
Mê si thành ánh trăng rằm tỏa soi.
Quỉ ma đổi tánh người trời,
Gông xiềng cùm kẹp thành hơi chiên đàn.
Ngục sầu chẳng ngõ mà tan,
Dấu chân là cõi Niết-bàn tự tâm.
Độ đời đại nguyện vừa xong,
Hạc vàng lại cất cánh bồng suối mây.
Bốn vị long vương biển này
Hóa ra một chiếc võng đầy trăng sao
Đưa Đại Thì đến rừng nào,
Là muôn hoa nở ngạt ngào dâng hương.
Ngô khoai biêng biếc bốn phương
Cũng căng mạch nhựa cúng dường thánh nhân.
Ngài vừa ngự xuống bên thành,
Thế gian che áng mây lành rộng xa.
Vào rừng thăm hỏi mẹ cha,
Bỗng dưng đất hiện hai tòa kim cang.
Lại thêm hoa kết lọng vàng,
Nụ xanh chiếu ánh hào quang chói ngời.
Hương thơm dâng cúng hai người,
9.700.  Ơn sinh dưỡng dục mấy trời công lao.
Bàng hoàng như giấc chiêm bao,
Trông ra bốn cõi ngạt ngào hoa hương.
Suối sông thành nhạc dị thường,
Như dây tơ báu giương đờn vô thanh.
Thấy con oai đức trọn lành,
Mắt soi mặt nguyệt mây thành vóc thân.
Từ ngày đường cuộc phù vân,
Trần gian in đậm dấu chân đại từ.
Núi sông mòn mỏi đợi chờ,
Một đi còn tưởng bao giờ gặp con.
Mẹ dù cạn lệ héo hon,
Cha dù ngóng nhạn đỉnh non tiêu điều.
Hướng nhìn thấp thoáng mây chiều,
Tưởng con trải bóng y điều vân du.
Năm năm mây nước cầu tu,
Trầm tư đại đạo dẫu dù xương tan.
Bây giờ ngộ nhập pháp vàng,
Thí về mở rộng con đàng trí bi.
Tin lan khắp cõi thành kia,
Người người kéo đến bốn bề y nương.
Non xanh thành chốn đạo trường,
Mây xanh kết chiếc tán hường mở che.
Gió trời thổi sạch tham mê,
Sương lam đọng hóa lưu ly tràn đầy.
Ngạt ngào cõi đất hương bay,
Mù lòa sáng mắt, mê say giật mình.
Ngài đem viên ngọc trí minh
Giơ lên: vạn dạng muôn hình biến ra.
Trái căng mật ngọt la đà,
Mầm tươi trổ đất muôn hoa nở bừng.
Ngọc vàng cát hóa hiện lên,
Suối sông mã não bốn bên tỏa ngời.
Người không tham của rụng rơi,
Mê sân như bóng sương trời tan mau.
Chẳng còn ngu muội, nghèo giàu,
Thoát vòng mê tối như nhau khác gì.
Ngài lại lấy ngọc đại bi
Giơ cao ánh sáng diệu kỳ tỏa soi.
Chư thiên mười mấy tầng trời
Thắp đèn tinh nguyệt khắp nơi kéo về
Cúng dường muôn dặm mây kia,
Kết thành lọng gấm bốn bề hoa giăng.
Chim ca mừng gió chiên đàn
Thổi bay phiền não muôn ngàn chấp mê.
Chẳng còn thù giận ngăn che,
Muôn loài tỉnh thấc quy về Phật tâm.
Bấy giờ thành thị sơn lâm,
Nhân thiên hòa hợp thú cầm yên vui.
Hai viền diệu ngọc sáng ngời
9.750.  Kết thành một phiến mặt trời bay cao.”
Phật tiếp: “đó giấc chiêm bao,
Ngàn muôn kiếp mộng lao xao sóng dồn.
Núi tan cát hợp nên cồn,
Thế gian ba cõi vô thường đổi thay.
Nghiệp duyên muôn lớp thành dầy,
Mảnh trăng tánh Phật lấp mây mịt mù.
Bây giờ phải gắng công tu,
Trau dồi thập thiện đền bù nghiệp căn.
Giữ gìn tâm trí đẹp lành,
Tốt tươi cũng ở lòng thành tỏ soi.”
Bấy giờ khắp quỉ trời người
Lĩnh nghe Pháp bảo diệu vời nhập thâm.
Ngài dạy nơi cõi hồng trần
Hết tan lại hợp xoay vần biển dâu.
Tâm kia như khối minh châu
Tỏa soi muôn cõi trước sau vẫn thường.
Dù cho muôn hướng muôn đường,
Ngàn sông về một đại dương khác gì.
Chân tâm đại trí đại bi
Hiện bày như thể muôn vì trăng sao.
Thế gian như áng mây đào,
Sương bay đầu sớm bọt trào biển sôi.
Biển xanh bỗng chốc nên đồi,
Bánh xe ảo hóa giữa trời ai xoay.
Bây giờ thành Phật cõi này,
Hóa thân trí tuệ cỏ cây cũng là.
Mẹ xưa hoàng hậu Ma-gia,
Cha hiền thuở trước nay là Phạn vương.
Bốn vua rồng trấn đại dương,
Giờ theo chính đạo một phương tu trì.
Kiếp xưa căng võng lưu ly,
Cúng dường chính đạo diệu kỳ mở khai.
Bây giờ bên đức Như Lai
Như sao Bắc đẩu bên đài sen hương.
A-nan xưa kiếp long vương,
Đã từng dâng ngọc chân thường trí minh
Khiến muôn cõi nước thái bình,
Xô tan vọng nghiệp chúng sinh đời đời.
Kiếp này phúc báo tột vời,
Suốt thông, một ý một lời chẳng sai.
Triều âm như thể biện tài,
Phục hàng ngoại đạo mở đài liên hoa.
Cho dù muôn kiếp vào ra,
Bước chân đại nguyện trong nhà trầm luân.
Nghe Phật vén mở phù vân,
Từ vô thủy đã bao lần gặp nhau.”
A-nan cung kính cúi đầu,
Bỗng dưng hoa tía trên đầu vờn bay.
Động Phật ngự chợt ùn mây,
9.800.  Hào quang chiếu tỏa ngàn cây trái hồng.
Núi quanh chim cũng phiêu bồng,
Rủ nhau đậu khắp cánh đồng khoai môn.
