Cung kính đảnh lễ Bậc Toàn Trí Toàn Giác
^2023 FINAL v9 Tinh Túy Bát Nhã - Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải hiệu đính -
LỊCH SỬ VÀ THAM KHẢO (FULL) 8.3.2023
TỐT NHẤT LÀ NÊN ĐỌC BẢN PDF
Thể theo tôn ý và sự cho phép của Ân Sư của chúng tôi, Thượng Tọa Thích Tuệ Hải - Sư Phụ Trụ Trì Chùa Long Hương, chúng tôi xin được trân trọng viết lại ra đây về toàn bộ lịch sử quá trình hình thành và hoàn tất bản dịch Việt ngữ Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa do Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đã hiệu đính và hoàn thiện trong tinh thần dịch thuật vượt thoát vào mùa an cư kiết hạ năm 2019 tại Việt Nam. Chúng tôi cũng xin được chia sẻ với đại chúng về những chi tiết liên quan đến một số thuật ngữ trong bản gốc Bắc Phạn ngữ Sanskrit (sẽ được nhắc đến trong bài này dưới tên Phạn ngữ hoặc Phạn văn Sanskrit) và lý do vì sao những chi tiết này đã củng cố cho tri kiến và lý giải đặc thù và vượt thoát về ‘Bát Nhã Hiện Tiền’ của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đối với bản Kinh siêu tuyệt này, thường được biết đến dưới tên Bát Nhã Tâm Kinh hay Tâm Kinh.
Tuy nhiên, do có rất nhiều vị trong đại chúng chỉ được nghe, hoặc đọc bản Việt dịch chánh văn Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhưng lại không biết đến, hoặc không xem thấy phần “Chú Thích” ở cuối sách, cũng như có nhiều vị chưa có được đầy đủ thông tin về một số khám phá liên quan đến các từ vựng và cấu trúc trong bản gốc Phạn ngữ, nên đã có phản ảnh một số thắc mắc đến chúng tôi. Nay nhân duyên hội tụ đầy đủ, Thầy chúng tôi đã từ bi cho phép chúng tôi biên soạn tài liệu này, và vì đây là việc liên quan đến lịch sử của bản dịch tiếng Việt của Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa nên chúng tôi mong nguyện mọi thông tin đều được lưu lại một cách chính xác, đầy đủ và trọn vẹn, để giải tỏa được những nghi vấn trong hiện tại, và đem lại lợi lạc lâu dài.
CỐT TỦY CỦA TRÍ TUỆ TOÀN HẢO SIÊU VIỆT
HOÀN TOÀN VƯỢT THOÁT
Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải hiệu đính và hoàn thiện vào ngày 8/8/2019
dựa trên bản chuyển ngữ Phạn-Việt của Milam Sudhana
Dưới đây là 5 đề mục chính liên quan đến lịch sử, các khám phá mới và cách giải mã một số thuật ngữ trong bản gốc Phạn ngữ theo cách khéo chọn ngôn từ đến từ sự chứng ngộ tâm linh và tinh thần dịch thuật vượt thoát của Ân Sư của chúng tôi, Sư Phụ Trụ Trì Chùa Long Hương – Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, trong cương vị của người hiệu đính và hoàn thiện bản Việt dịch, và từ cái nhìn thô thiển của chúng tôi trong tư cách người chuyển Việt ngữ. Do đây là một tài liệu lịch sử, nên chúng tôi xin phép được trình bày 5 đề mục này theo trình tự thời gian trong quá trình tìm hiểu, hình thành và hoàn thiện bản dịch.
8. tasmāc chāriputra śūnyatāyāṁ – Cho nên, Xá Lợi Phất, trong Không Tướng ấy (thay vì: thị cố Không trung // thế nên trong Không // cho nên trong tướng Không // cho nên trong tánh Không // thế nên trong Không // bởi thế trong “Tướng Không”)
9. prajñāpāramitām āśritya viharaty – Y Như Bát Nhã Ba La Mật Đa, Hiển Hiện Như Nhiên (thay vì: y bát nhã ba la mật đa // y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa // nương theo Bát Nhã Ba La Mật Đa // y theo Bát nhã ba la mật đa, an trụ nơi đó)
10. prajñāpāramitām āśritya – Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa (thay vì: y bát nhã ba la mật đa // y theo // nương theo // nương vào Bát Nhã Ba La Mật Đa)
11. tasmāj jñātavyam: prajñāpāramitā mahā-mantro – Vì vậy, nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ lớn (thay vì: cố tri bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú // vì vậy nên biết bát nhã ba la mật đa là đại thần chú // do đó mà biết bát nhã ba la mật đa là bài chú rất thần diệu // nên biết bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn // vậy nên phải biết bát nhã ba la mật đa là linh chú đại thần // nên gọi là đại thần chú bát nhã ba la mật đa // do đó mà biết bài chú của Bát nhã ba la mật đa là bài chú của đại trí tuệ)
12. prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ tadyathā – Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện Cảnh Giới Chân Thật (thay vì: cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú // nói chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, liền nói chú rằng)
13. gate gate pāragate pārasaṁgate bodhi svāhā – Vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộ viên mãn, ta bà ha (thay vì: yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha // vượt qua, vượt qua,vượt qua bên kia, vượt qua hoàn toàn, an trú trong giác ngộ)
14. iti prajñāpāramitāyām hṛdayaṃ samāptaṃ – Tinh túy Bát Nhã Ba La Mật Đa kết thúc ở đây/Tinh túy Bát Nhã Ba La Mật Đa viên thành như thế. (*không có câu này trong bản âm Hán/Hán-Việt/Việt)
Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu trong tinh thần tôn trọng và cởi mở, và đồng thời, chúng ta cũng sẽ dựa trên bản Phạn văn Sanskrit và trên các nghiên cứu có cơ sở. Mục tiêu chính yếu của chúng tôi trong tài liệu này là chia sẻ các thông tin liên quan một cách trung thực, để người đọc có thể tự suy xét để nhận thấy ra rằng bản Phạn văn Sanskrit và các nghiên cứu có liên quan, một cách tự nhiên và không lường trước, đã góp phần củng cố cho lý giải của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải về bản Kinh Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa như thế nào. Nói một cách cô đọng nhất thì Thượng Tọa Tuệ Hải đã muốn chỉ ra cho chúng thấy giáo lý cốt tủy, siêu việt của Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là giáo lý siêu tuyệt của ‘Bát Nhã hiện tiền,’ và bản Kinh này chủ yếu là đang mô tả cảnh giới của một người tu chứng, tự do, siêu thoát, đã thoát khỏi sự trói buộc của năm uẩn, thể nhập Tự tánh Không vô biên.
I. Lịch sử các khám phá mới và sự hình thành bản Việt dịch thô
Vào mùa an cư năm 2019, Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đã từ bi dạy chúng tôi nên dịch bài luận giảng của Thầy về Bát Nhã Tâm Kinh qua Anh ngữ. Đây là các bài giảng mà Thầy chúng tôi đã thuyết vào nhiều năm trước đây (Nhâm Thìn 2012), dựa trên bản dịch Hán-Việt, là bản thường được đăng tải trong các quyển Kinh nhật tụng và thường được các Chùa tại Việt Nam ấn hành theo truyền thống Đại Thừa Phật Giáo Việt Nam. Bản Việt dịch ấy không ghi tên dịch giả. Bản thân chúng tôi từ khi còn nhỏ, cũng đã học thuộc lòng phiên bản phổ thông này, khởi đầu bằng câu “Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa” cho đến câu cuối là “Vì vậy nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.”
Tuy đã quen thuộc với bản Việt ngữ phổ thông, nhưng do có nhu cầu phải tra cứu để chuẩn bị chuyển dịch toàn bộ bài chánh văn và bài giảng của Thượng Tọa Tuệ Hải qua Anh ngữ, chúng tôi đã tìm đọc thêm những bản dịch Anh ngữ khác nhau của Tâm Kinh, và xem thêm một vài bài bằng Pháp ngữ. Do tìm thấy có một số điểm tương đồng và không tương đồng trong các phiên bản ngoại ngữ này, nên chúng tôi đã lập bảng đối chiếu để xem là nên sử dụng phiên bản Anh ngữ nào làm bản gốc trong khi dịch các bài thuyết giảng về bản Bát Nhã Tâm Kinh cũ của Thượng Tọa Tuệ Hải qua Anh ngữ.
Tâm Kinh có hai dạng: ngắn (theo Hoa truyền) và dài (theo Tạng truyền)
Tóm tắt thì trên thế giới hiện nay có hai ‘dạng’ Tâm Kinh, ngắn và dài. Truyền thống Phật Giáo Tây Tạng sử dụng dạng dài, bao gồm cả phần mở đầu “Tôi nghe như vầy,” kế tới là phần đức Quán Thế Âm nương nơi thần lực của Phật mà thuyết cho Tôn giả Xá Lợi Phất nghe, rồi đến phần kết thúc bao gồm Đức Phật xuất định, tán thán những lời tuyên thuyết của đức Quán Thế Âm, rồi loài người cùng các loài, các cõi đều tin tưởng, hoan hỷ tiếp nhận và y giáo phụng hành.
Trong khi đó, phiên bản Tâm Kinh dạng ngắn, theo truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa và Việt Nam thì bắt đầu vào ngay câu “Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Theo Tanahashi (2014) trong tập sách diễn giải về Tâm Kinh thì văn bản dạng ngắn bằng Phạn văn Sanskrit đến từ ba nguồn khác nhau: (1) phiên bản Horyu-ji lưu lạc từ Trung Hoa qua Nhật Bản, (2) phiên bản Amoghavajra (tức của Ngài Bất Không Kim Cương, hay Bukong, hiệu đính) tìm thấy ở động Đôn Hoàng bởi Stein và nhận diện bởi Fukui, và (3) phiên bản Nepal do Edward Conze giới thiệu và chuyển Anh ngữ. (Tanahashi, trang 69)
Có rất nhiều học giả, dịch giả đã chuyển ngữ phiên bản ngắn này qua Anh ngữ. Ba phiên bản Anh ngữ ngắn của Heart Sutra – Tâm Kinh mà chúng tôi sử dụng để đối chiếu vào lúc khởi đầu là của các vị sau đây đã chuyển dịch trực tiếp từ Phạn ngữ Sanskrit qua Anh ngữ: 1/. Edward Conze (1967); 2/. Tỳ Kheo Ānandajoti Bhikkhu dịch, Edward Conze hiệu đính; và 3/. Theosophical University Press (1997). Liệt kê dưới đây là 5 điểm khác biệt chính yếu giữa các bản Phạn-Anh và bản Hán-Việt/Việt, là những gì đã tạo ấn tượng và gây sự tò mò cho bản thân chúng tôi. Nhưng ngoài 5 điểm này ra thì các dị bản Phạn ngữ Sanskrit cũng đều có những sai biệt khác nữa, ví dụ như trong các bản Phạn-Anh ngắn lại có thêm các phần: “không có tri thức”và “không có đoạn tận tri thức” (hoặc “không cả không chứng đắc” trong bản dài) mà trong bản Hán-Việt/Việt không thấy có.
#1. Điểm khác biệt thứ nhất: Các bản dịch Anh ngữ có từ ‘here’ (tức ‘iha: ở đây/bây giờ’) đặt trước tên Tôn giả Xá Lợi Phất (iha, śāriputra) nhưng không thấy có từ này trong các bản Hán-Việt/Việt phổ thông.
Khi bắt đầu lập bảng đối chiếu thì chúng tôi đã nhìn thấy ra một chi tiết rất nhỏ, gần như là quá nhỏ để có thể làm người khác phải phân tâm, nhưng với bản thân chúng tôi thì không hiểu vì lý do gì mà khi ấy đã làm cho chúng tôi bất chợt phải giật mình! Rất kỳ lạ vì nó đã hiện ra như là một đốm sáng lóe ra từ một ngọn hải đăng, làm cho tôi cứ phải nhìn chăm chăm vào nó và nó đã choán hết toàn bộ tâm trí của tôi!
Cái chi tiết quá nhỏ trong cả ba bản dịch Anh ngữ nêu trên đơn thuần chỉ là một chữ ‘here’ (nghĩa đen tiếng Anh là: ở đây/tại đây/ngay đây), và cái chữ ‘here’ này đã được đặt nằm ngay trước tên Tôn giả Sariputra (Xá Lị Tử/Xá Lợi Tử/Xá Lợi Phất):
“Here, Sariputra, form is emptiness, emptiness is form.” (Anh ngữ)
“O Sariputra,” he said, “form here is emptiness.” (Anh ngữ/Muller)
“O Sariputra, form is here emptiness.” (Anh ngữ/Suzuki)
Và xin đơn cử thêm một ví dụ nữa trong bản Pháp văn, Le Sūtra du Coeur, do The Buddhiste Centre đăng tải, thì dịch giả cũng đã dùng từ ‘ici’ (nghĩa đen cũng là: ở đây/tại đây/ngay đây) như sau:
“Ici donc, la forme n’est rien d’autre que la vacuité.” (Pháp ngữ)
Trong khi đó thì bản dịch theo âm Hán văn và các bản Hán-Việt lẫn Việt ngữ mà tôi tìm xem vào lúc đó, gồm các bài dịch của quý Ôn Cố Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Cố Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Lão Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh (bản cũ), Cố Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, kể cả phiên bản phổ in trong các quyển Kinh nhật tụng thì hoàn toàn không có sự hiện diện của từ nào hàm nghĩa ‘ở đây/ngay đây.’ Trong các phiên bản ấy thì câu văn này theo sát truyền thống Hán văn dựa trên bản dịch của Pháp Sư Tam Tạng Huyền Trang và bắt đầu như sau:
Chúng tôi cũng nhận ra thêm một điểm khác biệt thứ nhì, đó là trong các phiên bản Anh ngữ, thứ tự của hai câu đầu về sắc và Không bị đảo ngược so với bản Hán-Việt và Việt ngữ.
#3. Điểm khác biệt thứ ba: Bản gốc Phạn ngữ và bản dịch Anh ngữ có “thêm” một câu thứ ba về sắc và Không mà bản Hán-Việt/Việt không có.
Bản gốc Phạn ngữ và các bản Phạn-Anh có “thêm” một câu thứ 3 về sắc và Không, nhưng câu này lại không xuất hiện trong các bản Hán-Việt và Việt ngữ. Các câu nêu trên về sắc và Không trong bản Anh ngữ dựa trên bản gốc Phạn ngữ Sanskrit đã được dịch theo những hình thức khác nhau, nhưng tựu chung, nếu dịch qua Việt ngữ một cách đơn giản nhất thì thứ tự và nghĩa đen là như sau:
Trong khi đó, trong các bản Hán-Việt và Việt ngữ, hai câu đầu bị đảo ngược, và câu thứ ba thì hoàn toàn không hiện hữu trong các phiên bản Hán-Việt/Việt và được trình bày theo thứ tự như sau:
2. “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc.
#4. Điểm khác biệt thứ tư: Câu ‘độ nhất thiết khổ ách/vượt qua hết khổ ách’ trong bản Hán-Việt/Việt không xuất hiện trong bản Phạn ngữ và các bản dịch Anh ngữ.
#5. Điểm khác biệt thứ năm: Khi mô tả ‘năm uẩn,’ bản Hán-Việt/Việt không sử dụng từ ‘tự thể’ (svabhāva) như trong bản Phạn gốc và các bản dịch Anh ngữ.
Điểm khác biệt thứ năm mà chúng tôi nhận thấy là trong bản Hán-Việt và Việt ngữ, câu phổ thông thường thấy là “thường chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” hoặc “soi thấy/soi thấu năm uẩn đều Không.” Ở đây không nhắc đến ‘tự thể’ (Phạn: svabhāva) của năm uẩn. Trong khi đó, trong tất cả các bản ngắn Phạn-Anh, và kể cả các bản dài Phạn-Tạng-Anh, thì câu này đã được tách ra làm hai phần rõ rệt, tức là có hai vế riêng biệt chứ không gom chung lại với nhau. Vế đầu (theo nghĩa đen) nói là hành giả “nhìn thấy/thấy biết năm uẩn,” và vế sau nói “thấy biết tự thể của năm uẩn là Không.” (Xin xem chi tiết trong bảng thuật ngữ BTN 2 và BTN 3).
‘Iha’ – ‘Ngay hiện tiền này’ là chìa khóa đích thực của Bát Nhã Tâm Kinh
Tuy nhiên, phải thưa rằng chính điểm đầu tiên, tức là cái đốm sáng khởi đầu quá nhỏ của chữ ‘here’ (ở đây/ngay đây) trong các bản Anh ngữ lại là mấu chốt đưa tôi đến với sự thôi thúc muốn tìm hiểu sâu thêm về những từ ngữ đã được sử dụng trong các bản Phạn văn gốc, và từ đó mà một chân trời hoàn toàn mới đã mở ra.
Và như vậy trong quá trình sơ khởi, sau khi lập xong các bảng đối chiếu, chúng tôi đã thưa với Thầy chúng tôi về một số khám phá và khác biệt trong các bản dịch khác nhau. Tôi đã tạm dịch thô và dịch ngược các bản dịch Anh ngữ qua tiếng Việt, đính kèm các bạn Phạn văn Sanskrit tương ứng, rồi đã gửi cho Thầy toàn bộ các bảng đối chiếu này để xin Thầy ý kiến. Không lâu sau đó, tôi nhận được một điện thư từ Thầy vỏn vẹn như sau: “Con coi sau khi đối chiếu xong thì dịch bản hoàn thiện rồi in ra.” Lời dạy của Thầy đã làm cho tôi bị chấn động! Vì chúng tôi tự nghĩ việc này vượt quá khả năng và giới hạn của mình; mình thật chẳng có nền tảng hay tư cách gì để có thể dịch lại Bát Nhã Tâm Kinh, là một bản Kinh vàng, đã được Chư Vị Tôn Túc, các học giả, dịch giả uy tín đã nhiều lần chuyển dịch qua Việt ngữ trong quá khứ! Nhưng sau đó Thầy lại gửi điện thư khuyến tấn tiếp: “Con làm bằng tâm thành thì mọi thứ sẽ tốt đẹp như ý nguyện của mình.”
II. Lịch sử phiên bản lá cọ Horyu-ji (Bắc Phạn - Sanskrit)
Phiên bản Horyu-ji, mà chúng tôi dùng làn nền cho bản Việt dịch thô, đến từ hai tấm lá cọ (lá bối), và là phiên bản cổ nhất tìm được trên thế giới hiện nay, ước chừng đã được thực hiện vào thế kỷ thứ 6 hoặc thế kỷ 7-8. Trên hai tấm lá cọ này thì bài Kinh Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa được viết bằng hệ chữ Siddham (Tất đàm tự) trong ngôn ngữ Sanskrit. Theo Jarayava và Tanahashi thì bài Kinh bắt đầu từ hàng thứ nhất tới hàng thứ 7 của trang đầu tiên, qua đến hết hàng thứ nhất của tấm lá thứ nhì. Phần còn lại trên tấm lá thứ nhì là bài tổng trì Ushnisha Vijaya dharani (Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni), từ hàng thứ 2 đến hàng thứ 6, và hàng cuối cùng là bảng chữ cái Sanskrit.
Có truyền thuyết nói rằng phiên bản này đã được Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem từ Ấn Độ qua Trung Hoa vào khoảng 520 CN, được một Tăng nhân tên Yashi cất giữ cho đến khi vị ấy viên tịch vào năm 577 CN, rồi sau đó đã được đưa từ Trung Hoa về thờ tại tự viện Horyu-ji ở Nara, Nhật Bản, vào khoảng năm 609 CN. Mặc khác, G. Buhler thì lại cho rằng phiên bản Horyu-ji này thật ra đã được thực hiện vào thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8 chứ không phải do Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem từ Ấn Độ qua vào thế kỷ thứ 6, và Silk thì lại cho là vào thế kỷ thứ 9 hay thứ 10.
III. Lịch sử hiệu đính và hoàn thiện bản Việt dịch trong tinh thần vượt thoát
Sau khi bản Việt dịch được hoàn tất viên mãn, thì Thầy chúng tôi đã nảy sinh một ý tưởng tuyệt vời và đã cho phổ nhạc bài Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa ra nhiều thể loại âm nhạc khác nhau một cách rất sáng tạo, từ nhạc giao hưởng, thính phòng, cải lương, ngâm thơ, vọng cổ, tân cổ giao duyên… cho đến nhạc cổ truyền dân tộc, như lời Thầy đã thuyết vào cuối mùa hạ 2019 trước khi khóa an cư hoàn mãn (trích sách TTBNBLMĐ, trang 175-176):
Tâm nguyện của Thượng Tọa Tuệ Hải là bài Tinh Túy Bát Nhã sẽ được truyền bá rộng khắp, và các giáo lý siêu việt trong bản Kinh này, qua lời ca, tiếng nhạc, sẽ đi sâu vào lòng người dân Việt ở khắp mọi tầng lớp, trong mọi hoàn cảnh sống, thực sự phá vỡ được những bế tắc trong tâm thức của mọi người, khai mở được trí tuệ Bát Nhã sâu xa, đưa được nhiều người đến sự chứng ngộ viên mãn.
IV. Phân đoạn và tóm lược yếu nghĩa của các giai đoạn thâm nhập Bát Nhã và Hiển Hiện Bát Nhã
Để giúp làm thêm sáng tỏ cách thức chuyển ngữ, hiệu đính và hoàn thiện bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa so với bản gốc Phạn văn Sanskrit, chúng tôi xin ghi lại trong các đề mục phía dưới đây một số các trường hợp nổi bật của các từ ngữ, câu lời trọng yếu, do Thượng Tọa Thích Tuệ Hải chọn lựa. Khi đem ra so với các thuật ngữ chính yếu trong bản Phạn văn gốc, chúng ta có thể thấy ra được sự linh động khéo léo trong quá trình hiệu đính và hoàn thiện, cốt để làm sáng tỏ thâm ý của nội dung bản Kinh. Các thuật ngữ Sanskrit và câu lời tương ứng được nhắc đến bên dưới đây thật ra cũng là những gì đã từng gây thắc mắc cho chính bản thân chúng tôi trong giai đoạn khởi đầu.
Chúng ta học xuyên suốt bản Kinh này sẽ thấy toàn bộ bản Kinh đều nói đến một người ngay khi thâm nhập Bát Nhã. Trí tuệ đó thấy cái gì đang xảy ra ở đây thì cũng chính là chuyện của người đang thâm nhập Bát Nhã. Chúng ta nên hiểu nguyên bản Kinh này là như vậy. Đây chính là cái chìa khóa, nếu chúng ta mở được cái khóa ở đoạn trên thì xuyên suốt ở các đoạn dưới đều là ‘Bát Nhã hiện tiền.’
Như vậy tuy rằng ai cũng có thể hiểu được Kinh Bát Nhã theo chiều của tâm thức, nhưng nếu rời khỏi cảnh giới ‘ngay khi thâm nhập Bát Nhã’ thì coi như người đó không hiểu Kinh Bát Nhã.” (Trích TTBNBLMĐ, trang 106-107)
“Chúng ta càng học Bát Nhã, càng thấy là người xưa cách đây mấy ngàn năm đã hành văn rất chặt chẽ. […] Nhất là các vị Thánh chỉ cần xuất ngôn là thành một bài văn với mở bài, thân bài và kết luận rất chặt chẽ. Bài Kinh Bát Nhã có mấy trăm chữ nhưng đầy đủ những yếu tố đó.” (Trích TTBNBLMĐ, trang 133)
Các giai đoạn trọng yếu mô tả cảnh giới thâm nhập trí tuệ Bát Nhã
Đây là mở đầu, là bắt đầu thâm nhập Bát Nhã ‘ngay khi’ Bát Nhã hiện tiền; có nghĩa là khi ấy người đó thông thấu toàn bộ năm uẩn. Vậy thì năm uẩn chính là trí tuệ Bát Nhã. Trong chánh văn nói rằng ‘ngay khi thâm nhập Bát Nhã Ba La Mật Đa, thông thấu toàn bộ năm uẩn và tỏ tường tự thể của năm uẩn là Không,’ nhưng nên mở ngoặc ra nói rằng Không ở đây chính là Không Tướng (Vô Tướng). Hoặc mở ngoặc ra sau chữ Không để vô thêm chữ Bát Nhã, tức là ngũ uẩn trở thành chính là trí tuệ Bát Nhã, Bát Nhã chính là cái Không Tướng này. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 106-107)
Đoạn 2 – Cảnh giới đang thâm nhập Bát Nhã:
Đoạn này tiếp tục diễn tả một người đang thâm nhập Bát Nhã, mô tả cảnh giới của một người giác ngộ ‘ngay hiện tiền này.’ Ở đây Bát Nhã chính là ngũ uẩn, ngũ uẩn chính là Bát Nhã. Ngũ uẩn vốn dĩ cũng là toàn tri hiện hữu, vốn dĩ thanh tịnh, vốn dĩ chưa từng sanh diệt. Thực thể của sắc uẩn là Không thì Không ở đây là Không Tướng (Vô Tướng). Sắc uẩn cũng là Không Tướng, không sắc uẩn cũng là Không Tướng. Có hình sắc là Không, mà không có hình sắc cũng là Không. Nghĩa là ngay nơi hiện tiền này là hiện hữu, hiện thực, nhất như chứ không có hai, cho nên sắc chỉ là gượng nói, là tạm nói, chứ sắc không có, vì sắc là hiện tiền, mà không cũng là hiện tiền. Sự hiện hữu hiện tiền này là sự rỗng lặng thanh tịnh, chứ không có sắc và không có không, không có quá khứ, không có vị lai, không có hiện tại, không có không gian và không có thời gian. Đối với sắc là như vậy thì thọ, tưởng, hành, thức cũng là như vậy. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 81-83)
Đoạn 3 – Cảnh giới tiếp tục thâm nhập Bát Nhã:
Đây cũng là thêm một đoạn tiếp tục diễn tả một người đang thâm nhập Bát Nhã, mô tả cảnh giới của một người giác ngộ [ngay hiện tiền này.’ Ý nói nếu đã là Bát Nhã rồi thì tất cả các pháp đều hiển lộ từ Không Tướng (phi tướng, không có tướng sắc và cũng không có tướng không). Các câu “không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp…” cho đến “không có chứng, đắc… v.v.” chỉ là để giải thích toàn bộ cho thấy tất cả các pháp đều là Không Tướng chứ không khác. Ngay trong cảnh giới trí tuệ Bát Nhã này, tất cả các pháp đều hiện tướng Bát Nhã, đều hiện từ Không Tướng thì đây là cái thấy của người giác ngộ. Không Tướng ở đây chính là vô ngã, và vô ngã chính là vô pháp. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 107-109)
Đoạn 5 – Cảnh giới thường Hiển Hiện Bát Nhã:
Đoạn 6 – Bát Nhã là trí tuệ của đại giác - Hiển Hiện cảnh giới chân thật:
Xin xem toàn bộ bản Việt dịch bản chánh văn Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải hiệu đính và hoàn thiện vào ngày 08/08/2019 ở trang kế bên và nghe thêm các bài thuyết giảng về Tinh Túy Bát Nhã của Thượng Tọa Tuệ Hải tại đường link kênh Youtube Chùa Long Hương sau đây:
Chúng tôi cũng xin mạn phép chia bài Kinh này thành 6 phân đoạn, mỗi phân đoạn đều có một tiêu đề, và tiêu đề là do chúng tôi thêm vào để làm sáng tỏ nội dung chính yếu của từng đoạn Kinh dựa trên các lý giải cùa Thượng Tọa Thích Tuệ Hải trong các bài thuyết giảng chứ các tiêu đề này không có mặt trong bản gốc Phạn ngữ.
IV. Những điểm trọng yếu và cách lý giải một số thuật ngữ quan trọng và
Sau đây chúng tôi xin phép được tiếp tục trình bày về một số thuật ngữ Sanskrit, các khám phá liên quan đến các thuật ngữ này, quá trình tìm hiểu sơ khởi và cách thức diễn đạt diệu lý và thâm nghĩa trong tinh thần dịch thuật vượt thoát của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải trong khi hiệu đính và hoàn thiện bản Kinh này.
Nhưng trước khi đi sâu hơn, chúng tôi xin mạn phép nhắc lại câu chuyện về bản Kinh Niết Bàn (Nirvana Sūtra), cùng vị Ni Cô tên Vô Tận Tạng (Wu-chin-tsang) và ‘Cư Sĩ họ Lư của chúng ta,’ như Thượng Tọa Tuệ Hải thường gọi Lục Tổ Huệ Năng một cách thân thương mỗi khi nhắc đến Ngài. Khi ấy Lục Tổ vừa mới nhận Pháp từ Ngũ Tổ, vừa rời khỏi Huỳnh Mai đi lánh nạn và vẫn chưa phải là một vị tu sĩ xuất gia. Khi Ngài đến thôn Tào Hầu (Tsaohou) gần Thiều Châu (Shaochou), nghe thấy Ni Cô Vô Tận Tạng, là người cô của một vị học giả ở địa phương tên Lưu Chí Lợi (Liu Chih-lueh), tụng Kinh Niết Bàn, thì ngài đã thể ngộ diệu lý và giải nói cho vị Ni này nghe.
Khi vị Ni ấy đem Kinh đến đưa cho Ngài xem và hỏi Ngài về ý nghĩa của một Hán tự (một chữ đặc biệt) trong bản Kinh đó, Ngài trả lời rằng: “Tôi không biết đọc. Hãy hỏi tôi về diệu nghĩa của văn Kinh.” Vị Ni ấy hỏi lại Ngài rằng: “Nếu chữ ông còn không biết đọc, thì làm sao ông hiểu được nghĩa Kinh?” Tổ đã đáp rằng: “Diệu lý của Chư Phật chẳng dựa vào văn tự.” Khi ấy, vị Ni ấy đã lập tức nhìn Ngài bằng một cái nhìn khác, và đã nói với những vị trưởng lão trong thôn rằng: “Đây là một người có Đạo, các vị hãy nên thỉnh cúng dường.”
Đối với đoạn truyện trên thì Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, trong một bài giảng về Pháp Bảo Đàn Kinh, cũng đã giảng giải rộng hơn để giúp chúng ta thấy ra được điều sâu mầu trong câu chuyện này. Vì thật ra, điều mà Lục Tổ muốn khai thị không phải chỉ liên quan đến Kinh Niết Bàn hay đến tiểu sử của Tổ nói riêng, mà có liên quan đến toàn bộ cách đọc Kinh, học Kinh, dịch Kinh, thâm nhập nghĩa lý Kinh, và nhất là lại càng thiết yếu trong trường hợp được xem như là một bản Việt dịch kỳ đặc của Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa. Chúng tôi xin ghi lại tóm tắt lời giảng của Thượng Tọa Tuệ Hải như sau, trước khi đi sâu hơn nữa vào các thuật ngữ trong bản Phạn văn gốc của Tinh Túy Bát Nhã.
Nhờ Kinh điển để nhận ra đạo lý nhưng đạo lý lại nằm ngoài văn tự
Những điều được Thượng Tọa Tuệ Hải lý giải dưới đây cũng có thể được xem như là quan điểm nền tảng của chúng ta khi phải tiếp cận với một bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa rất lạ thường, khác xa với những gì mà chúng ta đã từng tiếp cận trước đây trong bản Tâm Kinh truyền thống. Và cơ may là với một quan điểm như thế, chúng ta có thể sẽ dễ dàng hơn để rời được cái cũ, khi cần thiết, để đến được với cái mới, khi hữu dụng, nhất là nếu cái mới có thể giúp chúng ta lĩnh hội và thâm nhập ‘diệu lý của Chư Phật’ một cách toàn triệt hơn.
Đây là những lời trích trong bài Pháp Bảo Đàn Kinh (Bài giảng 12) do Đại Đức Thích Tuệ Hải thuyết giảng trong quá khứ dựa trên bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ (https://www.youtube.com/watch?v=AhqWbUh6sfw):
[…] “Tổ bảo “chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi.” Chúng tôi nghĩ là do câu nói này mà người ta mới cho rằng Tổ Huệ Năng của chúng ta hoàn toàn không biết chữ. Khi ấy Ni Cô mới nói rằng “chữ còn không biết thì làm sao hiểu được nghĩa Kinh?” Tức là người không biết chữ thì lấy gì để hiểu nghĩa Kinh để giải? Và ở đây, Tổ lại nói rằng “diệu lý của Chư Phật chẳng có quan hệ với văn tự.” Tức là ở chỗ sâu mầu của Tự tánh kia thì chẳng dính dáng gì tới chỗ văn tự chữ nghĩa cả. Cho nên khi chúng ta học Phật Pháp, chúng ta thấy là có những người nhận đạo lý mà thông qua văn tự chữ nghĩa. Như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng lúc còn là một cư sĩ đốn củi, nghe qua câu Kinh “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ở trong Kinh Kim Cang thì Ngài ngộ. Tức là nhờ chữ nghĩa, nhờ Kinh điển mà Ngài nhận ra đạo lý, nhưng chính đạo lý đó lại nằm ngoài văn tự chữ nghĩa. […] Vì từ chỗ chân lý kia, người ta mới bắt đầu nói ra chữ nghĩa. Cho nên ngôn ngữ tải được một phần nào đó của đạo lý chứ ngôn ngữ không phải là đạo lý.
Và ở đây cũng vậy, diệu lý, tức là lý vi diệu ở bên trong, chân lý đó lại không nằm trong văn tự chữ nghĩa này. Khi học đạo, đôi khi chúng ta nặng về ngôn từ chữ nghĩa, nặng về trường lớp […]. Nhưng trong thời của Đức Phật, tất cả những người tu và đạt đạo trong thời của Đức Phật là những người không có bằng cấp nào hết. Và Lục Tổ Huệ Năng của chúng ta là người đại diện cho điều đó. Điều này nói lên được rằng Phật Pháp thực thụ không thông qua bất kỳ một khuôn sáo nào, mặc dù khuôn sáo đó cũng có thể tải được một phần của đạo lý bằng ngôn ngữ chữ nghĩa, bằng những lý luận hay khéo.
Nói chung, hiểu Kinh có rất nhiều dạng. Có những người hiểu ý ở trong lời nói đó.Có những người hiểu lý sâu của những lời nói đó. Cũng có những người nhân những lời nói đó mà nhận ra chân lý sâu ở bên trong. Đó là rất nhiều tầng bậc để nhận định rằng khi người đó đọc qua quyển Kinh thì người đó thâm nhập Kinh tới đâu. Cũng có những quyển Kinh người đó đọc được, hiểu được, giảng được nhưng lại không thấy được chân lý thì đây là dạng hiểu nghĩa trên văn tự chữ nghĩa. Cho nên khi đã nhận ra được chân lý rồi, thì dù là chữ nghĩa hay không phải là chữ nghĩa thì người đó cũng vẫn nhận ra. […]
Như vậy, trong trường hợp của bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa này, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ dưới đây những thông tin về sự liên hệ giữa một số các thuật ngữ Phạn văn Sanskrit quan trọng trong bản Kinh và cách Thượng Tọa Tuệ Hải hiệu đính và hoàn thiện. Trong trường hợp người đọc có nghi vấn về cách lựa chọn từ ngữ hoặc cách diễn đạt trong bản Việt dịch, cho rằng điều ấy không thích hợp hoặc dịch như thế là đi quá xa với ‘nghĩa đen’ của nguyên bản, thì chúng tôi xin mạo muội gợi ý để chúng ta quay lại về với lời khai thị của Lục Tổ và phần lý giải của Thượng Tọa Tuệ Hải ở trên đây. Được như vậy thì chúng ta có thể hoan hỷ nhận lấy một bản dịch hoàn toàn thoát ý, hoàn toàn thông lưu, dựa trên tinh thần diệu lý vốn vượt thoát văn tự mà Lục Tổ đã từ bi muốn chỉ ra cho chúng ta.
Về các bảng thuật ngữ Phạn-Việt
Trong các bảng thuật ngữ (viết tắt: BTN) dưới đây, TTBNBLMĐ là chữ viết tắt của bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải hiệu đính và hoàn thiện, và cũng là tên tập sách do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải lược giảng. Lý do chúng tôi lựa chọn nêu ra một số các trường hợp của các thuật ngữ và cấu trúc dưới đây để làm sáng tỏ là do bởi những ví dụ này bao gồm các câu Việt dịch khác thường, và bởi thế đã làm cho một số vị học Phật quan tâm và thắc mắc. Những trường hợp này cũng đã được ghi lại trong phần “Chú Thích” tóm gọn nằm phía sau tập sách Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa. Chúng tôi cũng sẽ trích lược một số lời giảng cô đọng trong sách lược giảng của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, có liên quan đến các thuật ngữ này phía dưới các bảng thuật ngữ, và nếu quý vị muốn tìm hiểu sâu xa thêm thì xin hoan hỷ đọc toàn bộ tập sách Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa do Thượng Tọa Tuệ Hải lược giảng
Về các từ ghép trong Phạn văn Sanskrit
Cũng xin lưu ý là trong trường hợp Phạn ngữ, chúng ta thấy có nhiều từ ghép được nối ghép lại bằng những từ vựng khác nhau. Một từ ghép cũng có thể mang một hoặc hai ý nghĩa khác nhau. Nếu chúng ta không rõ chủ ý của người sáng tác lúc khởi đầu thì việc diễn dịch một từ ghép lại tùy thuộc vào mỗi dịch giả với những cái nhìn chủ quan và cá biệt. Vì những luật hợp biến (sandhi) trong tiếng Phạn là bắt buộc trong câu, nên trong nhiều trường hợp, người đọc, người nghe có thể gặp vấn đề trong việc nhận biết từ gốc. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ‘śūnyatālakṣaṇā’ (BTN 6) và ‘amalāvimalā’ (BTN 7) trong Tâm Kinh. Cách tách hai từ này thành từ tố đã ảnh hưởng đến việc diễn giải nghĩa lý Kinh (xin xem các giải thích chi tiết trong các bảng thuật ngữ ở những trang sau).
BTN 1. gambhῑraṁ prajñāpāramitāyām caryāṁ caramāṇo và cảnh giới của bậc tu chứng ngay khi thâm nhập trí tuệ Bát Nhã Hiện Tiền
pra: trước
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Ngay khi thâm nhập Bát Nhã Ba La Mật Đa
* Tóm tắt: ‘Ngay khi’ là ngay phút chốc nhận biết, hay ra, ngộ ra Bát Nhã để tan biến thành Bát Nhã. Và thay vì ‘hành thâm’ hay ‘hành sâu’ thì từ ‘thâm nhập’ được sử dụng để chỉ một cảnh giới hòa nhập trọn vẹn trở thành Bát Nhã, chứ không phải chỉ là ‘thực hành’ Bát Nhã theo cách có người hành và có pháp để hành. Từ ‘thâm nhập’ chỉ là gượng nói để mô tả sự hiển lộ Bát Nhã.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “‘Ngay khi thâm nhập’ Bát Nhã Ba La Mật Đa là ngay nơi hiện tiền này chính là Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho nên dùng từ ‘thâm nhập’ cũng thành dư. Vì sao? Vì ngay nơi hiện tiền này không có sự vướng đọng, ngay nơi hiện tiền này là tỏ tường thông lưu, ngay nơi hiện tiền này là tự nhiên an nhiên, ngay nơi hiện tiền là nhất như, không có cái gì sai khác được. Ngay nơi hiện tiền là như nhiên, bình đẳng tuyệt đối. Cho nên chính hiện tiền này được xem như là thâm nhập Bát Nhã. Từ ‘thâm nhập’ [là gượng nói nhưng chủ yếu] là muốn giới thiệu là vị đó đã Hiển Hiện Bát Nhã rồi. […] “Hiển Hiện” tức là hiển lộ. Hiện tiền chính là hiển lộ Bát Nhã. Hiện tiền là sự hiện hữu của Bát Nhã, chứ không có ‘sống trong,’ không có ‘sống bằng,’ không phải ở ngoài nhập vào, cũng không có chuyện an trú mà nó là an nhiên, nó là một sự hiển lộ như nhiên, nó vốn dĩ là như vậy.
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Thông thấu toàn bộ năm uẩn
* Tóm tắt: Trước đây thường dịch là ‘chiếu kiến’ hoặc ‘soi thấy’ nhưng từ ‘thông thấu’ được sử dụng để chỉ một sự thông lưu thấu suốt, một sự thấy biết thông suốt có khả năng xuyên thủng, không gì ngăn trở được.
BTN 3. ca svabhāvaśūnyām paśyati sma và cảnh giới Không của năm uẩn
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Và tỏ tường tự thể của năm uẩn là Không
* Tóm tắt: Trước đây bản Hán Việt thường dịch là ‘chiếu kiến’ hay ‘soi thấy.’ Nhưng từ paśyati này còn có thêm các nghĩa bổ sung là: trải nghiệm, cùng dự phần, cùng chia sẻ. Nên ở đây dịch là ‘tỏ tường,’ ý muốn nói lên một sự tỏ thông lồ lộ mà không cần làm gì cả, là một sự chứng nghiệm cảnh giới ngũ uẩn giai Không, không có người thấy và cái thấy. Mọi sự đều chỉ lồ lộ tỏ tường, không còn phải là cái thấy theo nghĩa bình thường khi còn chủ thể và đối tượng nữa.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Tỏ thông thấu suốt (‘tỏ tường’) Bát Nhã thì năm uẩn từ xưa tới giờ cũng không hề có sự vướng đọng. Chúng ta lầm nên thấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chứ thấy đúng sự thật rồi thì ngũ uẩn là thông thấu, là hiện tiền. Sự tỏ thông này không có nghĩa là sửa đổi, là thay đổi cái thấy nhìn, mà vì ngũ uẩn từ xưa tới bây giờ vốn dĩ là Không.
BTN 4. iha śāriputra [rūpaṁ śūnyatā śūnyataiva rūpaṁ] và sự quan trọng của từ gốc ‘iha’ để bước vào chân trời ‘Bát Nhã Hiện Tiền’
(trạng từ chỉ định thời điểm và địa điểm): ở đây, tại đây, ngay đây, bây giờ, ngay bây giờ, trong trường hợp này, trong thời điểm này, hiện tại, trong thế giới này Xá Lợi Phất, Xá Lợi Tử
Nghĩa đen:
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Này Xá Lợi Phất, ngay hiện tiền này [sắc chính là Không, Không chính là sắc]
* Tóm tắt: Cụm từ ‘ngay hiện tiền này’ để thay thế cho ‘ở đây và bây giờ’ (‘ở đây/bây giờ’ là ý nghĩa phổ thông của từ gốc‘iha’ trong bản Sanskrit). ‘Ngay hiện tiền này’ là để chỉ khoảnh khắc hiện tiền hiện hữu không trước không sau khi thể nhập, tan biến thành trí tuệ Bát Nhã.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: […] “Những gì mình từng trải qua là ký ức, là quá khứ; những gì chưa tới là tương lai, còn ‘bây giờ’ không có nghĩa là ‘hiện tại.’ Nếu bây giờ chúng ta còn thấy đây là hiện tại thì chúng ta cũng là người đang nhận định. Nếu chúng ta có nhận định thì khoảnh khắc hiện tiền này là hiện tại, nhưng ‘hiện tiền này’ không phải là ‘hiện tại.’ Thực tại không phải là hiện tại, mà là cái đang hiện tiền, đang hiển lộ, đang hiển bày tất cả những gì đang hiện hữu này. Sự thật đang hiện hữu này rỗng lặng, thanh tịnh; nó đang hiển lộ tất cả mọi thứ hiện tiền ở đây thì đó chính là tinh túy của Bát Nhã.
Cho nên Bát Nhã không nói chuyện chút nữa, không nói chuyện hồi nãy và cũng không nói chuyện ở đây. Còn ‘ở đây’ là chúng ta còn khẳng định. Câu nói ‘ngay tại đây và bây giờ’ là chúng ta còn khẳng định. Khẳng định ‘ở đây’ là một sự chấp thủ mà mình lại không biết là mình chấp thủ. Có ‘ở đây’ thì sẽ có ‘ở kia’, có ‘bây giờ’ thì sẽ có ‘chút nữa’ và có ‘hồi nãy.’ Cho nên hiện tiền này không phải là ‘ở đây’ mà là đang ở đây! Hiện tiền này chính là hiện hữu phủ khắp. Mặc dù chúng ta chưa cảm nhận được nhưng chính chúng ta đang ở trong cái khắp. Chúng ta đang hiện hữu bằng cái khắp, chứ chúng ta không hiện hữu bằng cái riêng.” ( trang 18)
“Chúng tôi không muốn nói cụm từ ‘ngay tại đây’ và cố tránh từ này. Vì ‘ngay tại đây và bây giờ là từ ngữ vướng kẹt trong ngôn ngữ của Thiền học. Cho nên chúng tôi muốn thoát ra các từ này và chúng tôi nói ‘ở hiện tiền’ chứ không phải ‘ngay tại đây.’ ‘Hiện tiền’ không có nghĩa ‘ngay tại đây’. Ngay tại đây là một sự khẳng định, nhưng hiện tiền thì không phải là khẳng định mà cũng không phải là phủ định. ‘Ngay tại đây và bây giờ’ là một sự khẳng định, nhưng đạo lý không phải là khẳng định, không phải là phủ định. Nó ở ngoài sự khẳng định và phủ định, vì nó là hiện tiền, là hiện hữu, là thực thể, là như nhiên, là tự nhiên, không do ai tác động hết, không có ai ở ngoài để nhận định nó […] thì đó mới chính là chân lý. Cho nên mới nói là ‘ngay nơi hiện tiền’ này. Cái hiện thực này không ai có thể khẳng định được và không ai có thể phủ định được, vì nó là sự hiện hữu hiện thực rồi.”
“Trước đây có bao nhiêu cuốn sách dùng cụm từ ‘ngay tại đây và bây giờ,’ như vậy là đủ biết họ chết trong đó không thoát ra được. Thành ra cách sử dụng ngôn ngữ của người Việt rất sâu […].Chữ ‘hiện tiền’ này chính là chân lý. Ai có thể phá vỡ được chân lý này? Ai có thể từ chối hiện tiền này được? Hiện tiền thì không phải khẳng định, không phải phủ định, cho nên không có thời gian, không có không gian. Hiện thực, hiện hữu, hiện tiền này thì không ai có thể thay đổi được. Bởi vì chúng ta đang ở trong khoảnh khắc hiện tiền, hay nói khác hơn, chúng ta là hiện tiền chứ chúng ta không khác được.”(trang 90)
Sự quan trọng của từ gốc ‘iha’ và thuật ngữ ‘Ngay hiện tiền này’
Tiếp theo đây, chúng tôi xin mạn phép mở ngoặc viết thêm một chút nữa về chữ ‘iha’ như sau. Như đã trình bày ở phần đầu, chữ ‘iha’ tuy rất nhỏ bé nhưng đã đóng một vai trò trọng yếu trong bản Kinh Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa mà gần như chẳng mấy ai biết đến. Tôi thật sự yêu nó vô cùng! Nhiều lần tôi nghĩ đến nó và đã tự hỏi vì sao chúng ta đã phải mất hơn một ngàn mấy trăm năm để tìm ra lại chữ này trong bài Tâm Kinh? Vì sao cái chữ ấy đã đi lạc hơn một ngàn mấy trăm năm mà chẳng ai nhìn thấy nó ngay trong bài Tâm Kinh? Có phải chăng, do nó quá nhỏ bé, ở trong một vị trí quá khiêm tốn nên nó đã bị lạc mất trong rừng chữ nghĩa Phật Pháp?
Có nghĩa là trong bản dịch phổ biến và kinh điển của Ngài Huyền Trang theo Hoa truyền mà Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa và Đại Thừa Việt Nam sử dụng thì chữ ‘iha’ (Hán: ci) đã không xuất hiện vào thế kỷ thứ 7 khi Ngài Huyền Trang còn tại thế, nhưng vì một lý do nào đó, Ngài Bất Không vào thế kỷ thứ 8, đã nhìn thấy ra từ trong bản Phạn văn Sanskrit và đã thêm vào trong khi hiệu đính bản dịch của Ngài Huyền Trang. Văn bản gốc này hiện đang được lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Anh quốc (British Museum – Stein #5648)
2. Từ gốc ‘iha’ là từ quan trọng nhất trong bản Tâm Kinh theo Red Pine
‘Ngay hiện tiền này’ chuyển tải trọn vẹn thâm nghĩa của từ gốc ‘iha’
Vậy chúng ta có thể mạnh dạn kết luận ở đây rằng Bát Nhã Tâm Kinh, theo cách gọi xưa nay, đang mô tả cảnh giới tu chứng của một người thể nhập trí tuệ ‘Bát Nhã hiện tiền,’ chứ Tâm Kinh không chỉ thuần túy là một luận lý với các mệnh đề phủ định, phủ nhận tự tánh độc lập của sự vật, cho rằng mọi sự đều không có tự tánh. Đúng thật là vạn pháp đều không có tự tánh độc lập, do đó có tánh Không duyên khởi. Nhưng đặc biệt là bản Kinh này còn là một bản Kinh dạy về Chân Như Tự Tánh, về Thật Tướng của vạn pháp, khẳng định về sự viên mãn tròn đầy của Chân Như Tự Tánh, và mô tả chuyện gì đang xảy ra cho một hành giả ngay khi thể nhập Thật Tướng, Không Tướng, thể nhập Chân Như Bản Thể thanh tịnh!
BTN 5. yad rūpāṁ sā śunyatā yā śūnyatā tad và cảnh giới giác ngộ khi cả tướng sắc lẫn tướng không đều là Không Tướng nên ‘sắc chính là Không, Không chính là sắc’
Nghĩa đen: Cái gì là sắc, cái đó chính là Không, cái gì là Không, cái đó chính là sắc
Câu trên đây không hiện diện trong các bản Hán văn, Hán-Việt và bài Việt phổ thông.
Vì chúng ta ảo tưởng có tướng sắc và tướng không, chứ thực chất thì sắc chính là Không Tướng và không cũng chính là Không Tướng. Cho nên nói ‘sắc chính là Không’ và ‘không cũng chính là Không.’ Vì ở chỗ Không Tướng thì mình muốn nói cái gì cũng là Không Tướng, chứ không khác được.
Cái thật thì vẫn luôn ‘hiện’ Không Tướng. Khi Không Tướng nhuốm sắc thì sắc là Không Tướng. Khi Không Tướng nhuốm tướng không thì tướng không cũng là Không Tướng. Tạm thời để có khái niệm ‘có tướng’ là sắc và ‘không có tướng’ là tướng không. Tướng sắc và tướng không là hai cái ảo tướng hiện ra trong cảnh giới Không Tướng. Cho nên mới nói ‘cái gì là sắc, cái đó chính là Không, cái gì là Không, cái đó chính là sắc.” (trang 87)
[…] “Ngay niệm hiện tiền này, chúng ta không thấy đúng thực thể sắc chính là Không Tướng thì xem như chúng ta vô minh. Ngay niệm hiện tiền này, chúng ta không thấy đúng thực thể không cũng chính là Không Tướng thì xem như chúng ta vô minh. Ngay hiện tiền này, chúng ta không thoát khỏi tướng có và tướng không thì xem như chúng ta vô minh. Nếu như ngay hiện tiền này, chúng ta thấy không có ‘tướng có’ và không có ‘tướng không’ thì đó là cái thấy của Bát Nhã. (trang 88)
[…] Chính cái thấy nhìn của Bát Nhã là cái thấy vượt ngoài sắc và không, vượt ngoài có và không, vượt ngoài tướng có và tướng không. Chính cái thấy này là cái thấy của Bát Nhã, mà cái thấy của Bát Nhã thì lúc nào cũng là ngay trong khoảnh khắc này, ngay nơi hiện tiền này. Ở khoảnh khắc hiện tiền, hiện hữu, hiện thực này thì thực thể luôn hiển bày. Bát Nhã luôn là hiện hữu hiện tiền, Bát Nhã không nói chuyện chút nữa, không nói chuyện đã qua. Bát Nhã là thực tại, là hiện tiền. Cái hiện tiền của Bát Nhã là cái hiện tiền không có sắc, không có không. Sắc cũng là Không, Không cũng là sắc, chứ không có khác. Nói ‘cũng là’ hay ‘chính là’ thì đó cũng là một cách nói, chứ thực sự là sắc không có, không cũng không có.” (trang 91)
BTN 6. [iha śāriputra] sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā và vạn pháp hiển lộ từ Không Tướng
Nghĩa đen theo cách ghép từ #1: Tất cả các pháp [vốn là] ‘Không + không đặc tính’ (‘không đặc tính’ - ālakṣaṇā) theo Phạn văn thì phải là tĩnh từ miêu tả ‘Không’ (śūnyatā), chứ không phải để miêu tả ‘tất cả các pháp.’
Nghĩa đen theo cách ghép từ #2: Tất cả các pháp [vốn là] ‘Không + có đặc tính’ (’có-đặc-tính’ (lakṣaṇā) – nếu theo Phạn văn thì ở đây là tĩnh từ miêu tả ‘Không’ (śūnyatā), chứ không phải là tĩnh từ miêu tả ‘tất cả các pháp.’ Do đó không thể mang nghĩa là ‘tất cả các pháp đều mang đặc tính Không’ hay ‘tất cả các pháp đều là tánh Không,’ như thường được dịch xưa nay để mô tả các pháp. Nếu dịch theo nghĩa đen của cách tách từ #2 là không hợp lý, vì đã là ‘Không’ thì chẳng thể ‘có-đặc-tính,’ nên mặc nhiên phải dịch theo nghĩa đen của cách tách từ #1. Xin xem thêm ghi chú dưới đây.
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Tất cả các pháp đều hiển lộ từ Không Tướn
* Tóm tắt: Theo ngữ pháp Phạn, từ śūnyatālakṣaṇā là một từ ghép và có chữ ā ở cuối chữ śūnyatā (Không). Từ này là một từ theo nữ tính nên từ liên kết sau đó có thể có hai nghĩa, hoặc là śūnyatā + lakṣaṇā (Không + tướng/đặc tính) hoặc là śūnyatā + alakṣaṇā (Không + không đặc tính) tùy theo nội dung và cách diễn giải. Nếu để y cụm từ ghép śūnyatālakṣaṇā như trong bản lá cọ thì dựa trên ngữ pháp Phạn sẽ có hai cách hiểu: một là “tướng Không” như cách hiểu và dịch trong một số bản dịch trong quá khứ; hoặc hai là “vắng bặt mọi tướng/vắng bặt mọi đặc tính,” tức đồng nghĩa với ‘Không Tướng’ như trong bản Việt dịch TTBNBLMĐ. 'Không Tướng’ ở đây là Thật Tướng của các pháp, là hiện tiền hiện hữu chân thực.
Cách tách từ ghép śūnyatālakṣaṇā – Không Tướng (Vô Tướng)
Nếu hiểu đơn giản nhất, theo cách tách từ ghép śūnyatālakṣaṇā hợp lý nhất trong Phạn ngữ (theo cách #1- xin xem bảng thuật ngữ ở trên), thì điều này lại hoàn toàn phù hợp với cách lý giải của Thượng Thọa Tuệ Hải. Đây thuần túy là cảnh “vạn pháp hiển hiện từ Không Tướng,” tức là mô tả cảnh giới Chân Không diệu hữu, chứ ở đây đang không nói đến chuyện “tánh Không,” “tướng Không,” hay “tướng có, tướng không” của các pháp. Ở đây theo Phạn ngữ thì ālakṣaṇā - ‘không có đặc tính’ là một tĩnh từ mô tả Không (tức là Không Tướng - Vô Tướng), chứ không phải là một tĩnh từ để mô tả các pháp.
[…] Cho nên các đoạn ở dưới trong chánh văn ‘không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… cũng chỉ là để giải thích toàn bộ đoạn ở trên về ‘tất cả các pháp đều hiển lộ từ Không Tướng.’ Theo hướng này thì chúng ta sẽ thấy lộ ra hết tất cả những tinh túy cốt tủy của bản Kinh Bát Nhã. Đức Phật chỉ nói một chuyện duy nhất, đó là khi một người thâm nhập Bát Nhã rồi thì tất cả đều là Bát Nhã, không có khổ, không có vui mà nó chỉ hiện tiền là Bát Nhã. Tất cả mọi cái thấy, nhìn, hay, biết, động dụng đều là Bát Nhã. Đã là Bát Nhã thì không có chứng, không có đắc, không có gì sau đó nữa hết. Nói tới đây là nói hết bản Kinh rồi đó.
[…] Nếu chúng ta không muốn dùng cụm từ “hiển lộ từ Không Tướng” thì chúng ta có thể đổi thành “hiển lộ từ Bát Nhã.” Mỗi mỗi hiện tướng đều là hiện tướng của Bát Nhã, từ Bát Nhã hiện. Hoặc nói một câu khác gọn hơn là mỗi mỗi hiện tướng đều là tướng của Bát Nhã hiện. Chúng ta có thể nói ngược như vậy, nói ngược như vậy thì sẽ ra chuyện. Điều này không khó hiểu mà nó là sự thật. Nếu chúng ta nhìn mọi hiện tướng đều là “có” và “không” thì chúng ta vẫn còn phàm phu. Không có chuyện “có” và “không,” không có chuyện “pháp” hay “ngã” ở đây nữa.
Tới đây chúng ta có thể nói một chút về pháp và ngã. Các pháp đều hiển hiện từ Không Tướng, vậy thì Không Tướng chính là gì? Không Tướng chính là vô ngã, vô ngã có nghĩa là vô pháp, cho nên tất cả các pháp đều là Không Tướng. Vậy thì tuy pháp hiện nhưng pháp này chính là “Pháp bổn pháp vô pháp.” Cái gốc của pháp từ xưa tới giờ chưa từng là pháp. Do các pháp hiện từ chỗ Không Tướng, cho nên nó không phải là pháp mà nó là “hiện tướng của Không Tướng.”
Như đã nói, tất cả những cái hiện này đều là hiện tướng của Không Tướng. Ở đây chúng ta có thể mở ngoặc gọi nó là phi tướng, có nghĩa là nó không phải tướng, nó cũng không phải pháp. Chính thật tất cả mọi thứ đều không phải là pháp. Nhưng nếu nói đến định nghĩa của pháp thì pháp là cái gì? Pháp là cái gì đó mà nó gìn giữ, bảo vệ cái riêng của bản thân nó. Ví dụ, như bây giờ chúng ta giơ một ngón tay lên thì đây là một pháp. Đây là pháp của cái hiện tướng của một ngón tay. Ở đây có nghĩa là nó duy trì, gìn giữ cái riêng biệt của nó. Nhưng hiện tướng riêng biệt của nó cũng chính là ảo tướng. Ảo tướng là do cái thấy sai lầm về cái tưởng của mình. Tất cả các tướng này đều là do cái tưởng của mình mà sanh ra.
Nếu chúng ta nói như vậy thì khó có ai có thể chấp nhận được. Nếu có một lần nào đó mà chúng ta rớt vào chỗ không có tưởng thì tất cả các tướng này đều liền không có. Tướng thân, tướng tâm của mình cũng mất luôn. Một lần chúng ta rớt vào đó là tất cả những cái này đều sẽ là “hiện tướng Không.” Chúng ta sẽ không nhìn ra được các tướng nữa nếu chúng ta vượt được qua khỏi cái tưởng. Khi chính bản thân mình không nhận được tướng nữa, như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Một người đã vượt được tưởng ấm rồi thì thiên ma ba tuần còn không tìm thấy dấu tích”. Chư Thiên muốn cúng dường cũng sẽ không tìm ra.
Nếu Bát Nhã hiển lộ thì ngay hiện tiền này, tất cả mọi cái thấy của mình đều là thấy hình sắc và tất cả mọi hình sắc đều hiển lộ từ cái đang thấy của mình. Mà cái đang thấy của mình chính là Thật Tướng đang rõ thông. Thật Tướng này chính là Không Tướng. Nếu không có Thật Tướng này thì không thể lộ các hình tướng này đâu. (trang 108-110)
BTN 7. anutpannā aniruddhā amalāvimalā nonā na paripūrṇāh và pháp giới toàn chân không sanh không diệt, thông lưu, thanh khiết, không nhơ, không nhiễm, viên mãn tròn đầy
Nghĩa đen theo cách ghép từ #1(amalā + avimalā): không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thiếu, không đủ -- Phiên bản Horyu-ji là không thiếu, không đủ, trong khi các dị bản Phạn khác là không tăng, không giảm.
Nghĩa đen theo cách ghép từ #2 (amalā + vimalā): không sanh, không diệt, không dơ, không nhiễm, không thiếu, không đủ
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: không sanh, không diệt, không nhơ, không nhiễm, viên mãn tròn đầy
* Tóm tắt: Bản Việt dịch TTBNBLMĐ chuyển ngữ câu này theo cách #2 là amalā (trong sạch, không nhơ) + vimalā (trong sạch, không ô nhiễm). Thêm vào đó thay vì dịch là ‘không thiếu, không đủ’ thì Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải đã chọn dịch thoát ý ở đây thành ra là ‘viên mãn tròn đầy.’ Hiện tại này là viên mãn tròn đầy, không dư, không thiếu, không nhiễm, không nhơ, không sanh, không diệt vì Bát Nhã là viên mãn. Thêm vào đó, nếu xem kỹ các nghĩa bổ sung của aniruddhā và nghĩa bổ sung của amalā thì chúng ta cũng có thể hiểu câu này theo một nghĩa lý rất thâm diệu, đại ý rằng đây là cảnh giới “không sanh, không diệt, thông lưu không gì ngăn trở, thanh tịnh chói sáng, vô nhiễm, viên mãn tròn đầy.”
Cách tách từ ghép amalāvimalā – phản nghĩa hoặc bổ sung
Trong quá trình tìm hiểu các thuật ngữ Sanskrit trong bản Kinh, chúng tôi tình cờ tìm thấy bản dịch Anh ngữ Tâm Kinh dài theo truyền thống Tây Tạng và Nepal của Eng Jin Ooi, như đã thưa trong Phần I về các khám phá mới. Nhưng thay vì dịch câu này theo nghĩa là ‘bất cấu, bất tịnh’ hoặc ‘không nhơ, không sạch’ theo như truyền thống lâu nay, trình bày một cặp từ phản nghĩa và phủ định, thì bản dịch của Eng Jin Ooi lại nói ngược lại điều này, vì ông đã dịch là ‘not blemished, not stained’ (amalā + vimalā), đại ý là không nhơ nhuốc, không cấu uế + không tỳ vết, không nhiễm ô. Như vậy là cặp từ này không còn là phản nghĩa nữa mà là bổ sung cho nhau!
Điều này thật sự đã làm cho tôi sửng sốt, bởi vì trước đó, tôi đã từng nghe đi nghe lại một người nữ ca sĩ Ấn Độ hát bài Tâm Kinh này bằng Phạn ngữ và tôi nghe rõ cô ấy đã hát câu này là amalā + vimalā (không nhơ, không nhiễm) thay vì amalā + avimalā (không nhơ, không sạch). Câu hát này của cô đã gây ấn tượng cho tôi và làm cho tôi thắc mắc nên tôi đã làm quen với Eng Jin Ooi, và đã hỏi ông vì sao ông chọn lựa cách dịch ngược với truyền thống như vậy.
Sau đó Eng Jin Ooi đã giải thích cho tôi về các từ ghép trong Sanskrit, vào ông giải thích thêm rằng do hai từ này có chữ ā ở cuối chữ thứ nhất (amalā), nên người dịch được toàn quyền chuyển dịch theo một trong hai nghĩa khác nhau tùy vào quy tắc tương ứng. Cuối cùng, ông kết luận rằng nếu ta không nắm vững nguyên ý của tác giả thì đôi khi sẽ dịch lệch nghĩa của một từ ghép, và điều này cũng thường xảy ra trong Phạn ngữ trong khi lý giải ý Kinh.
Các nghĩa bổ sung và pháp giới viên mãn toàn chân
Chúng ta đang bị bó buộc trong ảo tướng không ra được, cho nên mình tưởng tượng là mình ăn như vậy, ngủ như vậy, làm như vậy là mình mới thanh tịnh, còn mình ăn khác, ngủ khác thì mình không thanh tịnh. Đó chỉ là do mình tưởng thôi. Tịnh còn không có, huống gì là nhiễm. Cho nên ở đây gọi là “không nhơ, không nhiễm.” Ở hiện tiền này, nhơ không có kịp, nhơ không vói tới cái hiện tiện này. Cảnh giới hiện tiền này là ‘Bát Nhã toàn tri’ thì nhơ sao được mà nhơ, nhiễm sao được mà nhiễm?
Hiện tiền này là cảnh giới thanh tịnh vô trùng tuyệt đối thì nhơ ở đâu ra? Hiện tiền luôn là tối tôn, tối thượng, tối thắng, là cảnh giới tuyệt đối của chư Phật. (trang 120)
Ở phần cuối của câu này, nếu dịch y theo nghĩa đen trong chánh văn thì sẽ dịch là ‘không thiếu, không đủ.’ Nhưng chúng tôi dịch thoát ý ở đây là ‘viên mãn tròn đầy.’ Hiện tại này là viên mãn tròn đầy, không dư, không thiếu, không nhiễm, không nhơ, không sanh, không diệt vì Bát Nhã là viên mãn. Nếu thực sự một phen tâm chúng ta cảm thấy tròn đầy viên mãn là chúng ta đang nhập trong Bát Nhã, đang ở chỗ hiện tiền, đang giác ngộ Phật đạo.
Giác ngộ Phật đạo là viên mãn tròn đầy, không hề thấy thiếu bất kỳ thứ gì. Dù là một hạt cát thì chúng ta cũng thấy nó đầy khắp pháp giới này. Dù là sát na thì nó cũng tròn đầy viên mãn khắp pháp giới hư không này. Chứ không phải hạt cát và sát na là nhỏ, hư không là lớn. Nếu thấy như thế là chúng ta không có cái thấy nhìn viên mãn tròn đầy. Từ ‘viên mãn tròn đầy’ nghĩa là không có khiếm khuyết ở đâu; dù là nó hư, nó bể thì nó cũng viên mãn tròn đầy. Ví dụ cái dĩa bể phân nửa, chúng ta nhìn thấy nó khuyết thì đó là nhìn sai trên ảo tướng, chứ nó cũng đang viên mãn tròn đầy.
Viên mãn thì nơi nơi chốn chốn đều là viên mãn. Dù là hư không vũ trụ bao trùm rộng khắp này đang viên mãn, cho đến hạt cát cũng chứa cả hư không, đó mới là viên mãn, đó là sự thật! Nếu chúng ta nhìn hư không này còn thấy khác với hạt cát là chúng ta còn nhìn méo mó chưa viên mãn, trí tuệ của chúng ta chưa tròn đầy. Phút chốc chúng ta ở “ngay hiện tiền này” là cái nhìn của viên mãn tròn đầy. Không phải là mình tưởng tượng đâu, mà sự thật là tất cả các pháp đều như nhau, dù là một sát na rất nhỏ nhiệm cũng viên mãn tròn đầy.
Cho nên đang ở hiện tiền, đang nhập trong Bát Nhã là tiếng nói của Bát Nhã. Đã là tiếng nói Bát Nhã thì không chỗ nào bị khiếm khuyết. Cho nên chỗ nào cũng hiện tiền Bát Nhã, chỗ nào cũng viên mãn tròn đầy, chỗ nào cũng tỏa sáng rực rỡ hào quang, chỗ nào cũng phủ trùm pháp giới, chỗ nào cũng là cảnh giới của chư Phật, chỗ nào cũng là cõi giới của chư Phật. Nếu chúng ta nhìn khác thì không phải là viên mãn tròn đầy. (trang 120-121)
BTN 8. tasmāc chāriputra śūnyatāyāṁ và cảnh giới của bậc tu chứng khi ngũ uẩn là Không
Nghĩa đen: Trong quá khứ đã được dịch như sau: thị cố Không trung [vô sắc, vô thọ, tưởng, hành thức] / Cho nên trong tướng Không / Cho nên trong tánh Không / cho nên trong Không
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Cho nên, Xá Lợi Phất, trong Không Tướng ấy [không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức]
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Đây là điệp khúc nhắc lại đoạn trước và để tóm kết đoạn trước. Ở nơi Không Tướng này là hiện tướng của ngũ uẩn, nhưng nơi Không Tướng này cũng không có ngũ uẩn. Ở trong Không Tướng này không có ‘tướng có’ cũng không có ‘tướng không’ nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức là hoàn toàn không có. Chúng ta có thể hiểu được bằng tâm thức là ở chỗ Không Tướng, đã không có tướng sắc, không có tướng không thì không có ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là hoàn toàn không có trong cảnh giới Không Tướng ngay nơi hiện tiền này.
Vì vậy câu ‘trong Không Tướng’ là thay thế cho ‘ngay hiện tiền.’. Ngay hiện tiền chính là Không Tướng. Không Tướng chính là hiện tiền. Hiện tiền chính là ngay khi thâm nhập Bát Nhã. Ngay khi thâm nhập Bát Nhã chính là hiện tiền. Ngay nơi hiện tiền chính là đang hiện hữu và cái đang hiện hữu chính là Không Tướng. Ngay nơi Không Tướng này chính là Bát Nhã. Như vậy nơi Bát Nhã không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngay nơi Không Tướng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngay nơi hiện tiền cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tức là không có ngũ uẩn.” (trang 122-123)
BTN 9. prajñāpāramitām āśritya viharaty a-cittāvaraṇaḥ và sự Hiển Hiện Như Nhiên của bậc tu chứng khi trí tuệ Bát Nhã Hiện Tiền hiển lộ
Nghĩa đen: Nương theo, trú nơi Bát Nhã Ba La Mật Đa tịch tĩnh, tâm không bị ngăn che bởi niệm tưởng
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Y Như Bát Nhã Ba La Mật Đa, Hiển Hiện Như Nhiên, tâm không ngăn ngại
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Bây giờ chính Bậc giác hữu tình đó không còn là ‘ngay khi thâm nhập’ nữa, mà là tới ‘Y Như Bát Nhã Ba La Mật Đa’ rồi. Ví dụ như mình từ bên ngoài vào, mình thâm nhập vào nội chúng này thì giống như mình còn là một tự thể riêng để đi vào Bát Nhã. Bây giờ mình không còn là người ở ngoài nhập vào, không phải là người mới bước vô mà đã thành ‘Y Như Bát Nhã’ rồi, tan biến thành Bát Nhã, chứ không còn là nhập, không còn là trực nhận, không còn là trực ngộ, không còn là sống bằng, không còn là hiểu nữa. Không phải là những từ chữ như vậy nữa.
‘Y Như’ (chứ không phải y theo hay nương theo) là một từ ngữ, tuy giống như đã được chọn lọc để xài một cách rất bình thường nhưng thực chất không phải như vậy. Phải nói rằng đây là tất cả những kinh nghiệm sống của cả một đời tu tập để chúng tôi có thể sử dụng cụm từ này trong câu này: ‘Bậc giác hữu tình Y Như Bát Nhã Ba La Mật Đa.’ Không còn gì là khác Bát Nhã, không còn là nhập hay không nhập nữa. ‘Y Như,’ nếu đem ra so sánh thì không phải là hai, không phải là khác, mà là Bát Nhã. Thay vì nói Bậc giác hữu tình là Bát Nhã nhưng chúng ta dùng từ ‘Y Như’ để người ta có thể mường tượng Bậc giác hữu tình không còn là cái gì khác với Bát Nhã nữa. Bậc giác hữu tình đó hiện tại chính là Bát Nhã, là cảnh giới Bát Nhã, là hiện hữu Bát Nhã. (trang 134)
Bậc giác hữu tình lúc đó ‘Y Như’ Bát Nhã. Con mắt họ là Bát Nhã, là trí tuệ tỏa sáng, chứ không phải cái thấy nhìn, cái hiểu biết nữa. Dùng từ ‘thấy’ hay ‘chiếu’ là những từ ngữ của trần gian, không đủ sức diễn tả Bát Nhã hiển hiện trong lúc này. Bậc giác hữu tình ‘Y Như Bát Nhã. Chính Bậc giác hữu tình là Bát Nhã, Bát Nhã là Bậc giác hữu tình.
Do vị ấy đã là Bát Nhã rồi nên chúng ta dùng từ ‘Hiển Hiện.’ Có nghĩa là vị này lúc nào Bát Nhã cũng hiển lộ hiện tiền chưa từng bị khuất mất, không gì có thể che chắn, xuyên suốt thời gian và không gian. Lúc nào Bát Nhã cũng hiển lộ, hiện tiền. Hiện tiền chính là sự hiển lộ, hiển lộ chính là sự hiện tiền, không có thời gian. Cho nên lúc nào trí Bát Nhã cũng Hiển Hiện, cũng hiện tiền, cũng hiển lộ. Không phải mình hiểu, mình ngộ, mình nhập mà Bát Nhã đã hiển lộ rồi. Khi Bát Nhã hiển lộ thì nó là hiện tiền, là hiện hữu, là hiện thực. Cái gì đang hiển lộ, đang hiện thực, đang hiện tiền thì đó chính là Bát Nhã. Bát Nhã chính là hiển lộ, hiện thực,hiện tiền không có gì khác. (trang 139)
Ở đây nếu dịch ‘an trú’ là sai. Có chỗ để mình trú và còn ‘mình’ để ‘mình’ trú là không phải. Dịch thoát ý là ‘Hiển Hiện Như Nhiên’ thì nghĩa là không có công phu, không có chú tâm, không có chú ý, không có dụng công, vì chỗ này không có dụng công. Bát Nhã là cái gì đó an ổn, thanh tịnh, tự nhiên, như nhiên. Người ở chỗ này rồi thì không còn công phu lấy bỏ, đúng sai, hay dở, không còn làm bất cứ điều gì hết. Họ là người an lạc, thanh tịnh, an ổn, tự nhiên, như nhiên. Bát Nhã là sự hiển lộ tự nhiên, như nhiên, nếu mình làm cái gì là không lộ Bát Nhã. Bất kỳ dụng công nào cũng sai với Bát Nhã. Cho nên lúc Bát Nhã hiển lộ rồi là người đó thành Như Nhiên. Người nào Như Nhiên thì người đó rất tự tại, lưu thông không còn ngăn ngại nữa. (trang 140-141)
BTN 10. prajñāpāramitām āśritya và cảnh giới thường Hiển Hiện Như Nhiên của Chư Phật trong ba thời
Nghĩa đen: Nương theo, trú nơi Bát Nhã Ba La Mật Đa
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: thường Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa
* Tóm tắt: Chữ ‘thường’ được thêm vào, hàm ý Chư Phật trong ba thời thời thời khắc khắc lúc nào cũng đang Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bát Nhã không lúc nào không Hiển Hiện, quá khứ cũng Hiển Hiện, hiện tại cũng Hiển Hiện và tương lai cũng Hiển Hiện. Không có lúc nào không phải là Bát Nhã (TKTTH – Xem thêm các lý giải trong sách TTBNBLMĐ, trang 143-144)
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Chư Phật quá khứ thường Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa mà đạt được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chư Phật hiện tại cũng thường Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là đời sống của các Ngài là Bát Nhã. Lúc nào cũng hiển lộ Bát Nhã; đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều là Bát Nhã. Khi một người đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều là Bát Nhã thì người đó thành Phật. Thành ra ở đây muốn kết đoạn trước ‘ngay khi thâm nhập Bát Nhã’ cho tới khi thành Phật thì người đó luôn Hiển Hiện Bát Nhã một cách trọn vẹn.” (trang 144)
“Khi nào Bát Nhã Ba La Mật Đa không hiện thì chỗ đó không phải là Phật. Nếu tất cả đều là sự Hiển Hiện của Bát Nhã Ba La Mật Đa thì tất cả đều là Phật. Phút giây nào trong cuộc sống chúng ta Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là chúng ta Hiển Hiện trong cõi Phật, ở trong cõi giác. Còn phút giây hiện hữu này mà chúng ta không Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa thì mình là người mê.”
“Chư Phật trong ba thời, thường Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Hỏi chư Phật là gì? Chúng ta có thể định nghĩa chư Phật là thường Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bát Nhã Ba La Mật Đa không lúc nào không Hiển Hiện, nên gọi là thường Hiển Hiện. Không lúc nào trí tuệ không tỏa sáng, không lúc nào không an tịnh, cho nên gọi là thường tại định. Thường tại định là định của chư Phật, là Phật định. Phật định là thường tại định, thường định, thường hiện hữu.” (trang 146)
BTN 11. prajñāpāramitā mahā-mantro mahā-vidyā mantraḥ anuttara-mantraḥ asamasama-mantraḥ và Bát Nhã là trí tuệ của đại giác chứ không phải Bát Nhã là một thần chú
prajñāpāramitā mahā-mantro //
Nghĩa đen: Bát Nhã Ba La Mật Đa là câu chú lớn, là câu chú của đại trí, là câu chú vô thượng, là câu chú vô song
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ lớn, là trí tuệ của đại giác, là trí tuệ vô thượng, là trí tuệ vô song
* Tóm tắt: Trong các câu tương đương được tìm thấy trong bản Phạn của bộ Kinh Đại Bát Nhã tức ‘Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Bát Nhã’ thì từ vidyā (trí, trí giác) đã được sử dụng thay vì từ mantraḥ (chú). Trong các bản gốc Phạn văn được nhắc đến ở trên, cũng như trong hệ Bát Nhã nói chung thì Bát Nhã Ba La Mật Đa luôn được nhắc đến như là trí tuệ thực tiễn và tuyệt đỉnh, chứ không hề được nhắc đến như là một loại thần chú.” Cũng thế, trong bản Việt dịch TTBNBLMĐ thì từ ‘trí tuệ’ (trí) được sử dụng vì ở đây đang muốn nhắc rằng trí tuệ Bát Nhã là trí tuệ tối thượng vốn có của tất cả chúng sanh, đồng đẳng với mười phương ba đời chư Phật. Ở đây là sự Hiển Hiện cảnh giới chân thật của Bát Nhã, là trí tuệ siêu việt vượt ngoài tam giới.
“Nói tới Bát Nhã là phải nói tới trí tuệ, và nói tới trí tuệ là nói tới Bát Nhã, vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Khi chúng ta ở trong cảnh giới Bát Nhã thì trí tuệ chúng ta trùm khắp pháp giới mười phương, và tất cả mọi cảnh giới đều hiện ra trong trí tuệ này.Trong khoảnh khắc chúng ta tan biến thành Bát Nhã, hòa nhập trong cảnh giới Bát Nhã hoặc hiển hiện trong cảnh giới Bát Nhã thì lúc đó trí tuệ hiện tiền viên mãn. Trí tuệ đó thông thấu toàn bộ pháp giới này một lượt; tất cả những gì có trong pháp giới này một lượt hiện ra.” (Xem thêm các lý giải trong sách TTBNBLMĐ, trang 148)
Thay thế từ ‘chú’ bằng từ ‘trí’ vì Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ của đại giác
“Vì vậy, nên biết: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ lớn, là trí tuệ của đại giác, là trí tuệ vô thượng, là trí tuệ vô song.”
Phản ứng đầu tiên khi chúng tôi nghe đến chuyện phải thay thế từ ‘chú’ bằng từ ‘trí’ là trong lòng bỗng phát sinh một sự do dự to lớn. Chúng tôi tra tìm thêm trong nhiều bản dịch của các ngôn ngữ khác thì thấy tiếng nước nào cũng giữ nguyên từ ‘chú’ (mantro, mantraḥ). Bản thân chúng tôi từ khi còn nhỏ, mỗi khi tụng đến đoạn này thì lâu lâu trong lòng cũng vẫn dấy lên một sự ngầm ngầm thắc mắc, vì không hiểu sao trong bản Tâm Kinh này lại có sự xuất hiện của cái từ ‘chú’ ở đây. Cảm nhận mơ hồ của chúng tôi khi còn nhỏ là một cái gì nằm ẩn sâu trong tiềm thức, mình lờ mờ thắc mắc là hình như điều này không có liên quan gì đến trí tuệ Bát Nhã thậm thâm, nhưng qua nhiều năm tháng thì cái thắc mắc ngầm ngầm này đã mờ nhạt đi.
Nhưng nay do bởi chúng tôi nghĩ đến việc phải đối mặt với những người đọc nước ngoài và những phê phán của họ trong tương lai, nên tôi rất ngần ngại khi nghĩ đến chuyện phải thay đổi ở đây. Do đó, chúng tôi có thưa lại với Thượng Tọa Tuệ Hải và quý Cô trong Ban Biên Tập rằng nếu thực sự cần phải thay đổi thì nhất thiết bắt buộc phải tìm cách khéo léo giải thích về sự thay đổi này, nếu không, trong tương lai, khi bài này được dịch qua Anh ngữ và các ngôn ngữ khác, thì sẽ gặp nhiều sự đối chất và phê phán của những người đọc nước ngoài. Đây là do chúng tôi muốn cẩn trọng đối với các pháp thế gian, chứ không vì muốn chống trái với ý nguyện đến từ sự thành tựu tâm linh của Thầy chúng tôi, bởi vì với riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn tin tưởng vào trí tuệ thấu biết của Thầy, và tôi cũng cảm nhận rằng sự thay đổi ở đây sẽ truyền tải được tiếng nói chân thật của nội dung gốc liên quan đến trí tuệ Bát Nhã thậm thâm.
Do bởi trong lần in sách đầu tiên vào năm 2019, chúng tôi chưa truy tìm được gì cả nên đã chỉ chú thích một cách tổng quát dựa trên lời dạy của Thầy chúng tôi. Các chú thích về từ ‘mantro, mantraḥ’ (chú) đã được viết tổng quát như sau
“Từ ‘mantro, mantraḥ’ trước đây thường được dịch là chú chú, chú ngữ, chân ngôn, linh chú, mật chú v.v. […] Nghĩa Phạn gốc của từ này còn có nhĩa là một phương tiện để bảo hộ, chuyển hóa và an phục được tâm.[…] Tuy nhiên, trong bản Việt dịch này, từ ‘trí tuệ’ được sử dụng vì ở đây đang muốn nói đến trí tuệ tối thượng vốn có của tất cả chúng sanh, đồng đẳng với mười phương ba đời Chư Phật. Ở đây là sự Hiển Hiện cảnh giới chân thật của Bát Nhã, là trí tuệ siêu việt vượt ngoài tam giới.” (Trích phần “Chú Thích,” sách TTBNBLMĐ, ấn bản 2019)
Kỳ diệu thay, sau nhiều ngày tra tìm với hy vọng là sẽ khám phá được một điều gì đó trong một bản Phạn gốc, hoặc trong một bản dịch cổ xưa, nói lên được sự tương đồng giữa ngôn ngữ cổ với chân lý vừa được khám phá ở đây nhờ vào sự chỉ dạy của Thượng Tọa Tuệ Hải, thì nhờ ơn Chư Phật từ bi gia hộ mà một chi tiết rất lý thú đã xuất hiện. Tuy đây chỉ là một chi tiết nhỏ, được trình bày một cách minh bạch trong một vài bài nghiên cứu của nhà Phật học Jayarava Attwood, nhưng thật ra chi tiết này đã xác quyết cho sự thông suốt của Thượng Tọa Tuệ Hải về việc phải thay thế chữ ‘chú’ bằng chữ ‘trí’ trong đoạn cuối của bản dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Từ ‘trí’ chứ không phải từ ‘chú’ vốn luôn hiện diện trong Kinh Đại Bát Nhã và Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã
Theo nghiên cứu của Jayarava Attwood thì trong bản Phạn văn còn lưu lại của Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã trong hệ Bát Nhã và trong bản dịch Phạn-Hán của bộ Đại Bát Nhã mà trong truyền thống Phạn ngữ Sanskrit gọi là Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Bát Nhã do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào thế kỷ thứ 4-5 – có một số câu tương tự như trong bài Tinh Túy Bát Nhã – thì trong các bản Kinh đó, thuật ngữ được sử dụng trong các đoạn tương đương là ‘vidyā’ (trí, trí giác) chứ không phải là ‘mantro’ hay ‘mantraḥ’ (chú).
Theo Jayarava Attwood và dựa trên những khám phá của Nattier và Yamabe, có các thí dụ điển hình được nêu ra từ trong các bản Phạn ngữ của bộ Đại Bát Nhã, và chúng tôi xin đơn cử một số ví dụ sau đây. Trong bài mang tên “Epithets of the Mantra in the Heart Sutra” (Tính Ngữ của Câu Chú trong Tâm Kinh), Attwood có giải thích chi tiết và chúng tôi xin tóm lược như sau, và điều này thì hoàn toàn phụ hợp với lý giải của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải cho dù khi Thầy bắt đầu khởi sự hiệu đính và giảng dạy về Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa, Thầy chưa từng dựa vào bất kỳ sự tra cứu nào liên quan đến lịch sử hay cú nghĩa:
“Trong các bản gốc Phạn văn được nhắc đến ở trên, cũng như trong hệ Bát Nhã nói chung thì Bát Nhã Ba La Mật Đa luôn được nhắc đến như là trí tuệ thực tiễn và tuyệt đỉnh, chứ không hề được nhắc đến như là một loại thần chú”.
Ví dụ như trong bản Phạn văn Sanskrit của Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã và dựa trên bản dịch Phạn-Anh của Conze (1973), có một đoạn như sau với sáu tính ngữ mô tả Trí tuệ Bát Nhã:
“Này Kauśika (Kiều Thi Ca), Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là trí (vidyā) lớn, là trí vô lượng, là trí vô tận, là trí vô thượng, là trí vô song, là vô đẳng đẳng trí, là trí không gì có thể sánh.”
Kế tới, dưới đây là một ví dụ của bản dịch Phạn-Hán của Bộ Đại Bát Nhã tức Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Kệ Bát Nhã mà ngài Cưu Ma La Thập dịch, trong đó có một đoạn tương ứng với đoạn kệ trong bản Tâm Kinh hay Tinh Túy Bát Nhã:
“[Śakra, Vua Trời Đế Thích, thưa:] ‘Bạch Thế Tôn, Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí lớn, là trí vô thượng, là trí vô song. Tại sao lại như thế? Bạch Thế Tôn, bởi vì Bát Nhã Ba La Mật Đa có thể đoạn trừ mọi ác pháp và đưa đến mọi thiện pháp. Khi ấy, Đức Phật liền đáp lời Śakra, Vua Trời Đế Thích, như sau: “Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều Thi Ca, Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí lớn, là trí vô thượng, là trí vô song. Tại sao lại như thế? Này Kiều Thi Ca, bởi vì hết thảy Chư Phật trong quá khứ đã thể dụng trí này để đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và hết thảy Chư Phật vị lai, cũng như mười phương Phật, vì có được trí này mà đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”
Tinh thần dịch thuật vượt thoát chuyển tải và làm sáng tỏ ý nghĩa thậm thâm của Kinh
Do có được những thông tin như trên, nên sau đó, trong lần tái bản sách Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa bắt đầu từ đầu năm 2020 trở đi, chúng tôi đã có xin phép Thầy chúng tôi để được chú thích thêm về gốc tích của từ ‘trí’ (vidyā) đến từ các bản Phạn văn trong hệ Bát Nhã như Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã và từ bản dịch Phạn-Hán của bộ Đại Bát Nhã tức Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Kệ Bát Nhã của ngài Cưu Ma La Thập. Thật lành thay, vì điều này hoàn toàn phù hợp với trí tuệ và cái nhìn thấu suốt của Thượng Tọa Tuệ Hải trong khi thiền định về bản Kinh này.
Nhắc đến ngài Cưu Ma La Thập thì ngài không phải người Trung Hoa; ngài là người xứ Từ Quy (Kucha), thông thạo Phạn ngữ và Hoa ngữ. Ngài đã bị giải đưa từ Từ Quy về kinh đô Trường An và được phong làm quốc sư. Sau đó có cả ngàn vị tăng đã phụ ngài trong việc dịch Kinh. Trong sử nói là cách ngài Cưu Ma La Thập dịch Kinh thật rất khác những dịch giả khác. Ngài không dịch từng chữ theo nghĩa đen, mà nhất lòng dịch ý thậm thâm của Kinh vì muốn làm sáng tỏ ý Kinh, luôn so sánh với nguyên bản, và mạnh dạn cắt bỏ khi cần.
Chúng ta có thể đọc thêm một chút để hiểu rõ hơn về cách dịch Kinh của ngài Cưu Ma La Thập:
“Công lớn của ngài Cưu Ma La Thập trước hết là thay đổi phương pháp phiên dịch. Bản thân Sư nói được tiếng Trung Hoa và các cộng sự viên cũng đều là người giỏi Phật giáo và Phạn ngữ. Cách dịch Kinh của Sư như sau: giảng Kinh hai lần từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa, sau đó các tăng sĩ Trung Quốc phải thảo luận và viết lại bằng tiếng Hán. Sau đó Sư lại kiểm soát và so sánh nguyên bản cũng như bản dịch để ra bản chung quyết. Khác với các nhà dịch thuật khác khi tìm cách dịch từng chữ, Sư là người đã đưa ra được nội dung sâu xa của Kinh sách và, nếu thấy cần thiết, cũng mạnh dạn cắt bỏ những đoạn Kinh không hợp và biến đổi văn từ cho hợp với người Trung Quốc.”
Đây cũng chính là chí hướng và phong cách khai phóng theo tinh thần dịch thuật vượt thoát của Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải khi hiệu đính và hoàn thiện bản dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa. Rốt ráo như vậy thì nội dung tinh túy của bản gốc Phạn cũng hoàn toàn thích ứng với cái thấy nhìn trong thiền định của Thượng Tọa Tuệ Hải trong khi hiệu đính và hoàn thiện câu Việt dịch để chúng ta có thể đi đến kết luận như sau:
Vì đây là đoạn kết, đang nói về cảnh giới hoàn toàn vượt thoát của hành giả sau khi đã Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa nên ở đây mới kết luận bằng câu này, để khẳng định về sự siêu vượt của trí tuệ Bát Nhã thậm thâm. Đã gọi là thâm nhập, Hiển Hiện Bát Nhã thì chẳng còn lý do gì phải tụng ‘chú’ để bảo hộ tâm mình ở đoạn cuối này nữa. Như vậy, nếu đặt từ ‘chú’ vào ngay đây như các bản dịch từ trước đến nay khi tán thán Bát Nhã Ba La Mật Đa là bốn loại ‘chú’ siêu tuyệt (‘đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú’) thì hóa ra đó sẽ trở thành ra là một sự áp đặt gượng ép, không thích hợp với ngữ cảnh của đoạn kết này.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ chứ không nói tới chuyện khác nữa. Một người có đầy đủ trí tuệ siêu xuất thì mới có thể thâm nhập Bát Nhã.[…] Nói tới Bát Nhã là phải nói tới trí tuệ, và nói tới trí tuệ là nói tới Bát Nhã, vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Khi chúng ta ở trong cảnh giới Bát Nhã thì trí tuệ chúng ta trùm khắp pháp giới mười phương, và tất cả mọi cảnh giới đều hiện ra trong trí tuệ này.Trong khoảnh khắc chúng ta tan biến thành Bát Nhã, hòa nhập trong cảnh giới Bát Nhã hoặc hiển hiện trong cảnh giới Bát Nhã thì lúc đó trí tuệ hiện tiền viên mãn. Trí tuệ đó thông thấu toàn bộ pháp giới này một lượt; tất cả những gì có trong pháp giới này một lượt hiện ra.” (trang 148)
“Cho nên Bát Nhã chính là trí tuệ, là đại trí tuệ, là đại giác […] vì không có chỗ giác ngộ nào của Chư Phật mười phương mà không hiện trong Bát Nhã này. Khi Bát Nhã Hiển Hiện rồi, thì tất cả sở chứng sở đắc của Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thanh Văn, Chư Vị Thánh Hiền khắp pháp giới này đều hiện một lượt trong Bát Nhã. Vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Ở đây khẳng định là trí tuệ này vô biên không có ngằn mé, là trí tuệ vô song, là trí tuệ vô thượng không có gì có thể so sánh bằng. Đây chính là trí tuệ tối thượng, là chỗ giác ngộ tận cùng của Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Vị Thánh Hiền. Đó là vô thượng trí, là vô đẳng đẳng trí, không trí nào có thể hơn trí này, không trí nào có thể rõ thông hơn trí này, không trí nào có thể so sánh với trí này.” (trang 152)
BTN 12. prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ tadyathā và cảnh giới chân thật của bậc tu chứng đã đạt đạo khi thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa
Nghĩa đen: Thuyết về Bát Nhã Ba La Mật Đa là câu chú/câu chân ngôn như sau
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Cho nên, thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện cảnh giới chân thật
* Tóm tắt: Câu chú/câu chân ngôn (mantraḥ) được thay thế bằng cụm từ Hiển Hiện Cảnh Giới Chân Thật’ ngụ ý muốn nói lên cảnh giới hoàn toàn vượt thoát, y như câu kết thúc muốn nói, là sự vượt thoát toàn triệt nay hiện tiền này, là ‘vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộ viên mãn, ta bà ha.’ Người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa phải không rời cảnh giới chân thật để mà thuyết và thuyết về cảnh giới chân thật chính là thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa.
“Thuyết có nghĩa là đang hiện bày Bát Nhã Ba La Mật Đa, đem Bát Nhã Ba La Mật Đa tặng cho mình. Cho nên nếu mình muốn đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa thì mình cũng phải ở cảnh giới chân thật để đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ mình ở cảnh giới khác thì không đủ sức để đón nhận được.” (TTKTTH – Xem thêm các lý giải trang 168-173)
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không rời cảnh giới chân thật để mà thuyết, cho nên người muốn nghe được Bát Nhã Ba La Mật Đa thì cũng phải ở cảnh giới chân thật mới có thể thấu suốt được Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là một câu kết và cũng là một vị thuốc rất quý, ai uống vô cũng được lợi ích.
Cho nên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện cảnh giới chân thật, người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không rời cảnh giới chân thật và thuyết cảnh giới chân thật chính là thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa. “Thuyết” có nghĩa là đang hiện bày Bát Nhã Ba La Mật Đa, đem Bát Nhã Ba La Mật Đa tặng cho mình. Cho nên nếu mình muốn đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa thì mình cũng phải ở cảnh giới chân thật để đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ mình ở cảnh giới khác thì không đủ sức để đón nhận được. Đó là một câu kết tuyệt vời trên tất cả tuyệt vời từ trước tới giờ. Một câu kết mà có thể đổi cả núi kim cương cũng không đổi. Một câu kết tuyệt trong tất cả cái tuyệt! Chúng tôi không muốn kết luận bằng một câu ‘chú’ nào ở đây, mà phải thay thế bằng một câu kết đúng tầm, xứng tầm với Bát Nhã. Không thể nào có một câu nào hơn!
Vì “thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện cảnh giới chân thật.” Cảnh giới chân thật chính là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Người nói Bát Nhã Ba La Mật Đa phải ở trong cảnh giới chân thật mà nói, rời cảnh giới chân thật thì không đủ tầm để có thể nói Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bây giờ thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện cảnh giới chân thật. Cho nên người nghe Bát Nhã Ba La Mật Đa, muốn tan biến thành Bát Nhã Ba La Mật Đa, muốn Hiển Hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa thì cũng phải trở về cảnh giới chân thật và cảnh giới chân thật đó chính là hiện tiền này. Đó là cảnh giới của Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đó là Đức Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa mà không có thuyết, vì Hiển Hiện cảnh giới chân thật là vô ngôn, là cảnh giới tuyệt đối giác ngộ, đó được gọi là thuyết Bát Nhã.
Vậy từ ngàn xưa các vị ấy thuyết Bát Nhã thì bây giờ có thuyết không? Bây giờ vẫn đang thuyết và mãi mãi về sau Bát Nhã vẫn đang được thuyết trong cõi trần này. Bát Nhã là cảnh giới chân thật lúc nào cũng hiện tiền. Từ ngàn xưa là cảnh giới chân thật hiện tiền, bây giờ cũng là cảnh giới chân thật hiện tiền và mãi mãi về sau cũng là cảnh giới chân thật hiện tiền. Nếu tất cả chúng ta đều hiện tiền trong cảnh giới chân thật, có nghĩa là chúng ta hòa nhập trong Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng có nghĩa là mình đang thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ không phải là Đức Phật thuyết hay Bồ Tát thuyết, không phải là chúng sanh thuyết mà tất cả pháp giới đều thuyết. Tất cả những hiện tiền này đều là hiện tiền của Bát Nhã, cho nên hiện tiền thuyết Bát Nhã là hiện tiền chân thật. Đây là một câu kết không gì có thể hơn, đủ để có thể kính lễ, cúi đầu trân trọng trước Bát Nhã!
“Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiện cảnh giới chân thật”, tuy nghe thì rất là thường nhưng khi hiểu hết câu này rồi, thì máu có thể sôi lên đến tan người chứ không còn cái khác nữa! Vì không ở cảnh giới chân thật thì không thể thuyết được Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là cảnh giới chân thật, cho nên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chính là cảnh giới chân thật. Cảnh giới chân thật chính là hiện hữu, hiện hữu ở đây chính là Bát Nhã. Như vậy mỗi hiện hữu đều là hiện hữu của Bát Nhã, mỗi pháp đều thuyết Bát Nhã, mỗi hiện tiền đều là Bát Nhã, đều là đang thuyết Bát Nhã, đều là Hiển Hiện cảnh giới chân thật. Quá tuyệt vời! Một câu kết của Bát Nhã không thể nào hơn.
BTN 13. gate gate pāragate pārasaṁgate bodhi svāhā – thì quá khứ phân cách của động từ ‘gate’ là một kết luận khẳng định về một bậc tu chứng đã đạt đạo chứ không phải là một câu thần chú hay một lời khuyến tấn
Nghĩa đen: Đã vượt qua, đã vượt qua, đã vượt qua đến bờ kia, đã hoàn toàn vượt qua đến bờ kia, giác ngộ, vui thay!
Bản dịch TTBNBLMĐ: Vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộ viên mãn, ta bà ha
* Tóm tắt: Do ‘gate’ trong Phạn ngữ Sanskrit là thì quá khứ phân cách, nên câu này, rốt ráo là một câu kết thúc, tóm tắt cảnh giới ‘đã’ hoàn toàn vượt thoát của Đức Quán Tự Tại hay của một hành giả tu chứng ‘đã’ đạt đến giác ngộ viên mãn, chứ không phải là một câu khuyến tấn hành giả ‘hãy vượt qua’ như thường được diễn dịch trong quá khứ. Chữ “rồi” trong câu này cốt ý để nhấn mạnh đây là thì quá khứ, là hành giả đã thành tựu rồi, là việc cần làm đã làm xong. Theo chủ trương của TT. Thích Tuệ Hải, câu này được Việt hóa hoàn toàn như một câu kết luận ở cuối bản Kinh chứ không còn phải trong hình thức một câu ‘thần chú’ nữa.(Xem thêm sách TTBNBLMĐ, trang 175)
Khi chúng ta tìm hiểu sâu về câu trên, một câu mà trong quá khứ đều được mọi người xem như là câu ‘chú’ của bản Kinh Tinh Túy Bát Nhã, chúng ta sẽ thấy ra một điều rất lý thú. Nương vào sự gia trì của Chư Phật mà sự khám phá mới mẻ trong Phạn ngữ về câu này có thể giúp chúng ta đi đến một kết luận vô cùng vững chắc.
Yết đế, yết đế… và các câu được xem là câu ‘chú’ đều có ý nghĩa, có thể được dịch thành nghĩa hoặcViệt hóa một cách minh bạch
Thật ra, trên thực tế, trong các câu thiện chú hay các bài tổng trì, ngoại trừ một số chủng tự hoặc âm tự được xem là là diệu âm, là âm thanh của Chư Phật, của pháp giới, vàthậm chí ngay cả trong những câu ác chú, thì các từ chữ trong các câu ‘chú’ hay các bài tổng trì nói chung đều có ý nghĩa nhất định. Chúng ta có thể dịch nghĩa và đọc nghĩa của các câu ấy một cách bình thường, chứ không có gì là bí ẩn mà không được phép dịch qua ngôn ngữ của mình cả. Do các câu chú được xem như là những chân ngôn để bảo hộ tâm, nên bản thân chúng tôi trước nay vẫn luôn ủng hộ việc giải nghĩa các câu ‘chú’ để người trì có thể hiểu được ý nghĩa tích cực và rõ biết mình đang trì những gì.
Yết đế, yết đế… là phân từ quá khứ ám chỉ một sự việc đã thành tựu rồi chứ không phải là một câu khuyến tấn
Nhưng có một điều thực sự tuyệt vời hơn nữa đã hiện đến khi chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về từ gate (yết đế) này. Đó là khi đọc kỹ để đối chiếu với cách dịch nghĩa của các bản dịch Anh ngữ, Pháp ngữ, so với phiên bản Horyu-ji, và các bản theo truyền thống Nepal và Tây Tạng, thì chúng tôi đã nhận xét thấy rằng gần như tất cả các bản dịch đều đã dùng đạng thì quá khứ để dịch các từ gốc gate, gate, pāragate và pārasaṁgate (yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế).
Và rồi theo đúng như ý nguyện và chí hướng khai phóng của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải khi muốn Việt hóa hoàn toàn, làm mới, cũng như nâng tầm tâm linh của bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên từ đó về sau, toàn bộ câu mà trước đây được xem như là một câu chú: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha,” thì bây giờ đã được thay thế trọn vẹn bằng câu kết luận mô tả cảnh giới hoàn toàn vượt thoát (chứ không mang hình thức của một câu ‘chú’ nữa) bằng ngữ nghĩa thuần Việt:
“Vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộ viên mãn, ta bà ha.”
BTN 14. iti prajñāpāramitāyām hṛdayaṃ samāptaṃ và sự viên thành của trí tuệ Bát Nhã Hiện Tiền
Nghĩa đen:
Bản dịch TTBNBLMĐ:
* Tóm tắt: Câu này trước đây được dịch là “Tinh túy Bát Nhã Ba La Mật Đa kết thúc ở đây,” ngụ ý rằng đây là câu kết thúc bản Kinh văn. Nhưng do samāptaṃ là một phân từ quá khứ bị động nên một cách diễn đạt khác là đối với một hành giả tu chứng thì Trí tuệ Bát Nhã đã viên thành y như những gì đã được mô tả ở các đoạn trên, nên câu này cũng có thể dịch là “Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa đã viên thành như thế.”
Lời cuối, xin cho con được kính lễ thâm ân công ơn giáo hóa muôn một của Sư Phụ Trụ Trì Chùa Long Hương – Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, cũng như kính ơn Sư Phụ đã từ bi gia trì, hộ niệm để chúng con được phép ghi chép lại những lời này, lưu lại thành một tài liệu lịch sử và tham khảo, và con xin được thành tâm sám hối mọi lỗi lầm và sai sót do thiểu trí.
Đặc biệt là chúng con xin được mạo muội kính chia sẻ các thông tin trên đây lên trên Chư vị Tôn Túc, Chư hành giả, Chư học giả, Chư dịch giả trong lĩnh vực Phật học; ngưỡng mong Chư vị hoan hỷ quán xét và chỉ dạy thêm.
Nguyện mong tất cả mọi người trong mọi tầng lớp, tất cả những ai hữu duyên, đều nhận ra được chân giá trị từ bản Việt dịch Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa theo tinh thần dịch thuật vượt thoát mà Bậc Thầy tôn kính của chúng con đã đem hết tâm huyết ra để hiệu đính, hoàn thiện và làm cho lan tỏa, với tâm nguyện làm mới hoàn toàn và Việt hóa hoàn toàn bản Bát Nhã Tâm Kinh để góp phần xây dựng cho trang lịch sử Đại Thừa Phật Giáo Việt Nam.
Hơn thế nữa, sự cống hiến này của Thầy đã đến từ tâm huyết của trọn một đời gian khó trải mình cho tu tập. Tâm nguyện của Thầy chúng con là muốn nâng tầm Bát Nhã Tâm Kinh lên một tầng tâm linh siêu vượt, một tầng chuyên môn của bậc tu chứng, để làm thành một nét son trong lịch sử Phật Giáo, không chỉ cho Việt Nam mà còn cho toàn thế giới. Do bởi Bát Nhã Tâm Kinh cần được đặt trở lại vào đúng vị trí của nó, để Bát Nhã Tâm Kinh có thể nói lên được trọn vẹn tinh thần giác ngộ giải thoát tuyệt đối của Phật đạo, để Bát Nhã Tâm Kinh không chỉ thuần túy là một bản Kinh nặng về lý thuyết với các luận cứ phủ định, mà rốt ráo sẽ đem đến được lợi lạc đích thực, khai thông được năng lực giác ngộ vốn vô tận vô biên, vốn viên mãn, vốn sẵn đủ nơi mỗi người.
Một số nguồn của các dị bản Bát Nhã Tâm Kinh bằng Phạn ngữ Sanskrit:
1. Thư Viện Đại Học Viện Oxford (Anh quốc, 1884). Nguyên bản Phạn (hệ chữ viết Devanagari)(trang1819): http://www.downloads.prajnaquest.fr/BookofDzyan/Sanskrit%20Buddhist%20Texts/prajnaparamita_hrdaya_and_usnisa_vijaya_1884.pdf
[1] Eng Jin Ooi là Nghiên cứu sinh tiến sĩ thuộc Đại học Mahidol, Thái Lan, chuyên ngành Phạn-Pali Cao Đẳng Phật Học (2019-2020), và hiện tại (2022) là Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, Đại học Chulalongkorn, Thái Lan, chuyên ngành Ngôn ngữ Nam Á.
Ratna Siddhārtha Dhyāna hiện tại (2022) là Nghiên cứu sinh tiến sĩ thuộc Đại học UCLouvain, Vương quốc Bỉ, chuyên ngành Ngôn ngữ, Văn học và Dịch thuật.
[1] Các câu viết chữ nghiêng đậm trong danh sách là Phạn văn Sanskrit trong bản lá cọ Horyu-ji. Các câu viết chữ thẳng đậm là các câu do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải hiệu đính và hoàn thiện trong bản Kinh Tinh Túy Bát Nhã. Các câu trích dịch trong các phần mở ngoặc (thay vì:…) là trích từ các bản âm Hán/Hán-Việt dựa trên: phiên bản âm Hán văn ngắn và phổ biến của Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang; phiên bản Hán văn ngắn do Ngài Bukong (Bất Không Kim Cương-Amoghavajra) hiệu đính, tìm thấy trong động Đôn Hoàng; các bản Việt dịch của Chư Ôn Cố Lão Hòa Thượng: Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Nhất Hạnh (bản cũ), Thích Thiện Hoa; cũng như bản Việt dịch dài theo truyền thừa Tây Tạng của Hồng Như Thubten Munsel.
[1] Bản ngắn theo truyền thống Trung Hoa và Việt Nam. Riêng bản dài theo truyền thống Tây Tạng và Nepal có thể được tìm thấy tại trang nhà: Digital Sanskrit Buddhist Cannon (www.dsbcproject.org)
[1] Đặc biệt là các bài dịch từ bản gốc Phạn qua Anh của Tỳ Kheo Anandajoti Bhikhhu, Edward Conze, Red Pine, và Theosophical University Press; bản dịch từ Phạn qua Việt của TS Thế Dân; từ Hoa qua Anh của Chung Tai, từ Nhật qua Anh của Andrew May, từ Tạng qua Anh của Geshe Thupten Jinpa và từ Anh qua Việt của Đỗ Hoàng Duyệt và Hồng Như; các bài khảo cứu từ bản Phạn gốc trên trang Đạo Phật Ngày Nay, Jayaraya’s Raves và Sunyata GL, một số trang mạng và các tự điển Phạn-Việt và tự điển Phạn-Anh.
[1] Lopez, Introduction, trang 13
[1] Trong bản Việt dịch được phổ biến lâu nay, câu này được Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch là “Diệu lý của Chư Phật chẳng có quan hệ đến văn tự.” Trong bản dịch Anh ngữ của Pine, câu này là như sau: “The profound truths of the buddhas don’t depend on the words.” (Pine, 2006; trang 121). Đoạn này trích dịch từ bản dịch Hán-Anh có tên The Platform Sutra: The Zen Teachings of Hui-Neng, Phần I (Đoạn 1-11). Theo Pine thì đây không phải là Shaochou (Thiều Châu) mà chính là Shaokuan (Thiều Quang) tức là trên đường Ngài đi về hướng bắc, chứ không phải hướng nam như trong sử thường ghi (?). Thiều Quang là nơi hiện còn lưu lại nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng.
[1] Tanahashi, trang 68-69
[1] Pine, trang 71
[1] Cũng xin nói thêm là vào khoảng năm 2020, một thời gian sau khi Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa đã ra đời, chúng tôi có đọc được một bài luận giải của Jayarava Attwood, The True History of the Heart Sutra, III (trên trang jayarava.blogspot.com). Trong đó ông cũng đã lập luận rằng Tâm Kinh đang mô tả cảnh giới tan biến thành Không của người tu chứng. Đến đầu năm 2022, chúng tôi cũng lại đọc được tài liệu giảng về Tâm Kinh của Đạo sư Taranatha danh tiếng (tk 16-17), thì mới hay ra là truyền thống ‘Shentong’ (Tha Không – Pháp tánh) của Phật Giáo Tây Tạng cũng đã từng dạy về Tâm Kinh như là một kinh nghiệm thể nhập Pháp tánh hay Chân không diệu hữu, nhưng trong quá khứ, giáo lý này đã bị ếm nhẹm trong thời kỳ độc tôn của dòng Gelug bởi các vấn đề chính trị và cũng do bởi dòng Gelug luôn ủng hộ ‘Rangtong’ (Tự Không) và muốn bảo vệ giáo lý phủ định của‘sự không có tự tánh độc lập,’ cho đây là giáo lý chính yếu và duy nhất của Tâm Kinh. Thêm vào đó, trong một buổi lược giảng về Tâm Kinh vào năm 2022 trên mạng trực tuyến, Trưởng Lão Garchen Rinpoche dòng Drikung Kagyu Phật Giáo Tây Tạng (https://www.youtube.com/watch?v=L_nD56IUID0), là một dòng truyền thừa chú trọng về Thiền Đại Thủ Ấn và các thực hành du già, cũng đã khẳng định rằng Tâm Kinh đang mô tả kinh nghiệm thâm nhập cảnh giới Không của một bậc tu chứng. Hiện nay dòng Karma Kagyu và dòng Jonang của Phật Giáo Tây Tạng vẫn tiếp tục giảng dạy về ‘Shentong’ để bổ sung cho ‘Rangtong.” Xin tìm hiểu sơ lược qua các thông tin trên các trang như sau: https://en.wikipedia.org/wiki/Rangtong_and_shentong; hoặc trang https://encyclopediaofbuddhism.org/wiki/Rangtong_and_Shentong_-_Rime_Approach; hoặc qua
tài liệu của Khenchen Thrangu Rinpoche:https://thuvienhoasen.org/a20844/6-truong-phai-trung-dao.
[1] Cả hai bản dịch Anh ngữ sau đây cũng đều chuyển dịch theo nghĩa ‘không nhơ, không nhiễm’ (amalā + avimalā). Đó là: phiên bản do Vaidya, P.L. hiệu đính trích trong Nhiếp Đại Thừa Kinh (Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ/Digital Sanskrit Buddhist Canon) thuộc Đại học viện University of the West, đã được Eng Jin Ooi dịch và chú giải (2017), và phiên bản đã được hiệu đính trong Appendices: Recession B do Johnathan Silk dịch theo truyền thống Tây Tạng (Wien: Universität Wien, 1994)
[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Cưu-ma-la-thập
- Từ khóa :
- tinh túy
- ,
- Bát Nhã
- ,
- Ba La Mật Đa
- ,
- Thích Tuệ Hải
- ,
- Hiệu Đính
- ,
- Hoàn Thiện
- ,
- Lý giải