Duyên Khởi

30/06/201012:00 SA(Xem: 18343)
Duyên Khởi

KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Trọn bộ mười quyển
Đời Tống nước Kế Tân
Tam Tạng Pháp sư Cầu Na Bạt Ma Dịch Phạn văn sang Hán văn
Tỳ kheo Thích Thiện Thông Dịch ra Việt văn

Duyên Khởi

 Mùa An cư năm 1981 tại già lam Quảng Hương, lúc đó hòa thượng Thích Trí Thủ còn sinh thời, tôi xin nhập hạ tại đó, trong lúc lên thư viện mượn một ít kinh luận để đọc, tôi bỗng bắt gặp một tập sách lẻ loi rất dày và đẹp, cạnh mạ vàng óng ánh, thật là loại kinh sách quý. Mở ra xem thì đó là 1 tập thuộc Tân Tu Đại Chánh Tạng, dày 1,000 trang, trong đó chứa đựng nội dung các bộ kinh Bồ tát Thiện Giới, Du Già Sư Địa Luận và một vài bộ kinh nào nữa mà nay tôi không còn nhớ rõ. Mới đọc qua vài trang đầu, tôi không sao hiểu nổi ý nghĩa, vì trình độ Hán văn quá ít ỏi, nói đến dịch thuật, thật là chuyện mơ hồ.

Hai năm sau tôi nhận một ngôi chùa ở vùng Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Một dịp nọ ra Long Khánh, đến chùa Bảo Sơn của thầy Huệ Tâm, trong lúc chuyện trò, bớt chợt nhìn vào tủ kinh sách, thấy một tập kinh in trên giấy thật trắng, tôi xin phép mượn xem thử tại chỗ, lại thấy đó là một tập trong đại tạng Tần Già, ngoài bìa đề “Đại Thừa Luật” bên trong gồm 20 quyển; Bồ tát Thiện Giới 10 quyển, Phạm Võng 2 quyển, Anh Lạc Bổn Nghiệp 2 quyển, Văn Thù Sư Lợi Vấn Phật 2 quyển, Thập Thiện 1 quyển, Thọ Thập Thiện Giới 1 quyển, Bồ Tát Nội Giới 2 quyển. Bỗng tôi nghĩ: Có một cái gì lạ lùng khiến tôi hai lần gặp được Bộ Bồ Tát Thiện Giới như vầy? Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên may rủi, chắc chắnnguyên nhân gì với giáo pháp, nên mới khiến tôi bắt gặp bộ kinh quý báu này. Thế là tôi mượn tập kinh ấy đem về nghiên cứu, và thầy Huệ Tâm bằng lòng cho mượn. Sau khi đem về, mở kinh Bồ Tát Thiện Giới ra đọc tới đọc lui, độ 5, 7 tờ thấy sao mà bao la sâu thẳm quá, mình chữ nghĩa chỉ lõm bõm sơ sài, biết có kham nổi không đây? Tuy vậy, tôi quyết chí cố gắng diễn dịch, hy vọng có thể vượt qua những khó khăn.

Mùa An cư 1984 tôi bắt đầu hạ bút, trước hết là dịch mấy bộ kinh ngắn, như kinh Thập Thiện (bản đời Tống), kinh Văn Thù Vấn Phật…Qua mùa hạ 1985 tôi khởi sự dịch bộ này, mỗi ngày dành 3 giờ để làm việc, sau mùa An cư năm đó tôi dịch được 5 quyển và 5 quyển sau tôi hoàn tất trong cuối năm 1985, tôi so sánh sửa chữa, chép đi chép lại đến 3 lần. Qua năm 1986, nhân lúc gặp TT. Đức Chơn, tôi đưa bản thảo nhờ góp ý, trong lúc nhập thất TT. Đức Chơn viết thư ra, phát biểu rằng: “Tôi đã đọc xong bộ kinh của thầy dịch, thật là một bộ mới lạ hiếm có. Thì ra trong Tạng còn nhiều bộ kinh lớn như thế này mà ít người chịu dịch đến, phần nhiều người ta dịch những bản đã có người dịch trước, tôi rất tùy hỷ việc làm của thầy, sau khi ra thất tôi sẽ cho người đánh máy giúp, và tôi sẽ bồi dưỡng tiền công cho họ”. Thượng Tọa Đức Chơn đã thực hiện lời hứa ấy và trao cho tôi 3 bản đánh máy.