Từ hang trầm ngát Thế tôn
Hào quang năm sắc dị thường tỏa xa.
   
48.    Bà buôn tơ trợ đạo  

Một sáng dưới rừng ta-la,
Nhụy vàng hương cuộn như là bụi bay
Cúng dường trải xuống đài mây,
Đậu trên áo Phật hiện bày hào quang.
Gió chăng phất phới mây vàng,
Nắng pha sương nhụy ươm hàng tơ rơi.
Quanh thềm đá hiện rừng người
Chắp tay búp ngọc nở mười phương hoa.
Phật như chuông ngọc đỉnh tòa,
Tiếng ngài hòa tiếng chim ca dặm ngoài.
Khiến nên thấp thoáng hoa bay
Trên dòng suối ấm đầu ngày về sông.
A-nan dưới cội mây hồng,
Tuyên lời Phật dạy như đồng chuông ngân.
Cành sương lá động tần ngần,
Hạt sa theo ngọn suối thần âm đi.
Mắt hiền giả biếc lưu ly,
Mũi cao núi dựng môi kỳ hoa khai.
Trán no vầng tỏa thiền oai,
Lan thanh khép nét búp tay đại hiền.
Lời vàng gió thoảng hương lên,
Khiến người vượt thoát hai miền có không.
Tâm như mười cõi mênh mông,
Là xanh chim núi là hồng bãi hoa.
Là sông biêng biếc la đà,
Là hương thoang thoảng quanh nhà nhụy bay.
Dù cho hạt móc gợn mây,
Cũng là hiện thể tỏ bày chân tâm.
Ôi, A-nan giữa thuyền lâm,
Dáng từ khiến cả thú cầm họa theo.
Dưới thềm đại chúng Tỳ-kheo
Khởi tâm kính ngưỡng những điều trên đây.
Lại rằng: Người xuống cõi này,
Thân như hạc nội hoa lay giữa ngàn.
Tuyên lưu trí Phật pháp vàng,
Mỗi lời là ánh từ quang tỏ ngời.
Chẳng hay tu tập bao đời,
A-nan nay đẹp tuyệt vời thế gian.
Lòng đang suy nghĩ miên man,
Chợt nghe Phật dạy con đàng tiệm tu
Rằng “nơi ảo hóa Diêm-phù,
Nghiệp như con nghén rút tơ làm mình.
Nằm trong chiếc vỏ nôi xinh,
Rồi ra mọc cánh hóa hình tung bay.
Có con trọn kiếp tù đày,
9.850.  Thoát sao khỏi chiếc kén dầy mà ra.
Tự ta ta lại buộc ta,
Quẩn quanh sáu ngả, một nhà lửa sân.
Thức như lốc cuộn mây vần,
Tạo nên giả ngã phù vân đổi dời.
Biển trần ào ạt sóng khơi,
Cũng từ vọng nghiệp cõi người hóa sinh.
Bao giờ phá sạch vô minh,
Như con ngài nọ hóa hình bay cao.
Dù cho cuộc thế ba đào,
Hóa thân tự tại ra vào như không.
Dù cho tam thế lửa hồng,
Cũng là sen ngát trầm xông Ta-bà.
Có ta thì lại không ta,
Kể chi tham giận ái hà sục sôi.
Còn như ảo huyễn không dời,
Bậc thang khôn dại chợ đời tranh đua.
Cuộc trần mãi giấc say sưa,
Quên đi mình vẫn dư thừa tự tâm.
Chấp thêm huyễn giác mê lầm,
Đôi tay nắm giữ bóng tăm chim trời.
Một khi dứt ý lìa lời,
Tự tâm thanh tịnh tỏ ngời minh châu.
Chỉ còn hiện hữu nhiệm mầu,
Sóng mê dù chẳng đò cầu cũng qua.
Không ta thì lại có ta,
Vào trong tham dục dựng tòa Như Lai.
Bao dung muôn tính muôn loài,
Nụ hoa hạt bụi không ngoài chân tâm.
Dù nơi tăm tối mê lầm,
Kìa đây vạc lửa nọ hầm nước reo.
Dù cho trăm vạn hiểm nghèo,
Hóa thân Bồ-tát dắt dìu chúng sinh.
Gây bao phương tiện chính chân,
Khế căn cơ chuyển hồng trần sân si.
Như sen giải thoát lưu ly,
Cội hoa bất nhị xá gì bùn đen.
Nhớ xưa có một nhân hiền
Làm nghề dệt lụa khắp miền đổi trao.
Thấy người loạn tưởng lao xao,
Ý lời điên đảo kết vào nghiệp nhân.
Ruổi theo dục lạc tham sân,
Bày trò huyễn ảo muôn phần hại nhau.
Giam trong giả tướng ưu sầu,
Càng mê ái dục càng sâu oán thù.
Trí căn như ngọn đèn lu,
Nghi tâm như thể sương mù giăng vây.
Bọt bèo kiếp sống lất lây,
Cuộc đời là một lưu đày chung thân.
Chẳng còn biết nghĩa biết nhân,
9.900.  Tâm linh – nhựa cạn cây dần héo khô.
Chấp vào giả tướng mê đồ,
Trận cười hư ảo nấm mồ thây chung.
Hiền kia suy gẫm mông lung,
Làm sao diệt được trùng trùng khổ đau.
Quyết lòng hưng vượng đạo mầu,
Pháp hiền hóa chuyển ưu sầu thế nhân.
Phù trì đạo lý chính chân,
Thỉnh cầu nhật nguyệt cõi trần tỏa soi.
Chí như ngọc trụ chống trời,
Dù trong phố chợ khôn dời giới trai.
Đức người như cội đông mai,
Giữa nơi tuyết giá nào sai nguyện lòng.
Cánh hoa hiện giữa trần hồng,
Trang nghiêm cõi Phật một bông đại từ.
Thường đem diệu pháp chân như
Kết thành nhạc, họa, vần thơ khuyến người.
Dù nơi dục lạc ăn chơi,
Cũng tuyên diệu pháp khiến người hồi tâm.
Hiền giả: hiện tướng Quán Âm
Giữa nơi đen tối mê lầm mà ra.
Lụa tơ thành cõi Di-đà,
Phật là thiện mỹ có là riêng ai.
Đạo hiền như sớm mưa bay,
Khiến cho hoa cỏ trưng ngày hội xuân.
Lại thường ngăn ác phù chân,
Lời như suối mát giữa thân đại từ.
Dắt người khởi phát tâm tu,
Bỗng dưng phiền não hận thù tiêu tan.
Giúp người lận đận cơ hàn,
Bát cơm là cõi Niết-bàn tự tâm.
Lòng từ theo ngọn thần âm,
Như mưa trải khiến mê lầm sạch băng.
Một hôm đổi lụa quanh vùng,
Qua thôn kia chợt thấy vừng hào quang
Hiện ra như chiếc án vàng,
Vội theo chân đến đầu làng ngó coi.
Bên đường hiện rõ một người
Ôm bình hóa độ diệu vời dáng mây.
Áo người cỏ lướt sương bay,
Bước chân khiến rộn đầu ngày chim ca.
Môi tươi thu ẩn chìm hoa,
Thung dung tự tại qua nhà tịnh yên.
Nhác trông lòng nhẹ trăm phiền,
Thưa rằng “ngài trụ chùa miền nào qua?”
Sư rằng “ba cõi là nhà,
Trụ nơi vô trụ có là phương nao.
Như chim hồng hạc bay cao,
Ra nơi gió cuộn lại vào cửa mây.
Hôm qua vừa đến vùng này,
9.950.  Thấy non kia có động mây dị kỳ.
Đá như mã não lưu ly,
Hoa từ nở đóa chim bi hót chào.
Có khe suối vắt tơ đào,
Dường như mây tự đỉnh cao rụng rời.
Cùng Thầy ta ghé đó chơi,
Mở kinh Hiền tụng giữa trời gió thơm.
Suối vô thanh nọ hóa đờn,
Chim reo mõ tụng, mây vờn trang thơ.
Cảnh khai ý Phật truyền thừa,
Chân tâm hiện mở trên tờ kinh sương.
Sáng nay qua xóm mây hường,
San chia phước báo, cúng dường trầm ai.
Để gieo duyên với Như Lai,
Kết thành hạt quý trên đài sen hương.”
Bà kia quì xuống bên đường:
“Con xin mãn kiếp cúng dường thánh Tăng.
Để nơi u cốc gió trăng
Thầy yên tịnh niệm dẫu rằng muôn thu.
Chuyển khai đạo giữa Diêm-phù,
Lời kinh mở ách gông tù chúng sinh.
Dưới dòng giải thoát ngâm mình,
Khơi đèn tuệ nghiệp trí minh đời đời.
Là gương phúc huệ diệu vời,
Là tháp bảo ngọc người trời kính tôn.
Cõi trần mở cánh vô môn,
Là kho giống báu lưu tồn thiên thu.
Là xe vàng Chuyển luân vua,
Là gươm tánh trí mê mờ dẹp tan.
Về khơi lửa giữa đông hàn
Cho mười phương cõi thế gian sưởi nhờ.
Như thần phong nổi mây mờ
Cho lời đại giác dòng thơ vọng về.
Con xin đi khắp thành quê
Hóa duyên những kẻ chưa hề phát tâm.”
Gật đầu sư bỏ vào rừng,
Nhập thâm Phật lý nở bừng tuệ căn.
Nhân gian kết đám mây lành,
Ngục sâu cho đến trời xanh cũng về
Nương theo đức huệ trí bi,
Giữa luân hồi đảo lưu ly sáng ngời.
Người buôn tơ phúc tột vời,
Phù trì chính đạo ngăn người lầm mê.
Bao nhiêu kiếp, hạt Bồ-đề
Là căn chắc thật nay về thế gian.
Chính là hiền giả A-nan,
Như ngọc giữa cõi bụi vàng hiện ra.
Vị sư kia chính là ta,
Nay thành Phật đạo ngồi tòa Như Lai.
Thầy ta xưa trụ cõi này,
Là Định Quang Phật, trần ai độ trì.”
Nghe xong người tỉnh tham si,
Phát tâm hộ đạo kể gì thời gian.
Quanh non hiện dải sương vàng,
Kết thành sen quý vô vàn hương bay.
    
49.    Con chim soi nước       

Ngày xưa trong ấp bạch mai,
Chủ nhân có một trang đài tiểu thư.
Cẩm Hồng nàng độ đào tơ,
Lầu riêng khép nguyệt nhụy vừa hương bay.
Khi ra khiến bướm vờn say,
Khi vào khiến cả cỏ cây ngẩn lòng.
Tơ duyên đã ướm thôn trong,
Cùng chàng họ Bạch cũng dòng hiền gia.
Tưởng mau sum họp một nhà,
Trai tài gái sắc đậm đà vườn xuân.
Mới hay cuộc thế phù vân
Đổi thay như nắm hồng trần hợp tan.
Ngày sum họp tưởng tấc gang,
Ai ngờ dài mấy năm tràng gió đông.
Tưởng nhà trai nhuộm pháo hồng,
Ai ngờ một sớm đôi vầng khăn sô.
Mẹ cha còn lại hai mồ,
Cảnh nhà còn lại lá khô xạc xào.
Anh em chạy vạy nuôi nhau,
Đói no bữa cháo bữa rau gọi là.
Gia tài còn mỗi mái nhà,
Đêm soi trăng học, ngày ra cuốc vườn.
Riêng nàng thơ thẩn nhớ thương,
Một mình lầu nguyệt vườn hương dãi dầu.
Anh em quấn quýt bên nhau,
Láng giềng thân tộc trước sau mấy người.
Nhà xưa nói nói cười cười,
Bây giờ dế gọi đêm lơi rì rào.
Nhà xưa vâng dạ thưa chào,
Bây giờ lời thấp tiếng cao nọ này.
Thôi thì thù đặt oán bày,
Đã dìm xuống đất, lại dầy bùn đen.
Bạch Hùng bàn với người em:
“Ở nhà sớm tối lửa đèn khói nhang.
Còn anh ra biển buôn vàng,
Ở đây chỉ tổ xóm làng cười chê.
Ba năm tang hết, đã kề,
Còn lo xin cưới chị về sum vui.
Tránh sao miệng thế chê cười,
Phải đành buôn biển kiếm lời ngọc châu.
Chẳng hơn ở mãi bên nhau,
Bát cơm khốn đốn lá rau nhọc nhằn.
Thôi thì thôi vậy cũng đành,
Một đôi chuyến hẳn lời, anh lại về.
Trông nom hai nấm mồ kia,
Khói nhang sớm tối mọi bề cậy em.”
Thế rồi sắm sửa lên thuyền,
Lại sang nhà vợ, nỗi niềm cạn thưa.
Nhạc gia dạy: “có duyên xưa,
Một lời đã hứa, dẫu chờ bao năm.
Chúc con xuôi gió thuận buồm,
Việc nhà đã có ta thường thăm lui.”
Chàng lại dặn vợ bùi ngùi,
Ngổn ngang trăm nỗi, gượng vui kẻo là.
Người chau liễu kẻ rầu hoa,
Áo ai đẫm lệ biết là bao nhiêu.
Nửa năm rong ruổi là nhiều,
Sang xuân anh sẽ có điều cậy thưa.
Thân này nhạt gió nhòa mưa,
Bóng hình em biết bao giờ cho phai.
Cẩm Hồng lệ vắn lệ dài
Tiễn chàng về để sớm mai lên đường.
Gà vừa eo óc canh sương,
Đã đưa anh đến bến trường giang kia.
Dặn dò: thu tới anh về,
Nín đi em, chớ có hề khóc than.
Dùng dằng lệ lại chứa chan,
Nhìn anh dưới cánh buồm vàng nắng tươi.
Dần xa xa khuất chân trời,
Bạch Đàn giờ mới chịu dời gót chân.
Về nhà sau trước buồn tênh,
Thương mình cô quạnh lại phần nhớ anh.
Đêm ngày biếng ngủ lười ăn,
Tháng sau nhuốm bệnh muôn phần nguy cơ.
Nhạc gia đã nhận lời nhờ,
Nỡ nào mặc trẻ bơ vơ một mình.
Đón về săn sóc tận tình,
Lần hồi Đàn mới yên bình như xưa.
Về thì nhà dột phên thưa,
Đành nghe ở lại nương nhờ Mai trang.
Ông cho theo học cùng nàng,
Tiểu Hồng phận chị, Bạch Đàn phận em.
Khi thì đèn sách đua chen,
Khi thì câu cá hái sen vui vầy.
Chị em còn tuổi thơ ngây,
Như đôi chim nhỏ tối ngày tung tăng.
Nhớ anh lòng cũng nguôi dần,
Hạ qua vèo lại tới gần cuối thu.
Bóng anh biển vẫn mịt mù,
Thời gian theo gió vụt vù qua mau.
Hoa thay hoa lại phai màu,
Bến chờ cô quạnh có đâu thuyền về.
Thế rồi ve lại kêu hè,
Thế rồi thu lại rừng hoe lá vàng.
Sông ngoài chỉ thấy chim sang,
Bến xưa lấm tấm đôi hàng hoa thu.
Sông xa khói vẫn mịt mù,
Hỏi chim chim lại cất vù cánh bay.
Bâng khuâng hỏi gió hỏi mây,
Mây im lặng đến họp bầy núi xa.
Thời gian như ngựa vụt qua,
Đoạn tang rồi, cánh buồm xa chửa về.
Dò tin kẻ chợ người quê,
Căng mòn mắt đợi càng nề lòng trông.
Thế rồi mưa giục cành đông,
Xuân thu như vệt khói hồng tan mau.
Mải vui vườn trước đồi sau,
Tình chị em đã nhuốm màu tư riêng.
Bến sông vẫn bặt con thuyền,
Bến lòng đã bặt nỗi niềm đợi trông.
Bóng người khuất tám thu đông,
Chia tay từ độ xuân hồng mười lăm.
Chàng thì chim bóng cá tăm,
Nàng thì mắt vọng xa xăm dõi chờ.
Lẽ nào lệ bạc áo tơ,
Lẽ nào lầu tía hững hờ gió xuân.
Một hôm có khách dừng chân,
Hỏi ra cũng bọn thương nhân biển hồ.
Mới hay cuối sóng bèo xô,
Người xưa thân đã gửi mồ biển xanh.
Khóc anh khăn lệ khôn ngăn,
Mặc người khuyên bảo dỗ răn đủ điều.
Tưởng khi mái dột nhà xiêu,
Đói no ấm lạnh sớm chiều có nhau.
Tưởng ai thưng gạo mớ rau.
Nắng mưa lủi thủi dãi dầu nuôi em.
Tưởng khi chân bước lên thuyền,
Nhìn nhau cười gượng đôi viền lệ rơi.
Những mong buồm thuận gió trời,
Sang thu thuyền lại ghé nơi bến làng.
Xum vầy dưới ánh trăng vàng,
Hái hoa ủ rượu xuân sang tiệc nồng.
Ai ngờ biền biệt thu đông,
Thuyền xưa chẳng lại bến sông bẽ bàng.
Nào hay nước réo mênh mang,
Chiếc thây bèo giạt trên hàng sóng cao.
Ngờ đâu buổi ấy đưa nhau,
Đôi hàng lệ nhỏ là câu tạ từ.
Bao giờ còn có bao giờ,
Gặp nhau hồ dễ trong mơ thoảng về.
Thương anh mặt héo lòng tê,
Đêm về nền cũ ngồi hè trăng soi.
Chiều ra sông đợi mây trời,
Thẩn thờ ngó trước, rã rời ngóng chim.
Tiểu Hồng an ủi ngày đêm,
Rủ đi đây đó hầu quên lần hồi.
Khi ngoài suối, khi đỉnh đồi,
Lửa rơm lần đã thành đôi chẳng lìa.
Thôi thì tóc kết trăng thề,
Thôi thì đợi nguyệt vai kề thềm lan.
Vườn xuân lại trổ hoa vàng,
Chị em giờ đã đổi sang vợ chồng.
Mười năm bến đợi thuyền sông,
Nước xuôi biền biệt nào mong ngày về.
Chẳng đành nghe tiếng chim kia,
Nó kêu như giục xuân thì qua mau.
Cũng là ân trước nghĩa sau,
Duyên anh lại trở qua màu tình em.
Ba năm chăn gối êm đềm,
Ấp mai thêm tiếng trẻ hiền reo vui.
Tưởng rằng ngày tháng trôi xuôi,
Lòng ai liệm chặt bóng người năm xưa.
Nào dè một sớm giăng mưa
Có người thất thểu tìm về thôn mai.
Quần tơi tả, áo sờn vai,
Mắt sâu thăm thẳm thân gầy gầy trơ.
Nhìn nhau chết lặng sững sờ,
Nửa e quáng mắt, nửa ngờ chiêm bao.
Mười năm lạt gấm phai đào,
Mười năm bến nước nhạt màu thời gian.
Tưởng người đáy biển xương tàn,
Bây giờ hiện đến trong màn lệ rơi.
Bạch Hùng kể chuyện chân trời,
Lênh đênh ngọn sóng khôn rời lòng quê.
Thương nàng nến đợi phòng khuê,
Gió hoen lệ thắm, trăng kề buồng đơn.
Lại thương em chốn cô thôn,
Ốm đau khi sớm khi hôm nào chừng.
Xóm giềng nước lã người dưng,
Biết ai thuốc sắc cháo bưng cậy nhờ.
Cũng mong sớm trở làng xưa,
Ai ngờ một buổi gió mưa đọa đày.
Bốn bề gió vặn sóng vây,
Thuyền chìm, nào biết gió mây vật vờ.
Ngất đi nào biết bao giờ,
Tỉnh ra đã thấy dạt bờ biển nao.
Quanh mình tiếng nói xôn xao,
Thổ dân sau mới khiêng vào nhà tranh.
Đôi ngày rau trái tỉnh dần,
Có đi mới biết đường trần bao la.
Đảo này ở giữa Ấn hà,
Bốn phương mờ mịt quê nhà phương nao.
Lâu lâu mới một thuyền vào
Đổi vàng kiếm gạo, dân nào lạ đâu.
Thế rồi ngày tháng qua mau,
Xuân thu tưởng đã bạc đầu nơi đây.
Nhớ nàng lòng vẫn chưa khuây,
Quyết lòng đạp sóng biển này mà đi.
Tử sinh thì có tiếc chi,
Đóng bè vượt biển theo vì sao lơi.
Gian nan kể mấy tháng trời,
Bao lần tưởng đã trút hơi thở tàn.
Dập dềnh giữa biển mênh mang,
Một chiều thấy cánh buồm vàng phương xa.
Lòng như xuân lại bừng hoa,
Vẫy áo ra hiệu, gào la gọi thuyền.
Buồm xa dường biết lại gần,
Lệ khô giờ cũng hoen ngần mắt sâu.
Cố hương mờ mịt nơi đâu
Bỗng nhiên hiện rõ trong đầu tấc gang.
Tưởng trông nàng biếng điểm trang,
Tưởng gặp em dại võ vàng chờ mong.
Tưởng đời lại trổ màu hồng,
Mà nghe máu chuyển tim lồng ngực va.
Trong anh hình bóng quê nhà
Dường như một lúc hiện ra rành rành.
Nhấp nhô sau đợt sóng xanh,
Thuyền xa đã thấy đôi mành hiện lên.
Nỗi mừng như dại như điên,
Tưởng như đang ở đất liền quê hương.
Nghĩ mình gửi xác trùng dương,
Ai ngờ thần thánh còn thương đón về.
Nhưng khi thuyền nọ vừa kề
Cứu lên, như giữa cơn mê điếng hồn.
Quanh thuyền treo mấy khung xương,
Trên sàn trực sẵn những phường đầu trâu.
Nghe đồn giặc biển đã lâu,
Moi gan uống máu khác đâu thú rừng.
Bây giờ thôi hết cầu mong,
Thế thôi, đành cũng cho xong kiếp người.
Trói vào tra khảo một hơi,
Ngất đi còn biết đất trời là đâu.
Tỉnh dần giữa một hầm sâu,
Sờ quanh gầm một thân tàu đong đưa.
Kêu trời trời thấu cho chưa,
Tưởng rằng lối thoát ai ngờ đường ma.
Góc hầm hoảng tiếng rên la,
Hỏi xem mới biết cùng là tù nhân.
Gã kể sau trận cướp thuyền,
Bao nhiêu hàng họ bạc tiền sạch không.
Bây giờ giữa chốn lao lung,
Nào hay trời đất vô cùng là đâu.
Trong tay bọn quỉ ngựa trâu,
Kể như xác đã vùi sâu đáy mồ.
Thế rồi hai kẻ thân cô,
Ngày ngày được chút cơm thừa cá ôi.
Tưởng rằng đời đến thế thôi,
Một hôm lại vẳng tiếng cười xôn xao.
Hẳn thuyền đang ghé bến nào,
Giờ lâu có một tên vào dắt lên.
Thấy toàn giáo mác cung tên,
Mới hay ghé đến một miền đảo xa.
Người gì như quỉ như ma,
Vây quanh đống lửa thét la rợn người.
Bọn ta được dẫn tới nơi
Làm hàng đổi chác kiếm lời vàng châu.
Cuộc đời còn tiếc chi đâu,
Bưng tai nhắm mắt cúi đầu lê chân.
Cầm bằng cái chết đã gần,
Tử sinh ai chẳng một lần mà thôi.
Chờ cho bọn cướp đi rồi,
Bây giờ dân đảo mới lôi ta vào.
Chung quanh đống lửa chất cao,
Ngả nghiêng cười nói, lao xao hét hò.
Chừng như sợ quá hết lo,
Bạn ta ngỏ ý bày trò làm vui.
Giở tài ảo thuật lừa người,
Khiến cho cả bọn nói cười bặt yên.
Hẳn tưởng phù phép thần tiên,
Bấy giờ chúa đảo đứng lên dấu mời.
Thổ dân quì mọp quanh người,
Rồi đưa ta đến lưng đồi xanh cao.
Tưởng rằng loé mắt chiêm bao,
Giữa đền châu ngọc như hào quang soi.
Thờ thần đầu thú mặt người,
Chung quanh ngọc điểm hoa tươi rỡ ràng.
Mọi người đốt đuốc hát vang,
Bạn ta ngồi chiếc đôn vàng tôn phong.
Lễ mừng sùng bái đã xong,
Hai ta làm chủ đền thần từ đây.
Tưởng rằng hầm tối chôn thây,
Ai ngờ lạc đến đảo này là đâu.
Nhưng dù trên đống vàng châu,
Mà lòng nhớ bữa cơm rau quê nhà.
Đêm đêm gối lệ dầm sa,
Nhìn mây bay tưởng mây qua xóm nào.
Chỉ mong là giấc chiêm bao,
Tỉnh ra lại thấy tre cao bóng dài.
Nhưng rồi tiếng sóng reo ngoài,
Nhắc chi gối lệ ai hoài chứa chan.
Bàn nhau đem chút hơi tàn,
Quyết tìm cho được con đàng vượt qua.
Đói no ở chốn quê nhà
Còn hơn châu báu biết là mấy mươi.
Quẩn quanh thoảng đã năm trời,
Một chiều nhác thấy buồm dơi ghé ngoài.
Mừng mừng tủi tủi nghẹn lời,
Bõ khi đất khách trông vời cố hương.
10.300.  Trốn đi theo bọn khách thương,
Lênh đênh cưỡi sóng trùng dương trở về.
Phen này quyết ở lại quê,
Ối thôi, vàng ngọc chẳng hề vấn vương.
Tháng ngày rong ruổi tàu buôn,
Cuối năm qua đến nam phương cập bờ.
Chia tay hai kẻ lệ mờ,
Bắc Nam rồi biết bao giờ gặp nhau.
Anh còn một hạt trân châu,
Bán đi, sắm sửa hôm sau lên đường.
Vượt qua muôn vạn dặm trường,
Bao nhiêu thành lũy biên cương chẳng nề.
Chỉ mong thấy lũy tre quê,
Thấy nàng cắt tóc trao thề dưới trăng.
Nói rồi, tiến lại xăm xăm,
Bạch Hùng ôm chặt Cẩm Hồng trong tay.
Bốn hàng lệ chảy dầm vai,
Rằng Hùng nhớ ánh mắt ai dõi chờ.
Nên khi giữa biển bơ vơ,
Mắt kia giục kiếp sống thừa gắng qua.
Bỗng dưng Đàn bước vào nhà,
Thấy chồng, vội đẩy Hùng ra, khóc ròng.
Người anh ngoái lại thấy em,
Sự tình chợt hiểu cớ duyên thế nào.
Vì ta nàng mới phai đào,
Mười năm chẳng lẽ ra vào đợi trông.
Hùng bưng mặt chạy ra sông,
Thôi thì gửi nắm bụi hồng đất quê.
Đàn giờ đã rõ ai kia,
Tỉnh ra, mới đuổi theo kề gọi vang.
Người anh đến bến đò ngang,
Bến xưa vẫn cội hoa vàng hắt hiu.
Đã nghe em gọi kề theo,
Quay nhìn lần chót, thân gieo xuống dòng.
Ầm ầm nước réo mênh mông,
Bạch Đàn nhảy vội xuống sông cứu người.
Cẩm Hồng cũng kịp tới nơi,
Ôi thôi, người lại theo người ra đi.
Sóng dâng từng cuộn xanh rì,
Dưới làn nước bạc còn chi mà tìm.
Người người tới kịp ngăn xin,
Nàng toan đem ngọc gieo trên sóng dài.
Chợt nghe tiếng hót bên tai,
Con chim xanh đậu trên vai lúc nào.
Tiếng nghe tha thiết nghẹn ngào,
Dường hồn chàng đã nhập vào cánh chim.
Thế rồi bay lượn vòng lên,
Đậu cành hoa nọ dõi tìm trên sông.
Người dìu nàng lại thôn Đông,
Lặng nhìn con ngủ bềnh bồng nôi chao.
Lại nghe tiếng hót chim nào,
Thì ra, chàng đã bay vào đậu bên.
Vẻ đang giỗ giấc cho hiền,
Lại như an ủi sầu miên lòng người.
Ngước lên nhìn áng mây trời,
Rồi bay mất hút giữa nơi hoa ngàn.
Lòng Hồng sầu hận chứa chan,
Tình ơi nửa giấc mơ vàng đã bay.
Thế rồi năm chóng tháng chầy,
Thương ai cây cỏ cũng gầy xót xa.
Mặc người cợt liễu cười hoa,
Bồng con thơ dại vào ra một mình.
Khi đêm thấp thoáng lửa huỳnh,
Ầu ơ hát khúc ân tình, chợt đau.
Lại khi tưới cải vườn sau,
Hoàng hôn vàng vọt thêm sầu áo ai.
Khi buồn ngó chiếc sao mai,
Chim bay mấy thuở đợi hoài chưa sang.
Một chiều theo áng mây vàng,
Trên không xao xác một hàng chim lơi.
Nghiêng nghiêng đậu xuống bên người,
Một con ngậm cánh sen tươi trao nàng.
Cánh hoa như thể nhung vàng,
Chữ ai thảo sẵn một hàng Phật danh.
Chàng cho, đây hẳn duyên lành,
Nàng từng nghe ở bên thành, rừng lê.
Có Phật dạy đạo Bồ-đề,
Ngày mai nàng quyết theo về trú nương.
Sáng sau bồng bế lên đường,
Bước chân thẳng đến rừng hương đại từ.
Ngõ vào hoa mái hoa mơ,
Gặp Phật đang đứng bên bờ suối xanh.
Đã nghe sầu hận tan tành,
Chắp tay lễ đấng Cha lành nhân thiên.
Phật truyền: “kiếp mộng triền miên
Như tơ giăng mắc mối duyên trùng trùng.
Trả vay mãi cuộc trần hồng,
Đắp thêm hư ngụy muôn vòng chiêm bao.
Muộn phiền chất mãi non cao,
Trăm năm rồi cũng tan vào cỏ hoa.
Ngày nay vượt sóng mê hà,
Như sen nở giữa Ta-bà tuyết băng.
Muôn thu rực rỡ viền trăng,
Trí bi là đạo thường hằng sáng soi.”

Lần hồi hoa tiếp hoa tươi,
Cửa thiền thanh tĩnh có người nữ tu.
Một đêm ven suối trầm tư,
Cánh chim soi nước hiền từ đậu bên.
Dòng xuân ngâm mảnh trăng liềm,
Chợt đâu cá đớp bóng hiền ni cô.
10.400.  Nước xuôi xuôi mãi bao giờ,
Cho con chim đợi bên bờ ngó theo.

50.    Nhân quả chẳng dời 

Xưa, nơi ngàn biếc thông reo,
Chim muôn giọng hót, bướm nhiều cánh tươi.
Nhìn lên triền núi khơi vơi
Cạnh dòng suối nhạc, gần trời mây non.
Có nhà mái cỏ chon von,
Cảnh người gà trống nuôi con ngậm ngùi.
Bữa khoai bữa sắn lần hồi,
Sao thưa nhớ bạn, trăng vơi khóc tình.
Chàng thường ra nấm mộ xanh,
Tưởng hồi chồng vợ lênh đênh bước đầu.
Khi nàng quyết bỏ mái lầu
Cho duyên thôi chẳng nghèo giàu cách ngăn.
Theo chàng vẹn nghĩa trăm năm,
Thân tơ nắng dãi mưa dầm, cũng xin…
Cùng nhau trót nặng tâm nguyền,
Đành mang tội với ơn trên sinh thành.
Đêm vàng, quì lạy trời xanh:
“Sinh con, cha mẹ cũng đành như không!
Giờ con cất bước theo chồng,
Nghĩ về chữ hiếu, một lòng xót xa…”
Thế rồi giã biệt trại hoa,
Thế rồi, vó ngựa trăng tà ruổi mau.
Dặm dài mưa nắng bên nhau,
Tháng ngày trôi nhẹ trong màu thương yêu.
Chân qua thôn xóm đã nhiều,
Theo dòng suối ngọt một chiều tới đây.
Thiên đường riêng cõi non tây,
Có khe suối cuộn ngàn mây xuống rừng.
Có chim ca hát tưng bừng
Bên nhà mái cỏ lẫn vừng sương lam.
Vợ chồng cấy sắn ươm lang,
Bắt giàn bí đỏ hoa vàng bờ khe.
Đốt rừng trồng mít, trồng chè,
Xuân trông mây nổi, thu nghe lá vàng.
Nuôi nhau dưa muối nghèo nàn,
Mà lòng chung một Niết-bàn bướm hoa.
Tháng ngày như bóng chim qua,
Như dòng suối cát bên nhà quẩn quanh.
Đến khi nàng báo tin lành,
Đầu xuân hé điểm trên cành chồi bông.
Thấy ai má thẹn ửng hồng,
Lòng ai chừng có muôn dòng suối reo.
Vui mừng sửa mái tranh nghèo,
Lên non chọn giống hoa leo đem về.
Giờ hoa còn điểm nóc kia,
Bao năm rụng trắng nụ chia mối sầu.
Trồng hoa, cầu nguyện con đầu,
Mai như hương thoảng rừng sâu điệp trùng.
Như hoa nở đến vô chung,
Như hương dâng mãi vô cùng ngàn mây.
Bao nhiêu thơ mộng cảnh này,
Tụ lên tâm thức từ ngày thai mang.
Cho lòng con rộng muôn vàn,
Bao dung như đất chẳng màn gần xa.
Thế rồi vừa tiễn thu qua,
Là nàng nở nhụy khai hoa dễ dàng.
Bé trai như nụ nhung vàng,
Trên giường đệm cỏ cười vang tối ngày.
Ngọc vàng nào sánh được đây,
Mẹ cha vui sướng lòng đầy quý thương.
Nàng ru con ngủ nôi hương,
Chàng nghe chim hót thiên đường non tây.
Thời gian thấm thoát mây bay,
Trẻ kia khôn lớn như cây ven đồi.
Nghe con tập nói bồi hồi,
Như bông hoa nở giữa nơi sương mờ.
Tưởng rằng mãi mãi mộng thơ,
Tưởng rằng say mãi giấc mơ vách rừng.
Ai ngờ tang tóc bỗng dưng,
Nàng đi còn để mấy từng hoa rơi.
Chôn ai khóc chẳng nên lời,
Nước yên lặng suối, lá rời rã cây.
Nhớ nàng dằng dặc khôn khuây,
Đêm nghe chim gọi suối ngoài quặn đau.
Dối con rằng: “dưới mộ sâu,
Mẹ đi thăm nội ít lâu lại về.
Bao giờ rụng chiếc sao khuya,
Mẹ con mở nấm mồ kia dậy cười.”
Những đêm trăng rực hoa tươi,
Trẻ ngồi đợi chiếc sao trời chênh vênh.
Mà sao, sao vẫn vô tình,
Sao không rụng xuống cho mình hỡi sao!
Nghe con trách hỏi trời cao,
Người cha lòng lại như bào quặn đau.
Tiếng chim hót cũng đượm sầu,
Tàng cây lá rụng theo nhau u hoài.
Suối buồn dằng dặc mây trôi,
Giàn xưa hoa đã vàng tươi bao lần.
Nghe hương thoảng ngỡ người gần,
Nghe hoa lay tưởng dấu chân hồn về.
Đêm ngồi bên mộ buồn tê,
Phải chăng ôm mãi tấm bia sầu buồn.
Đời thì nay biển mai cồn,
Tấm thân ở, đã hoàng hôn rã rời.
Hoa tàn hoa lại đơm tươi,
Rồi ra người lại gặp người thiên thu.
Còn gì ngoài cõi thâm u,
Còn gì ngoài cõi mịt mù thế nhân.
Thì nên tìm lẽ thường chân,
Bước ngoài khổ hải mê tân cõi này.
Thế là ông đốt lều mây,
Trồng bên nấm mộ một cây nguyệt đào.
Dắt con vượt mấy đèo cao
Tìm nơi Phật ngự, hỏi vào rừng mai.
Mỗi lần gió thoảng hoa bay,
Trắng neo mái cỏ, trắng cài phên nan.
Thế tôn dưới cội hoa vàng,
Tay cầm thóc ném, chim đang trở về.
Chuyền từ bụi nọ, cây kia,
Gọi nhau ăn thóc bên khe suối chiều.
Hàng hàng trầm mặc Tỳ-khiêu,
Dưới cây tĩnh tọa muôn chiều trầm tư.
Chuông nào nghe vọng không hư,
Dường nghe thoảng sạch ưu tư cõi sầu.
Cha con vội tới cúi đầu
Nguyện xin theo đạo nhiệm mầu từ đây.
Phật cười cho toại ước ngay,
Học theo Tăng chúng hầu Thầy sớm hôm.
Lo việc hoa trái trầm hương,
Dần dà tâm trí mở đường trắng trong.
Nghiệp xưa đã nhẹ bụi hồng,
Cha con dần bước xuống vùng vô ưu.
Người cha thọ giới Tỳ-khưu,
Người con cũng giữ mười điều Sa-di.
Lần hồi ngày tháng qua đi,
Rừng phong thoáng đã mấy kỳ vàng đưa.
Thiếu niên chợt nhớ non xưa,
Nấm mồ hiu quạnh nắng mưa dãi dầu.
Tìm cha bày tỏ nỗi sầu,
Đòi về thăm chốn núi sâu một lần.
Nghe con lại quặn lòng trần,
Người xưa giờ biết mộ phần ra sao.
Cuối thu hẳn tía bông đào,
Lưng non bè bạn ra vào, họa trăng.
Bèn xin tạm biệt chúng Tăng,
Dắt con về chốn nhện giăng cỏ dài.
Non kia vò võ chờ ai,
Suối xưa hoa vẫn buông cài dòng tơ.
Mồ xưa cỏ lấp sương mờ,
Cội đào mấy thuở đông chờ, cánh rơi.
Nghe chim hót lạnh từng trời,
Nhớ người xưa lại bồi hồi lệ chan.
Dọn nền đất cũ cỏ lan,
Đẳn cây dựng tạm một gian che mình.
Sương chiều lạnh đã buông quanh,
Nhìn cha mệt nhọc, không đành lòng con.
Vội ra moi sắn ngoài nương,
Nấu lên cùng mớ nấm hương mới tìm.
Mời cha xơi món ngọt mềm,
Còn mình cơm cháy khô đem đỡ lòng.
Ăn rồi ông nghỉ thong dong,
Chờ con ngủ, mới ra cùng người xưa.
Nàng nằm đây với gió mưa,
Nghe rừng trút lá vàng thu đã nhiều.
Thương cho nhung gấm mỹ miều,
Theo ta về chốn tiêu điều rừng sâu.
Đất khô nên sắn nên rau,
Lều tranh, áo vải, thương nhau cũng là.
Búp khoai, hoa mướp, nụ cà,
Chung vui tưởng đến tuổi già tóc sương.
Ngờ đâu sớm cách âm dương,
Bên rừng nắm đất nắng sương dãi dầu.
Ông đang suy nghĩ âu sầu,
Chợt xây xẩm mặt, bụng đau lạ thường.
Gục ngay cạnh nấm mộ nàng,
Trăng khuya trải ánh tơ vàng thướt tha.
Sáng ngày con tỉnh giấc hoa,
Gọi tên, nào thấy tiếng cha đâu nào.
Vội tìm ra mộ xem sao,
Than ôi, xác lạnh lá đào phủ trên!
Giật mình chàng vội nâng lên,
Ôm cha than khóc, ruột điên gan nhàu.
Rồi đào huyệt rộng, chôn sâu,
Tóc tang đời trẻ nhuộm màu núi non.
Vách rừng hai nấm hoàng hôn,
Cây đào lại mỏi mòn tuôn lệ dài.
Nghĩ: đây vách núi lạc loài,
Chung quanh hoa cỏ cùng ai chia sầu.
Mình ta giờ biết nương đâu,
Mẹ cha hai nấm cỏ màu vàng xanh.
Cúi đầu bái lạy anh linh,
Thấu cho con phải rứt tình ra đi.
Hôm sau về đến rừng Kỳ,
Chạy về bên Đức từ bi, khóc ròng.
Niềm riêng cạn tỏ nỗi lòng,
Chút thân giữa cõi trần hồng bơ vơ.
Xin nương ân đức Phật thừa,
Nguyện theo trai giới vượt bờ sông mê.
Đem công đức ấy hướng về
Báo đền cha mẹ, hai bề sinh thiên.
A-nan hầu Phật bên thềm,
Nghĩ vì con trẻ gây phiền lụy cha.
Nếu không đem gợi chuyện nhà
Thì đâu cớ sự xảy ra thế này.
Khiến người cha bỏ nơi đây,
Về vùi thân giữa cỏ cây nội ngàn.
Phật hay ý nghĩ A-nan,
Dạy rằng “tiền kiếp trái oan đã từng.
Đời xưa cũng ở ven rừng,
Chỗ nhà cạnh suối tưng bừng reo ca.
Trẻ này tiền kiếp là cha,
Lão Tỳ-khưu nọ trước là con ngoan.
Thường đi đẵn củi đốt than,
Kiếm rau hái trái cơ hàn một thân.
Sớm hôm mưa nắng tảo tần,
Nuôi cha bệnh hoạn muôn phần lo âu.
Một hôm len lỏi rừng sâu,
Hái nhầm nấm độc cùng rau đem về.
Thấy cha đói mệt nằm kia,
Vội nấu canh nấm kịp thì đem dâng.
Nhìn người ngon miệng vui mừng,
Con đành húp cháo vài lưng gọi là.
Ai ngờ nấm độc phát ra,
Cơn đau phút chốc, đành qua một đời.
Con vô ý hại cha thôi,
Bây giờ nhân quả luân hồi gặp nhau.
Đổi dời bãi biển cồn dâu,
Quả nhân báo ứng trước sau chẳng dời.
Vẫn miền vách núi mù hơi,
Đời xưa, chốn ấy chính nơi mái nhà.
Kiếp này con đổi làm cha,
Cùng ăn cháo nấm như là ngày xưa.
Lưng non gửi lại nấm mồ,
Nhân nào quả đó bao giờ sai đâu.
Khác gì nước cuộn sông sâu,
Ngàn năm trôi chảy trước sau một đường.
Nếu không tu chuyển y nương,
Đổi thay nghiệp mệnh vô thường thoát nơi.
Thì dù muôn kiếp muôn đời
Trùng trùng hoa đốm không rời vọng tâm.”
Lời ban dìu dịu thâm ân,
Rừng mai dường cũng nẩy mầm kết bông.
Đồi xa vương vất mây hồng,
Chim về ca hát rừng đông họp bầy.
Lưng trời lãng đãng dòng mây,
Kết thành một chiếc cầu dây lững lờ.
Sương xanh như vạn hạt tơ,
Chơi vơi theo ngọn gió hờ hững bay.
Phật vào dưới mái cỏ may
Áo hường như một dải mây ánh đào.
      



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.