Kinh Buông Bỏ Ân Ái

14/04/201112:00 SA(Xem: 21506)
Kinh Buông Bỏ Ân Ái

ĐẠO BỤT NGUYÊN CHẤT - KINH NGHĨA TÚC
Thích Nhất Hạnh
Đạo Tràng Mai Thôn 2011

Kinh Buông Bỏ Ân Ái
(Lão Thiếu Câu Tử Kinh)
Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ sáu, Đại Tạng Tân Tu 198
tương đương với Jarà Sutta, Sutta-Nipàta 804-813

 

Bối Cảnh

Đây là kinh Lão Thiếu Câu Tử. Lão Thiếu Câu Tử nghĩa là già cũng chết trẻ cũng chết. Khung cảnh dựng lên: Bụt đang ở nước Vatsa (cũng là Kiều Thường Di, Kausambi). Một hôm cùng với thầy A Nan vào thành phố khất thực, Bụt thấy nhiều phụ nữ xõa tóc khóc than vì người thân của họ mới qua đời. Có người một trăm hai mươi tuổi mới chết. Nhưng có em lại mới lên bảy tuổi mà đã chết. Thấy sự xót thương ấy Bụt nói kinh này.

 

1. Kiếp người rất ngắn ngủi
Chưa tới một trăm năm
Dù có hơn trăm năm
Cũng không sao khỏi chết.

2. Lạc thú sinh lo lắng
Ân ái sợ vô thường
Yêu nhau hay ghét nhau, rốt cuộc rồi cũng phải xa
nhau.
Thấy vậy cho nên có người không còn ưa thích sống đời lứa đôi.

3. Không có gì mà cơn lũ của cái chết không cuốn theo nó. Những gì ta ham muốn ngày xưa, những gì mà ta trân quý như một cái ta, nếu lấy trí tuệ quán chiếu để tìm ra sự thật ta sẽ thấy rằng cái này không phải là ta, và ta không phải là cái này.

4. Những lạc thú của cuộc đời cũng giống như những gì ta thấy trong một giấc mơ. Thức dậy rồi thì không còn thấy gì nữa. Những gì mà người đời đang tham cầu cũng thế. Một khi tâm thức hết biểu hiện thì còn có gì nữa đâu?

5. Tên tuổi người ấy ta còn nghe, nhưng người ấy đã đi rồi. Người ấy dễ thương hay không dễ thương, bây giờ ta cũng không trông thấy nữa. Người ấy đã rời bỏ cuộc đời, người ấy đã đi về đâu? Thần thức đã đi, chỉ có cái tên còn ở lại.

6. Buồn giận nhau, yêu thương nhau, rồi ghen ghét nhau. Người ta không buông bỏ được cái vướng mắc vào tham ái. Bậc trí giả biết vậy cho nên buông bỏ ân ái. Lìa xa được sự sợ hãi và đạt tới cõi an lành.

7. Vị khất sĩ phải sống với sự thực, đừng đánh mất chánh niệm. Phải xa lìa ái dục, biết rằng hình hài này thế nào cũng có ngày hủy diệt. Phải thực tập đừng đuổi theo những đối tượng sắc dục. Phải quán chiếu tâm ý trong tâm ý. Trên con đường tìm cầu chân lý, đừng dừng lại bất cứ ở đâu.

8. Không dừng lại cũng là pháp môn hành trì của các bậc tôn đức. Cái thương, cái ghét, cái tỵ hiềm, cái buồn và cái lo không động được tới mình. Như những giọt nước rơi xuống không giọt nào dính vào được đóa sen.

9. Không vướng mắc, cũng không trông cầu. Những gì thấy và nghe có tính cách bất chính ta không ái trước. Cả đến cái giải thoát mà ta cũng không tìm cầu thì ta còn tìm cầu gì những cái ô nhiễm?

10. Không vướng vào tham ái, (trong sáng) như một đóa sen. Tuy mọc lên từ bùn nhưng bùn không động tới được. Bậc tôn quý trên đời cũng hành xử như thế. Những gì nghe và thấy cũng giống như những gì chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe.


Đại Ý

Kinh này nói tới cái lo và cái sợ. Dù mình đang hưởng thọ lạc thú, mình cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai mình còn giữ được cái ngày hôm nay không. Dù mình đang có ân ái, mình cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai người thương của mình có còn hay không. Nhìn cho kỹ thì đối tượng của lạc thú cũng như đối tượng của yêu thương đều là vô thường, còn đó rồi mất đó như một giấc mơ. Khi người mà ta thương yêu không còn đó nữa, thì dù ta có khóc thương cách mấy người ấy cũng không sống lại được.

Các vị khất sĩ phải buông bỏ ân ái, đi như một con người tự do, đừng để bất cứ một hình ảnh hay một âm thanh làm vướng bận. Đừng đuổi theo một đối tượng ái dục. Trên con đường đi tới giải thoát không nên dừng lại vì một đối tượng ân ái, dù chỉ là trong khoảnh khắc. Đừng để cái thương, cái ghét, cái buồn, cái lo đụng tới mình. Chính cái giải thoát mà ta cũng không bị vướng mắc vào thì tại sao ta để cho ta vướng mắc vào những cái ô nhiễm?

 

Bài kệ 1
Thị thân mạng thậm đoản 是 身 命 甚 短
Giảm bách niên diệc tử 減 百 年 亦 死
Tuy hữu quá bách niên 雖 有 過 百 年
Lão tùng hà ly tử 老 從 何 離 死


Bài kệ 2
Tọa khả ý sanh ưu 坐 可 意 生 憂
Hữu ái tùng đắc thường 有 愛 從 得 常
Ái tăng tất đương biệt 愛 憎 悉 當 別
Kiến thị mạc lạc gia 見 是 莫 樂 家


Bài kệ 3
Tử hải vô sở bất phiêu 死 海 無 所 不 漂
Túc sở tham ái hữu ngã 宿 所 貪 愛 有 我
Tuệ nguyện quán đế kế thị 慧 願 觀 諦 計 是
Thị vô ngã ngã vô thị 是 無 我 我 無 是


Bài kệ 4
Thị thế lạc như kiến mộng 是 世 樂 如 見 夢
Hữu thức ngụ diệc hà kiến 有 識 寤 亦 何 見
Hữu tham thế tất diệc nhĩ 有 貪 世 悉 亦 爾
Thức chuyển diệt diệc hà kiến 識 轉 滅 亦 何 見


Bài kệ 5
Văn thị bỉ tất dĩ khứ 聞 是 彼 悉 已 去
Thiện diệc ác kim bất kiến 善 亦 惡 今 不 見
Tất xả thế đáo hà sở 悉 捨 世 到 何 所
Thức thần khứ đãn danh tại 識 神 去 但 名 在


Bài kệ 6
Ký bi ưu chuyển tướng tật 既 悲 憂 轉 相 嫉
Phục bất xả tham trước ái 復 不 捨 貪 著 愛
Tôn cố đoạn ái khí khả 尊 故 斷 愛 棄 可
Viễn khủng bố kiến an xứ 遠 恐 怖 見 安 處


Bài kệ 7
Tỳ-kheo đế mạc vọng niệm 比 丘 諦 莫 妄 念
Dục khả viễn thân thả hoại 欲 可 遠 身 且 壞
Dục hành chỉ ý quán ý 欲 行 止 意 觀 意
Dĩ thùy đế vô chỉ xứ 已 垂 諦 無 止 處


Bài kệ 8
Vô chỉ giả diệc tôn hành 無 止 者 亦 尊 行
Ái bất ái diệc tật hành 愛 不 愛 亦 嫉 行
Tại bi ưu diệc tật hành 在 悲 憂 亦 嫉 行
Vô nhu triêm như liên hoa 無 濡 沾 如 蓮 華

Bài kệ 9
Dĩ bất trước diệc bất vọng 已 不 著 亦 不 望
Kiến văn tà ngô bất ái 見 聞 邪 吾 不 愛
Diệc bất tùng cầu giải thoát 亦 不 從 求 解 脫
Bất ô dâm diệc hà tham 不 污 婬 亦 何 貪


Bài kệ 10
Bất tướng tham như liên hoa 不 相 貪 如 蓮 華
Sanh tại thủy thủy bất ô 生 在 水 水 不 汙
Tôn cập thế diệc nhĩ hành 尊 及 世 亦 爾 行
Sở văn kiến như vị sanh 所 聞 見 如 未 生

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.