Năm 1990, lúc đến Phật học viện Huệ Nghiêm, gặp thầy Toàn Châu đang dịch mấy quyển Phật Tâm Tông, thầy cho biết HT. Từ Đàm mới vô già lam Quảng Hương, thầy đề nghị tôi nên nhờ Hòa thượng giảo chánh lại, tôi đồng ý, chúng tôi hẹn ngày đến gặp Ôn Từ Đàm. Sáng mùng 2/8 thầy Toàn Châu và tôi được Hoà thượng tiếp chuyện, qua lời giới thiệu của TT. Toàn Châu, Hòa thượng đồng ý duyệt lại bản thảo, HT hỏi có đem bản chính theo không? Tôi trao tạng bản, thì Hòa thượng nói:

- Nhân duyên nào thầy có tạng bản này?

- Kính bạch Hòa thượng. Con mượn ở chùa Bảo Sơn huyện Long Khánh.

- Tôi nhớ tại Linh Quang (Huế) có tạng Tần Già này, vì sao lại rơi rớt ở đó kìa?

- Thưa Hòa thượng con cũng không rõ. Có lẽ vị nào đó từ Huế đem vào, rồi bỏ quên lại đó chăng? Vậy nếu cần, sau khi duyệt xong, Hoà thượng đem về đó thì hay quá, như vậy khỏi bị thất lạc.

Nghe tôi nói vậy, Hòa thượng Từ Đàm gật đầuHòa thượng yêu cầu tôi đọc bản Việt, còn ngài cầm bản chữ Hán để theo dõi. Sáng hôm đó HT không được khỏe, vì vừa qua một cơn bệnh nhẹ, tuy vậy HT vẫn nằm trên võng nghe tôi đọc phần Việt dịch, đến chỗ nào hơi nghi ngờ, HT yêu cầu tôi giải thích về những từ ngữ mà tôi xử dụng, sau khi tôi trình bày, HT chấp nhận. Đọc đến hết quyển 4, HT bảo “Hãy thôi, không cần phải đọc nữa. Qua 4 quyển vừa rồi tôi xét thấy mức độ chính xác 98/100, bản này thầy dịch theo lối văn mới, được lắm đó” Hòa thượng dạy những lời trên trước sự hiện diện của TT Đức Chơn và thầy Toàn Châu. Tôi ngỏ ý thỉnh Hòa thượng viết cho lời tựa, nhưng Hòa thượng nói:

- Thầy cứ viết đi, rồi tôi giới thiệu cho.

Sau khi được sự khích lệ tinh thần của bậc tôn túc khả kính, tôi lần hồi dịch tiếp bộ Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp (vì đã có bản chép tay), từ dạo đó đến nay, trước sau đã 10 năm, phần thì thiếu thốn tài chánh, phần thì bận tới lui giảng dạy ở một số trường Phật học, tôi vẫn giữ nguyên bản thảo, chưa có dịp lưu thông, nay xét giới tu sĩ trẻ càng ngày càng đông, nền giáo dục Phật pháp càng được mở rộng, tôi dành dụm chút đỉnh tài chánh làm lại bản thảo này để ra mắt học giới, mong đóng góp phần nhỏ trong việc phổ biến giáo pháp hiện tại và tương lai.

Nay tôi ghi lại những lời này trước là kính gởi lên Hòa thượng Từ Đàm sự tri ân sâu đậm vì ngài đã không quản ngại tuổi cao sức yếu, duyệt qua bản thảo và khích lệ tinh thần trong việc dịch thuật này. Tôi cũng xin cảm tạ sự sốt sắng hỗ trợ của TT Đức Chơn trong thời gian trước đây. Thành thật tán thán sự đóng góp tịnh tài của chư thượng tọa và các Phật tử phát tâm, để bộ kinh Bồ Tát Thiện Giới được lưu thông mặc dầu trong phạm vi giới hạn nội bộ.

NamCông Đức Lâm Bồ Tát Mahatát.

Dịch giả cẩn chí.

Thích Thiện Thông




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :