- Mục Lục
- Lời Nói Đầu
- Quyển Thứ Nhất
- Quyển Thứ Hai
- Quyển Thứ Ba
- Quyển Thứ Tư
- Quyển Thứ Năm
- Quyển Thứ Sáu
- Quyển Thứ Bảy
- Quyển Thứ Tám
- Quyển Thứ Chín
- Quyển Thứ Mười
- Quyển Thứ Mười Một
- Quyển Thứ Mười Hai
- Quyển Thứ Mười Ba
- Quyển Thứ Mười Bốn
- Quyển Thứ Mười Lăm
- Quyển Thứ Mười Sáu
- Quyển Thứ Mười Bảy
- Quyển Thứ Mười Tám
- Quyển Thứ Mười Chín
- Quyển Thứ Hai Mươi
- Quyển Thứ Hai Mươi Mốt
- Quyển Thứ Hai Mươi Hai
- Quyển Thứ Hai Mươi Ba
- Quyển Thứ Hai Mươi Bốn
- Quyển Thứ Hai Mươi Lăm
- Quyển Thứ Hai Mươi Sáu
- Quyển Thứ Hai Mươi Bảy
- Quyển Thứ Hai Mươi Tám
- Quyển Thứ Hai Mươi Chín
- Quyển Thứ Ba Mươi
- Quyển Thứ Ba Mươi Mốt
- Quyển Thứ Ba Mươi Hai
- Quyển Thứ Ba Mươi Ba
- Quyển Thứ Ba Mươi Bốn
- Quyển Thứ Ba Mươi Lăm
- Quyển Thứ Ba Mươi Sáu
- Quyển Thứ Ba Mươi Bảy
- Quyển Thứ Ba Mươi Tám
- Quyển Thứ Ba Mươi Chín
- Quyển Thứ Bốn Mươi
Đại Tạng Số
1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc cùng
Sa môn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt
Quyển Thứ Ba Mươi Hai
NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ MƯỜI
PHÉP ĂN CHUNG.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo cùng ăn chung bị người đời chê cười rằng:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà ngồi ăn chung giống như những kẻ dâm dật ở thế gian?
Cho đến Phật bảo gọi
nhóm sáu Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các ông có việc đó
thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép cùng ăn chung. Cùng ăn chung nghĩa là cùng ăn một bát. Còn thức
ăn thì có 5 món ăn chính và 5 món ăn linh tinh nên đựng riêng ra mà ăn. Nếu
không có bát thì nên dùng tô, chén để đựng. Nếu cũng không có tô, chén thì nên
vò cơm thành viên bỏ trong bàn tay trái, dùng tay phải bốc ăn. Nếu cũng không
thể được thì nên đặt bát trên cỏ, lá, rồi cùng bốc ăn. (485c) Không được dùng tay
bốc ăn chung 5 thức ăn chính và 5 thức ăn tạp. Nhưng nếu là bột, bánh, rau,
trái thì cùng ăn chung không có tội. Nếu cùng ăn chung trong một bát thì phạm
tội Việt tỳ ni.
Đó là phép cùng ăn
chung.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, đức Như Lai vì 5 sự lợi ích nên cứ 5 hôm đi thị sát phòng các
Tỉ-kheo một lần. Thấy bàn ăn trong phòng của Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà được vẽ nhiều
màu sắc, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo:
- Cái bàn ăn này của ai
mà được vẽ nhiều màu sắc thế này?
- Bạch Thế Tôn! Đó là
bàn ăn của Nan-đà, Ưu Ba Nan-đà.
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn trên bàn ăn.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, đức Như Lai vì 5 sự lợi ích nên cứ 5 hôm đi thị sát phòng
các Tỉ-kheo một lần. Thấy một Tỉ-kheo bị mụt nhọt ở tay, tuy biết nhưng Phật
vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Ông có
được điều hòa, an lạc không?
- Bạch Thế Tôn! Con bị
mụt nhọt ở tay khiến bát bị vỡ mà Thế Tôn chế giới không cho ăn trên bàn nên
không được an vui.
- Từ nay Ta cho phép
Tỉ-kheo bệnh được ăn trên bàn nhưng không cho phép vẽ trên bàn nhiều màu sắc.
Nếu bàn ăn của Tăng vẽ
nhiều màu sắc thì không có tội.
Nếu là bàn riêng thì
chỉ nên dùng một màu. Tỉ-kheo bệnh ăn trên bàn, trước hết nên đứng chú tâm
tưởng niệm rồi ăn thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo không có
bệnh thì hoàn toàn không cho ăn trên bàn.
Nếu vì già bệnh, hoặc
mụt nhọt trên tay ra máu, hoặc bát nặng, hoặc đầy, hoặc nóng, hoặc lạnh thì
được ăn trên bàn không có tội. Nhưng nếu Tỉ-kheo không bệnh mà ăn trên bàn thì
phạm tội Việt tỳ ni. Đó gọi là phép ăn trên bàn.
Kệ tóm tắt:
Ăn tỏi và phú bát
Kết khuy cùng đai lưng
Ngồi xe, ngựa, ngồi chung
Ngồi cùng giường, ăn chung,
Bàn ăn nhiều màu sắc
Kết thúc phần thứ tám.
VÌ MÌNH MÀ NGƯỜI TA GIẾT SÚC VẬT.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đi du hành phương xa rồi trở về thành
Xá-vệ. Đến giờ khất thực, họ khoác y, cầm bát đi vào một nhà đàn việt quen biết
cũ tên là A Bạt Tra. Đàn việt thấy thầy liền chào:
- Chào sư phụ! Vì sao
mà đã lâu lắm không thấy sư phụ đến?
- Này lão trượng! Đã
lâu ngày tôi mới đến, vậy ông định đãi tôi món ngon vật lạ gì đây?
- Ngày mai con sẽ cúng
dường trai phạn cho thầy!
- Ông đừng có cúng thức
ăn của bọn thợ dệt.
- Thức ăn của thợ dệt
là thứ gì?
- Tức là cơm hẩm, canh
đậu đó!
- Con không cúng cơm
hẩm, canh đậu cho thầy đâu, mà sẽ cúng cơm thịt.
- Ông đừng có cúng cho
tôi thịt nguội.
- Con sẽ không cúng
thịt nguội cho thầy, (486a) mà sẽ nấu nóng rồi mới cúng.
- Tôi nói thịt nóng
không phải kiểu nóng như vậy.
- Vậy thì nóng như thế
nào?
- Nghĩa là thịt của con
vật vừa mới chết.
- Nếu thầy muốn như vậy
thì ngày mai hãy đến sớm, con sẽ giết con vật trước mặt thầy rồi mới nấu nóng.
- Vâng.
Sáng sớm hôm sau, họ
khoác y, cầm bát đi đến nhà ấy, đàn việt bèn đem dê, heo, gà ra để la liệt
trước mặt Tỉ-kheo, rồi giết thịt cúng dường. Khi ăn xong họ ra về, đàn việt chê
trách:
- Sa-môn Cù Đàm dùng vô
số phương tiện chỉ trích việc sát sinh, ca ngợi không sát sinh, vậy mà vị
Sa-môn này bảo người ta giết ngay trước mắt thì có khác gì mình tự giết!
Các Tỉ-kheo đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi,
Phật liền hỏi:
- Này các Tỉ-kheo! Các
ông có việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Này các Tỉ-kheo! Đó
là việc ác. (cho đến Phật nói) Vì sao các ông bảo người ta sát sinh ngay trước
mặt? Từ nay về sau, Ta không cho phép thí chủ vì mình mà sát sinh. Vì mình mà
sát sinh tức là vì Tỉ-kheo mà giết súc vật. Nếu thí chủ vì Tỉ-kheo mà giết súc
vật thì tất cả Tỉ-kheo, Tỉ-kheo ni, Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di đều không được ăn. Cũng vậy, nếu họ vì Ưu bà di mà giết hại thì tất cả
Tỉ-kheo không được ăn cho đến Ưu bà di cũng không được ăn. Vì người khác mà
giết có ba trường hợp: thấy, nghe và nghi. Thấy nghĩa là chính mắt mình thấy họ
giết vì mình thì không được ăn. Đó gọi là thấy. Nghe nghĩa là chính tai mình
nghe, hoặc nghe từ người khác rằng họ giết vì mình thì không được ăn. Nếu người
thuật lại là kẻ không đáng tin, chỉ vì muốn nhiễu loạn Tỉ-kheo thì không nên
nghe họ nói mà nên nghe người đáng tin để xác định chắc chắn. Đó gọi là nghe.
Nghi nghĩa là Tỉ-kheo đến nhà đàn việt thường thấy con dê, sau đó đến thì thấy
đầu, chân dê trên đất; thấy vậy tâm sinh nghi nên hỏi: "Con dê trước thấy
ở đây bây giờ đâu rồi?" Nếu họ nói: "Tôi đã vì thầy mà làm thịt
rồi", thì không nên ăn. Nếu họ nói: "Thưa tôn giả! Vì tôi giết để tế
trời rồi ăn thịt mà ăn không hết nên cúng cho thầy", thì được ăn. Đó gọi
là nghi.
Cũng thế, tất cả mọi
sinh vật hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi cũng đều như vậy.
Đó gọi là vì mình mà
người ta giết súc vật.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, trong thành Xá-vệ có một Ưu bà tắc tên Tủy Ti, bà vợ cũng
tên Tủy Ti, lại có một Tỉ-kheo khách cũng tên Tủy Ti. Ưu bà tắc nghe thế liền
suy nghĩ: "Sư phụ cùng tên với ta, ta hãy đến mời thầy thọ trai", bèn
đi đến tinh xá mời về nhà, sửa soạn các thức ẩm thực cúng dường. Đoạn, ông cúi
đầu đảnh lễ dưới chân, quì gối chắp tay bạch rằng:
- Kính xin tôn giả nhận
(486b) bốn sự cúng dường của con, là: y phục, ẩm thực, sàng tọa và thuốc chữa
bệnh.
Tỉ-kheo nhận lời mời.
Thế rồi, ông chồng phải theo khách buôn đi xa, bèn dặn dò bà vợ:
- Tôi đi xa, bà ở nhà
phải lo cúng dường sư phụ chu đáo, chớ để thiếu thốn.
Sau khi ông đi rồi, vị
Tỉ-kheo thấy trong người không điều hòa, muốn uống thuốc xổ, liền nói với Ưu bà
di:
- Tôi muốn uống thuốc
xổ, bà có thể tùy thời theo thứ tự lo giúp thức ăn được không?
- Dạ thưa được.
Sau khi thầy uống thuốc
xổ, theo thứ tự bà cho dùng những thức ăn phù hợp với bệnh như cháo lỏng, cháo
đặc rồi đến thịt. Bà lấy một số tiền đưa đứa tớ gái bảo:
- Ngươi cầm số tiền này
đi mua thịt đem về.
Đứa tớ gái bèn đi ra
chợ, nhưng hôm đó nhằm ngày ăn chay không có ai mổ thịt nên không mua được,
phải về tay không. Lúc ấy, Ưu bà di lòng không vui, suy nghĩ: "Sư phụ uống
thuốc, nếu không có thức ăn hợp với bệnh, sợ e bệnh nặng thêm". Nghĩ thế,
bà lấy hạt cải đem nghiền, rồi tẩm với dầu, đoạn đi vào phòng, dùng dao bén cắt
thịt bắp vế đưa cho nữ tì, bảo:
- Ngươi dùng dầu hạt
cải rửa sạch miếng thịt này, rồi nấu chín đem đến cho thầy, hỏi thầy ngày mai
cần thức ăn gì nữa?
Đứa nữ tì theo lời dạy,
nấu thịt chín đưa đến, rồi hỏi thầy:
- Ngày mai thầy cần ăn
món gì?
- Thôi đừng đem đến nữa.
Khi ấy, Ưu bà di bị vết
thương đau đớn nên nằm nghỉ. Người chồng đi buôn trở về (không thấy bà vợ ra
đón) liền nghĩ: "Thường khi ta đi xa về, bà vợ ra tận cửa thứ hai, thứ ba
nghênh đón, hôm nay vì sao không thấy ra đón". Đoạn, ông vào phòng, thấy
bà vợ đang nằm trên giường liền nổi giận mắng:
- Vì sao ngươi khinh ta
không ra đón tiếp?
- Ông đi lần này có
công đức gì mà muốn tôi phải ra nghênh đón?
- Ta đi chuyến này được
cả trăm nghìn vạn bạc.
- Đó là thứ tài sản bên
ngoài có gì là ghê gớm đâu! Còn tôi thì đã tự cắt thịt mình để cung cấp cho sư
phụ.
- Bà cắt ở chỗ nào vậy?
Bà vợ liền vén y phục
lên chỉ cho xem. Ông chồng thấy thế ngất xỉu, nằm sóng soải trên đất. Lúc ấy,
quỉ thần thấy vậy liền báo với Tỉ-kheo, Tỉ-kheo nghe thế bèn nhập từ tam muội
dùng định lực truyền cảm khiến bà vợ bình phục lại như trước. Đoạn, bà nói với
chồng:
- Đứng dậy! Đứng dậy!
Đừng sợ, nhờ uy thần của sư phụ mà vết thương của tôi đã bình phục rồi.
Người chồng đứng dậy
thấy vết thương của vợ đã bình phục, lòng rất hoan hỷ, liền đi đến nơi thị tứ,
nói như sau:
- Bà vợ tôi tinh tấn
bằng cách cắt thịt trên mình để cúng dường.
Mọi người nghe thế,
liền chê trách:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử ăn thịt người?
Các Tỉ-kheo đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến rồi,
Phật liền hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn! Vì con không nhập định (nên không biết).
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép (486c) ăn thịt người.
Lại nữa, khi Phật trú
tại vườn Lộc Dã Tiên Nhân ở Ba-la-nại, có một Tỉ-kheo mắc bệnh vàng da. Lương y
nói với thầy:
- Nếu tôn giả uống máu
người thì có thể khỏi bệnh. Nếu không uống thì sẽ chết, không còn có phương kế
nào khác.
Lúc ấy, có một người
phạm vương pháp, bị bắt trói ngoặt hai tay ra sau lưng, mình khoác vòng hoa Ca
tì la, lính đánh trống tuyên đọc án lệnh, dẫn đến pháp trường. Tỉ-kheo đến chỗ
tên đao phủ nói:
- Này tráng sĩ! Cho tôi
uống máu của người này nhé!
Tên đao phủ nói:
- Nếu thầy muốn ăn thịt
tôi cũng cho huống gì là máu!
Y liền đặt tội nhân
ngồi dưới đất, lấy dao cắt mạch máu hai bên yết hầu cho máu chảy ra. Tỉ-kheo
bèn dùng hai tay bụm lấy máu mà uống, bị người đời chê trách rằng:
- Đây không phải là
Tỉ-kheo mà là quỉ uống máu người.
Thế rồi, họ dùng gạch,
đá, đất cục ném Tỉ-kheo đó đến què chân, khi ấy mới thoát được. Các Tỉ-kheo đem
sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến
rồi, Phật liền hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Này Tỉ-kheo! Đó là
việc ác, yêu quí mạng sống của mình đến như vậy sao? Từ nay về sau Ta không cho
phép uống máu người, cho đến tủy người; tất cả đều không được uống. Nếu Tỉ-kheo
mọc mụt nhọt trên đầu mà thầy thuốc bảo phải mài xương người thoa mới lành thì
được thoa. Nhưng khi đã thoa thì không được ở trong chúng mà nên ở trong một
căn phòng nhỏ bên cạnh; đến khi khỏi bệnh phải tắm rửa sạch sẽ rồi mới được vào
trong chúng.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại Tì-xá-li, có một giống người chuyên ăn thịt rồng, các Tỉ-kheo cũng ăn
thịt rồng. Vì thế mà rồng bị sát hại rất nhiều. Khi ấy có một Long nữ đến đứng
trước giường của Thế Tôn, khóc lóc. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Vì sao mà ngươi khóc?
- Bạch Thế Tôn! Có
người ở Tì-xá-li này ăn thịt rồng, các Tỉ-kheo cũng ăn thịt rồng, vì thế mà
rồng bị sát hại rất nhiều, kính xin Thế Tôn đừng cho các Tỉ-kheo ăn thịt rồng.
Bấy giờ, Thế Tôn tùy
thuận thuyết pháp chỉ dạy, khiến Long nữ hoan hỷ rồi cáo lui. Đoạn, Thế Tôn đi
đến chỗ đông đúc các Tỉ-kheo, trải tọa cụ ra ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc
trên với các Tỉ-kheo. Rồi Phật chế định:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn thịt rồng, máu rồng, xương rồng, gân rồng, tủy rồng, nói
chung tất cả đều không cho ăn. Nhưng nếu có các bệnh ngoài da cần xương rồng thì
được dùng xương rồng mài thành bột để thoa, không có tội.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy, con voi của vua Bình Sa chết, có những bọn chiên đà la
ti tiện đem ăn thịt, trong các Tỉ-kheo, có người cũng ăn. Bấy giờ, đồng tử Kỳ
Cựu đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng hầu một bên, bạch với
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con voi
của vua Bình Sa chết (487a) có những kẻ Chiên đà la ti tiện đem ăn thịt, các
Tỉ-kheo có người cũng ăn mà Tỉ-kheo là người xuất gia được người ta kính trọng,
vậy xin Thế Tôn đừng cho họ ăn thịt voi.
Thế Tôn bèn tùy thuận
thuyết pháp chỉ dạy khiến đồng tử được lợi ích, hoan hỷ liền cúi đầu đảnh lễ
dưới chân Phật mà cáo lui. Khi ấy, Thế Tôn đi đến chỗ có đông các Tỉ-kheo, trải
tọa cụ ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc trên với các Tỉ-kheo. Rồi Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho ăn thịt voi cho đến tủy voi cũng không cho ăn. Nhưng dùng ngà voi,
xương voi làm vật để kiền bát, làm khuy y thì không có tội.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy con ngựa của vua Bình Sa chết, cũng như trường hợp con
voi đã nói ở trên. Nếu ở ngoài da có bệnh ghẻ nhọt cần máu ngựa để bôi thì dùng
để bôi không có tội. Nhưng khi đã bôi thì không được ở trong chúng mà nên ở một
căn phòng nhỏ ở bên cạnh phòng Tăng.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, vì các Tỉ-kheo ăn thịt chó nên khi vào xóm làng bị các con
chó chạy theo sủa vang. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn cho đến
Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn thịt chó, tủy chó cũng đều không cho ăn. Nhưng nếu bị chó cắn
cần đốt lông chó bôi vào vết thương thì được dùng, không có tội.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, có một Tỉ-kheo ăn thịt quạ. Lúc thầy vào xóm làng khất
thực, hoặc khi đi kinh hành trong rừng thì bầy quạ bay theo kêu vang. Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn thịt quạ cũng như tủy quạ.v.v... đều không cho phép ăn. Nhưng
nếu cần lông cánh dùng để trị bệnh ngoài da thì được dùng không có tội.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, có một Tỉ-kheo ăn thịt diều hâu. Lúc thầy đi kinh hành
trong rừng bị bầy diều hâu bay theo kêu vang. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch
lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn thịt diều hâu, cũng như tủy diều hâu đều không được ăn. Nếu
cần lông cánh trị bệnh ngoài da thì được phép dùng không có tội.
Tóm lại, các loại thực
phẩm kể sau không được ăn:
1- Thịt người.
2- Thịt rồng.
3- Thịt voi.
4- Thịt ngựa.
5- Thịt chó.
6- Thịt quạ.
7- Thịt diều hâu.
8- Thịt heo.
9- Thịt khỉ.
10- Thịt sư tử và tỏi gồm các loại sống,
chín, vỏ, lá tất cả đều không được ăn.
Nếu cần dùng tỏi để bôi
vết thương ở ngoài da thì được dùng. Nhưng khi đã bôi thì không được vào trong
chúng mà nên ở một căn phòng nhỏ bên cạnh phòng Tăng. Khi bệnh lành phải tắm
rửa sạch sẽ rồi mới được vào trong chúng. Đó gọi là phép dùng thịt, tỏi.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến nhà (487b) một người chăn trâu,
ngồi trên giường. Bỗng có con trâu nghé mới sinh thấy màu y của Tỉ-kheo giống mẹ
nó, nó liền chạy đến bên thầy. Tỉ-kheo dùng tay xoa trên đầu, vuốt nhè nhẹ nói
như sau:
- Da con này mềm mại,
đẹp đẽ, có thể làm tọa cụ được.
Lúc ấy, người chăn trâu
suy nghĩ: "Vị Tỉ-kheo này vốn là chỗ quen biết của vua, đại thần quí hiển,
có thế lực lớn đang muốn được tấm da con này", liền hỏi:
- Thầy đang cần da sao?
Tôi sẽ cho.
- Hãy cho tôi tấm da
con trâu nghé này đây.
- Trong nhà tôi có tấm
da khô của con trâu nghé cũng mềm mại, đẹp đẽ, tôi sẽ chải chuốt thẳng thớm rồi
cho thầy.
- Nếu ông muốn cho thì
hãy cho tôi tấm da con này chứ tôi không cần cái khác.
Lúc ấy, người chăn trâu
liền suy nghĩ: "Vị Tỉ-kheo này có thế lực lớn, có thể gây ra điều bất lợi
cho ta". Vì sợ tai họa, ông ta liền giết con nghé trước mặt Tỉ-kheo, rồi lột
da cho thầy. Lúc con trâu mẹ đi ăn trở về không thấy con mình, đi quanh các bờ
rào kêu vang. Người chăn trâu liền oán trách:
- Sa-môn Thích tử mà
không có lòng từ. Nếu Sa-môn ở vào hoàn cảnh con trâu mẹ thì tâm ý sẽ như thế
nào?
Các Tỉ-kheo đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến
rồi, Phật hỏi:
- Này các Tỉ-kheo! Các
ông có việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Này các Tỉ-kheo! Đó
là việc ác. Vì sao các ông bảo người ta
giết sinh vật ngay trước mắt mình? Từ nay về sau, Ta không cho phép dùng
da. Da gồm có các loại: da bò, da trâu, da cọp, da báo, da gấu, da nai; đại
loại tất cả các loại da như vậy đều không được dùng để ngồi, chỉ cho phép dùng
da dê ở biên địa thứ nô mà thôi. Da dê có hai loại: một là dê đen, hai là dê
lang. Và dê đen, dê lang mỗi loại được chia làm mười thứ như trên kia đã nói.
Nếu ngồi trên da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu ngồi trên nệm bông đặt trên da
thì phạm hai tội Việt tỳ ni. Nếu ngồi trên giày da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu
nằm trên giày da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu nằm trên giày da từ đầu gối trở
lên thì phạm tội Việt tỳ ni; nhưng nếu từ đầu gối trở xuống thì không có tội.
Hoặc dùng da làm giường ngồi lên trên thì không có tội. (Đó gọi là phép dùng
da).
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà sắm các vật để lau chân, đệ tử ngoại
đạo thấy thế suy nghĩ: "Chúng ta hãy cùng nhau quấy nhiễu kẻ ưu bà tắc kia"
như trong vấn đề mạt vụn ở trên đã nói rõ cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép dùng các vật để làm đồ lau chân. Đồ lau chân hoặc vuông, hoặc
tròn, nếu khắc trên chớp có hình hạt đậu ma sa, đậu môn cụ thì tất cả đều không
cho dùng. Nếu dưới chân bị dơ bẩn thì được phép dùng cỏ vo tròn lại, (487c)
hoặc dùng gạch, ngói để chùi. Đó gọi là vật dùng để lau chân.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội, trai gái ra khỏi thành đi du ngoạn,
nhóm sáu Tỉ-kheo dùng màu xanh da trời và màu đen trang điểm đôi mắt nên bị
người đời chê cười rằng:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà giống như những đồng tử quí hiển, dùng màu xanh da trời trang điểm đôi
mắt?
Có người thấy trang
điểm màu đen thì nói:
- Sa-môn Thích tử giống
như sứ giả của kẻ hạ tiện, dùng màu đen bôi lên mắt mà đi. Đây là hạng người
bại hoại nào có đạo hạnh gì!
Các Tỉ-kheo đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép trang điểm mắt.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, ở trong vườn Am Bà La của đồng tử Kỳ Cựu. Bấy giờ, các
Tỉ-kheo bị đau mắt, đồng tử Kỳ Cựu nói:
- Tôn giả có thể dùng
loại thuốc này để bôi mắt.
- Đức Thế Tôn chế giới
không cho phép bôi mắt.
- Tôi sẽ đến xin Thế
Tôn cho phép việc này.
Thế rồi, ông đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các
Tỉ-kheo là những người ăn mỗi ngày một bữa, mắt là bộ phận trọng yếu của con
người, xin Thế Tôn cho phép các Tỉ-kheo bôi thuốc vào mắt.
- Từ nay về sau, Ta cho
phép dùng thuốc bôi mắt, chỉ trừ thuốc màu xanh da trời. Nhưng nếu thầy thuốc
nói: "Thưa tôn giả! Bệnh đau mắt này nếu được thuốc có màu xanh da trời
bôi vào thì mới lành, ngoài ra không có phương kế nào khác". nếu như vậy
thì được bôi. Khi đã bôi thuốc thì không được ở trong chúng mà nên ở một căn
phòng nhỏ cạnh phòng chúng Tăng. Khi bệnh lành phải tắm rửa sạch sẽ rồi mới vào
trong chúng.
Đó gọi là thuốc bôi mắt.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, các Tỉ-kheo dùng lá cây đựng thuốc nhỏ mắt, Phật biết
nhưng vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Đây là
cái gì vậy?
- Đó là thuốc nhỏ mắt,
bạch Thế Tôn!
- Thuốc nhỏ mắt là vật
quí nên dùng lọ mà đựng.
Thế rồi, các Tỉ-kheo
dùng vàng bạc làm lọ đựng thuốc. Phật dạy:
- Ta không cho phép
dùng vàng bạc và tất cả các vật báu làm lọ, mà nên dùng đồng, sắt, thiết, tre,
lau, lông, cánh chim, ít nhất là làm bao da để đựng.
Đó gọi là lọ đựng thuốc
nhỏ mắt.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo dùng tre làm que bôi thuốc vào mắt, Phật biết
mà vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Đây là
cái gì vậy?
- Bạch Thế Tôn! Đó là
cái que để bôi thuốc vào mắt.
- Đôi mắt là bộ phận
mềm mại, nên dùng vật trơn để làm que.
Thế rồi, Tỉ-kheo dùng
vàng bạc để làm. Phật dạy:
- Ta không cho phép
dùng vàng bạc và tất cả những bảo vật để làm, mà nên dùng đồng sắt, răng,
xương, chiên đàn, gỗ cứng để làm, rồi bào chuốt cho trơn tru ít nhất là dùng
ngón tay để bôi thuốc. Đó gọi là que bôi thuốc vào mắt.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội của người đời, trai gái đi dự lễ, nhóm
sáu Tỉ-kheo cầm dù ô nhiều (488a) màu sắc, có người còn cầm ô dù bằng vỏ cây,
bị người đời chê bai rằng:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà giống như vương tử, đại thần cầm ô dù với nhiều màu sắc?
Có kẻ thấy họ cầm dù
bằng lá cây thì nói:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà giống như sứ giả của kẻ hạ tiện, cầm ô dù bằng lá cây mà đi? Đây là hạng
người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép dùng ô dù.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, trưởng lão A Na Luật, Kim Tỳ La an cư tại núi Tháp
vừa xong, trở về thành Xá-vệ, lễ bái Thế Tôn. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Vì sao
trên y bị muối đóng bẩn như vậy?
- Vì Thế Tôn chế giới
không cho phép đội dù, con đi khất thực bị mắc mưa nên mới ra nông nổi này.
- Từ nay về sau, Ta cho
phép đội dù. Các loại dù như dù bằng vỏ cây, dù bằng lá cây, dù tre, đại loại
các thứ như thế đều cho phép dùng. Nhưng không cho phép dùng loại dù có nhiều
màu sắc.
Đó gọi là phép dùng ô
dù.
Vào ngày lễ hội của
người đời, trai gái đi du ngoạn đông đảo, nhóm sáu Tỉ-kheo cầm quạt được trang
điểm bằng vân mẫu, có vị cầm quạt nan bị người đời chê cười rằng:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà giống như vương tử đại thần cầm quạt được trang điểm bằng vân mẫu?
Có người thấy họ cầm
quạt bằng nan liền phê bình:
- Vì sao Sa-môn Thích
tử mà giống như sứ giả của kẻ hạ tiện cầm quạt nan. Đây là hạng người bại hoại,
nào có đạo hạnh gì!
Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc đó đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, Ta
không cho phép cầm quạt.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại Tì-xá-li, vì bị muỗi quấy rối trong phòng thiền, các Tỉ-kheo dùng y để
quạt phát ra tiếng kêu. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Các ông
làm gì mà phát ra tiếng kêu giống như voi vẫy tai vậy?
- Bạch Thế Tôn! Vì Thế
Tôn chế giới không cho dùng quạt, các Tỉ-kheo bị muỗi cắn phải dùng y quạt muỗi
nên phát ra tiếng kêu như vậy.
- Từ nay về sau, Ta cho
phép dùng quạt tre, quạt sậy, quạt lá cây, chỉ trừ quạt vân mẫu và quạt được vẽ
nhiều màu sắc. Nhưng nếu quạt của Tăng thì vẽ nhiều màu sắc không có tội. Còn
quạt riêng cá nhân thì phải hoại sắc. Nếu có người dùng hương thơm bôi trên
quạt rồi đem đến cúng dường thì được phép chùi sạch rồi sử dụng.
Đó gọi là phép dùng
quạt.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội, nam nữ đi du ngoạn, nhóm sáu Tỉ-kheo
cầm phất trần bằng lông đuôi trâu trắng có cán nạm vàng bạc, bị người đời chê
cười, cho đến Phật dạy:
- Từ nay về sau, ta
không cho phép cầm phất trần.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại Tì-xá-li, (488b) vì trong phòng thiền bị muỗi quấy rầy nên các Tỉ-kheo
dùng phất trần bằng lá cây đập muỗi kêu ra tiếng. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Đó là
tiếng gì vậy?
- Bạch Thế Tôn! Vì Thế
Tôn chế giới không cho phép cầm phất trần nên các Tỉ-kheo dùng phất trần bằng
lá cây đuổi muỗi mà phát ra tiếng.
- Từ nay về sau, Ta cho
phép dùng phất trần. Phất trần gồm các loại: Phất trần bằng chỉ sợi, bằng vải
tua, bằng cỏ rối, bằng vỏ cây. Trong đây chỉ trừ phất trần bằng đuôi trâu
trắng, đuôi ngựa trắng có cán nạm vàng bạc, ngoài ra tất cả đều cho phép dùng.
Nếu có màu trắng nên nhuộm cho hoại sắc thì được dùng. Khi cầm phất trần không được
làm ra dáng ẻo lả như kiểu dâm nữ cầm phất trần.
Đó gọi là phép dùng
phất trần.
Kệ tóm tắt:
Giết cho mình, ăn thịt
người,
Thuốc nhỏ mắt, lọ và que,
Da trâu cùng đồ lau chân,
Dùng ô dù và phất trần.
Phẩm thứ chín đến đây hết.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo mắc bệnh trĩ, nói với thầy thuốc:
- Này lão trượng! Ông
có thể dùng dao chữa trị bệnh cho tôi được không?
- Thưa được.
Thế rồi, y sĩ liền suy
nghĩ: "Các Sa-môn này thông minh trí tuệ nếu họ thấy ta chữa bệnh thì sẽ
học lóm, rồi không cần ta nữa". Đoạn ông ta bảo các Tỉ-kheo đi hết, rồi
ông định làm điều phi pháp, thì vị Tỉ-kheo này sinh nghi, liền gọi các Tỉ-kheo:
- Các trưởng lão hãy
đến, vị y sĩ này muốn làm điều phi pháp.
Các Tỉ-kheo nghe thế
liền đi vào. Y sĩ khi ấy hoảng sợ bèn bỏ dao mà chạy. Các Tỉ-kheo liền đem sự
việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến
rồi, Phật hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Này Tỉ-kheo! Vì sao
ông để cho y sĩ dùng dao chữa trị chỗ hệ trọng? Từ nay về sau, Ta không cho
phép dùng dao chữa trị chỗ hệ trọng. Chỗ hệ trọng là nơi cách xung quanh hậu môn
bốn lóng tay. Nếu bị bệnh ung thư, sảy càng thì Ta cho phép nhai gạo tiểu mạch
trộn với phân gà đắp lên trên mụt để cho nung mủ, rồi nhờ bạn cùng Hòa Thượng,
A xà lê chích lể ra. Nếu các nơi khác bị bệnh ung thư, sảy càng cần dùng dao
chữa trị thì được phép dùng. Nếu ai dùng dao chữa trị chỗ hệ trọng thì phạm tội
Thâu lan.
Đó gọi là dùng dao trị
bệnh.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, có một Tỉ-kheo bệnh đau đầu bèn hỏi y sĩ:
- Này lão trượng! Ông
có thể rót nước chữa bệnh cho tôi được không?
- Có thể được.
Thế rồi, ông suy nghĩ:
"Các Sa-môn Thích tử này thông minh, trí tuệ, nếu thấy ta rưới nước chữa
bệnh thì về sau sẽ không gọi ta nữa". Cho đến ông bỏ túi đựng nước mà
chạy. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. (488c) Thế rồi, Phật
khiển trách:
- Vì sao ông dùng túi
rót nước trị bệnh? Từ nay về sau, Ta không cho phép dùng túi chứa nước. Túi gồm
có các loại: túi da bò, túi da trâu, túi da dê. Tất cả các loại túi da như thế
đều không được dùng để chứa nước. Nếu y sĩ nói: "Bệnh này cần dầu để
tẩm", thì nên lấy gỗ khoét đựng dầu vào dùng vải quấn lại đem đặt trong
nhà tắm, ngồi lên trên, miệng ngậm mía. Hoặc dùng vải bông xếp lại rồi tẩm dầu
vào, đặt trên một vật gì để chừa lỗ trống cho dầu nhỏ xuống chỗ bị đau thì
không có tội. Nếu dùng túi da đựng nước thì phạm tội Thâu lan.
Đó gọi là túi chứa nước.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy có một khách buôn ở ấp Đại Lâm thuộc một nước ở phương Nam
lùa đàn trâu 8 con đến nước Câu Đa ở phương Bắc. Lại có một khách buôn khác
cùng ông ta thả trâu ăn chung trong chằm. Lúc ấy, người Li xa bắt rồng ăn thịt,
bắt được một Long nữ. Hôm ấy, Long nữ thọ Bố tát, không có tâm sát hại nên cứ
để mặc người kia xỏ mũi dắt đi. Người khách buôn thấy hình dung Long nữ đoan
chính khởi lòng từ, bèn hỏi đồng tử Li xa:
- Ông dắt con rồng này
đi đâu, định làm gì đấy?
- Tôi định giết để ăn
thịt.
- Đừng giết, tôi sẽ đưa
ông một con trâu đổi lấy con rồng này để thả đi.
Thế nhưng đồng tử Li xa
không chịu, cuối cùng người kia chịu đổi 8 con trâu, Li xa mới nói:
- Con rồng này thịt rất
ngon, nay vì ông mà tôi phải thả nó.
Đoạn, y nhận lấy 8 con
trâu, thả Long nữ đi. Bỗng chốc, khách buôn suy nghĩ: "Kẻ này là người ác,
e rằng y sẽ đuổi theo Long nữ để bắt lại". Nghĩ thế, ông đi theo người ấy đến
bên ao. Bấy giờ, Long nữ biến thành người, nói với khách buôn:
- Ngài đã cứu mạng tôi,
tôi muốn báo ân, ngài hãy xuống long cung, tôi sẽ đền ân ngài.
- Không thể được! Loài
rồng của các ngươi tâm tính hung bạo, giận dữ bất thường, biết đâu lại giết hại
ta!
- Không có chuyện đó!
Kẻ kia cột tôi, tôi dư sức giết y nhưng vì tôi thọ Bố tát nên không có tâm giết
hại, huống gì nay ngài đã cho tôi mạng sống mà tôi lại hại ngài sao? Nếu ngài
không đi thì hãy dừng lại đây chốc lát để tôi vào trước trong cung tấu trình.
Thế rồi, Long nữ đi vào
cung. Lúc ấy, trông thấy hai con rồng bị cột tại một chỗ trước long môn, người
khách buôn liền hỏi chúng:
- Các ngươi vì việc gì
mà bị trói?
- Long nữ này trong nửa
tháng thọ chay lạt ba ngày, anh em chúng tôi giữ gìn nó không cẩn thận khiến nó
bị đồng tử Li xa bắt được, vì thế mà chúng tôi bị trói. Mong ngài từ mẫn hãy
nói giúp để họ thả chúng tôi. Ở long cung có loại thức ăn, ăn vào đến lúc chết
mới tiêu hóa, có loại ăn vào 20 năm sau mới tiêu hóa, có loại 7 năm mới tiêu
hóa và có loại thức ăn của cõi Diêm phù đề. Nếu Long nữ hỏi ngài muốn ăn loại
thức ăn nào thì nên đòi thức ăn của loài người cõi Diêm phù đề.
(489a) Long nữ vào tấu
trình xong, bèn gọi khách buôn vào ngồi trên giường nệm châu báu, rồi thưa:
- Nay ngài muốn ăn thức
ăn gì? Muốn ăn một lần đến lúc chết mới tiêu hóa...?
- Muốn ăn thức ăn của
loài người ở cõi Diêm phù đề.
Long nữ dọn lên các
thức ẩm thực. Khách buôn liền hỏi Long nữ:
- Hai con rồng kia vì
sao mà bị trói?
- Ngài chỉ nên ăn thôi,
chứ hỏi làm gì?
- Không phải vậy, tôi
muốn biết điều đó!
Ông cứ hỏi mãi, Long nữ
đành phải nói:
- Kẻ này có lỗi, tôi
muốn giết hắn.
- Ngươi đừng giết.
- Không thể được! Phải
giết đi thôi.
- Ngươi thả hắn ra thì
ta mới ăn.
- Không thể thả ngay
được mà phải phạt hắn bằng cách đày lên cõi người sáu tháng.
Thế là Long nữ phạt hắn
lên nhân gian sáu tháng. Khách buôn thấy Long cung có nhiều bảo vật được dùng
để trang hoàng cung điện, liền hỏi long nữ:
- Ngươi đã được những
thứ trang nghiêm quí báu như vậy, còn thọ Bố tát làm chi nữa?
- Cái kiếp rồng của tôi
có 5 sự khổ, đó là: Lúc sinh ra hiện thân rồng; lúc ngủ hiện thân rồng; lúc
hành dâm hiện thân rồng; lúc giận dữ hiện thân rồng; lúc chết hiện thân rồng.
Trong một ngày trải qua ba lần da thịt bị dính vào cát nóng thiêu thân.
- Thế thì ngươi muốn
cầu điều chi?
- Tôi muốn cầu được
sinh làm người. Vì sao vậy? Vì trong loài súc sinh đau khổ, không có chánh pháp.
- Ta đã được thân
người, vậy nên cầu điều gì?
- Xuất gia rất khó được
(vậy nên cầu xuất gia).
- Nên theo ai xuất gia?
- Đức Như Lai Ứng Cúng
Chánh Biến Tri hiện nay đang ở tại thành Xá-vệ, những kẻ chưa độ thì Ngài cứu
độ, những kẻ chưa giải thoát thì Ngài làm cho giải thoát, ông nên đến đó xuất
gia.
- Ta muốn trở về.
Long nữ liền cho ông 8
bánh vàng rồi bảo:
- Đây là vàng của rồng
đủ cho cha mẹ, bà con ông dùng suốt đời không hết. Giờ ông hãy nhắm mắt lại.
Thế rồi, Long nữ dùng
sức thần biến đưa ông trở lại cố quốc. Người bạn đồng hành của ông trước đây đã
đến báo tin cho gia đình ông biết là ông đã xuống Long cung. Do thế, cha mẹ ông
tưởng con mình đã chết cho nên quyến thuộc tôn thân tụ họp nhau một chỗ khóc
lóc tiếc thương. Lúc ấy, người chăn trâu và những người đốn củi thấy ông trở
về, liền vội vàng đến báo tin cho gia đình ông:
- Mỗ giáp đã trở về rồi.
Người nhà nghe thế vô
cùng hân hoan, liền ra đón tiếp đưa ông về nhà. Khi về nhà rồi, gia đình mở hội
ăn mừng việc ông được sống lại. Thế rồi, ông lấy 8 bánh vàng tặng cho cha mẹ,
nói:
- Đây là vàng của rồng,
cắt rồi liền nguyên lại, dùng suốt đời cũng không hết, xin cha mẹ cho phép con
xuất gia.
Nhưng cha mẹ không cho.
Ông liền đi đến tinh xá Kỳ Hoàn, Tỉ-kheo bèn độ cho xuất gia. Cha mẹ sau đó đi
đến cửa tinh xá hỏi các Tỉ-kheo:
- Các vị có biết mỗ
giáp đâu không?
Tất cả đều đáp:
- Không thấy, không
nghe.
Nhưng có một Tỉ-kheo
nói:
- (489b) Ông chỉ cần
đứng nơi cửa này, nếu có thì trong chốc lát y sẽ ra vào!
Nghe lời chỉ dẫn, người
ấy đứng đợi một lát liền thấy con mình đi ra, bèn chê trách:
- Sa-môn Thích tử nói
dối, thấy mà nói không thấy, nghe mà nói không nghe.
Người con khuyên cha mẹ:
- Đừng làm những việc
không lợi ích. Con xuất gia ở đây ai cũng đều biết cả.
Thế rồi, cha mẹ đi đến
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, ngồi sang một bên. Phật liền thuyết pháp
dạy bảo khiến họ được lợi ích hoan hỷ, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Đoạn, họ nói
với con:
- Chúng ta đều là những
người được sống lại. Nay con xuất gia được lợi ích rất lớn.
Các Tỉ-kheo nghe những
lời chê trách của họ vừa rồi đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo
gọi Tỉ-kheo đã độ người xuất gia đến. Khi thầy đến rồi, Phật hỏi:
- Này Tỉ-kheo! Ông có
việc đó thật không?
- Có thật như vậy, bạch
Thế Tôn!
- Vì sao ông không bạch
với chúng mà độ người xuất gia? Từ nay về sau, Ta không cho phép không bạch với
chúng Tăng mà độ người xuất gia. Cần phải bạch khi cho xuất gia và khi cạo đầu.
Bạch nghĩa là bạch với tất cả chúng Tăng, ít nhất là bạch với 8 thượng tọa. Và
Thượng Tọa nên bảo làm cho đúng pháp. Nếu bạch cạo đầu mà không bạch xuất gia
thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu cả hai đều có bạch thì không có tội. Nếu không
bạch xuất gia cũng không bạch cạo đầu thì phạm hai tội Việt tỳ ni. Nếu ra ngoài
cương giới độ người thì không có tội. Đó gọi là cạo đầu.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại tinh xá Trúc Viên Ca Lan Đà, thành Vương Xá, đức Như Lai độ người ở mọi
nơi, nào là Tỉ-kheo, Tỉ-kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, trưởng giả, ngoại
đạo, Sa môn, Bà la môn. Bấy giờ, Phật nói với các Tỉ-kheo:
- Từ nay về sau, các
ông cũng nên độ người xuất gia, thọ Cụ túc.
Thế rồi, các Tỉ-kheo
cũng bắt chước đức Như Lai gọi "Thiện lai" khi độ người xuất gia
nhưng râu tóc vẫn còn nguyên vẹn. Phật liền bảo các Tỉ-kheo:
- Đâu có phải tất cả
đều được kim khẩu vô úy như Như Lai, (hễ khi gọi Thiện lai thì) râu tóc tự
rụng. Từ nay về sau, phải cạo tóc.
Thế rồi, khi cạo tóc,
các Tỉ-kheo cạo tóc mà không cạo râu, hoặc cạo râu mà không cạo tóc. Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:
- Phải cạo tất cả, khi
cạo, trước nên cạo râu, sau cạo tóc. Nếu người được cạo khó tính thì cạo tóc
trước không có tội. Đối với người mới xuất gia không nên nói với họ rằng xuất
gia sướng mà nên bảo rằng xuất gia khổ, nào là: ăn ngày một bữa, ở mỗi chỗ một
đêm, ngủ một giấc, ăn ít, uống ít, ngủ ít, thức nhiều. Này lão trượng! Ông có
làm được không? Nếu họ đáp: "Được", thì mới cạo tóc. Nếu đã là
Tỉ-kheo thì cạo tóc trước, cạo râu sau không có tội.
Đó gọi là cạo tóc.
DỤNG CỤ CẠO TÓC.
Khi Phật du hành nước
Câu Tát La đến thôn Bà la môn, (489c) lúc ấy có hai cha con ông già mang dụng
cụ theo xin xuất gia, cho đến Phật dạy:
- Vì sao người cạo tóc
mang dụng cụ theo mà ông độ họ xuất gia? Từ nay về sau, Ta không cho phép độ
người mang dụng cụ xuất gia. Nếu người cạo tóc mang dụng cụ theo muốn xin xuất
gia thì nên bảo: "Ông hãy bỏ dụng cụ cạo tóc rồi tôi mới cho xuất gia. Sau
khi xuất gia rồi nếu cần thì mượn của kẻ khác mà dùng". Ngoài thợ cạo, thì
thợ rèn, thợ mộc, thợ kim hoàn, thợ da, thợ dệt và các thợ chuyên môn khác cũng
thế, đều không cho phép độ họ xuất gia khi mang dụng cụ theo. Nếu ai độ trong
trường hợp như vậy thì phạm tội Việt tỳ ni.
Đó gọi là dụng cụ làm
việc.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy tôn giả Ưu-ba-li đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới
chân, đứng hầu một bên, bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn
nói phá Tăng, thế nào là phá Tăng?
- Này Ưu-ba-li! Như đại
đức Tỉ-kheo như pháp như luật khéo hiểu nghĩa lý sâu xa thì Tỉ-kheo ấy xứng
đáng được lễ bái tôn kính tùy thuận nghe theo lời dạy. Nếu có Tỉ-kheo nào cho
rằng những lời nói của Tỉ-kheo ấy là phi pháp, không tùy thuận thì đó là sự
xích mích giữa chúng Tăng, chứ không phải phá Tăng, cho đến khi nào Tăng trong
một trú xứ cùng tụng giới, cùng Yết-ma (thì không phải phá Tăng). Ta đã chế
định rằng nếu trong một cương giới, một trú xứ mà Tăng Bố tát, Tự tứ, làm
Yết-ma riêng thì đó gọi là phá Tăng.
- Bạch Thế Tôn! Phá
Tăng phạm tội như thế nào?
- Bị tội đọa vào địa
ngục một kiếp.
Đó gọi là phá Tăng.
Khi Phật an trú tại
thành Xá-vệ, lúc ấy tôn giả Ưu-ba-li bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn
nói về Tăng hòa hợp, vậy thế nào gọi là Tăng hòa hợp?
- Ta đã chế định rằng
nếu một đại đức Tỉ-kheo sống như pháp, như luật, khéo hiểu nghĩa lý sâu xa, thì
Tỉ-kheo ấy đáng được lễ bái, tôn kính. Các Tỉ-kheo tùy thuận chấp hành các qui
định, cùng sống trong một trú xứ cùng Bố tát, Tự tứ và thực hiện pháp Yết-ma,
đó gọi là Tăng hòa hợp.
Lại nữa, tôn giả
Ưu-ba-li đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, rồi bạch
với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tăng
hòa hợp có những công đức gì?
- Này Ưu-ba-li! Được
quả báo lành trong một kiếp.
Đó gọi là Tăng hòa hợp.
Khi Phật an trú tại
thành Vương Xá, lúc ấy, vua A Xà Thế con bà Vi Đề Hi có mối oán thù với người
Tì-xá-li như trong Kinh Đại Bát Nê Hoàn đã nói rõ, cho đến việc đức Thế Tôn xả
thọ mạng bên tháp Phóng Cung Trượng, tại Tì-xá-li. Thế rồi, Ngài hướng đến
thành Câu Thi Na, bên dòng sông Hi Liên Thiền, sinh quán của lực sĩ, trong rừng
Kiên cố (490a) bát nê hoàn dưới cây Song thọ. Khi sắp hỏa thiêu nơi tháp Thiên
Quan thì chư Thiên làm cho lửa không cháy để chờ tôn giả Đại Ca Diếp. Lúc ấy,
tôn giả Đại Ca Diếp đang ngồi thiền trong hang Tân Bát La trên núi Kỳ Xà Quật,
liền suy nghĩ: "Thế Tôn đã xả thọ mạng, không biết muốn nhập Niết-bàn tại
nơi nào? hiện giờ ở đâu? có ít bệnh, ít phiền não và sống an lạc không?".
Suy nghĩ thế rồi, liền nhập định, dùng thiên nhãn quan sát tất cả thế giới thì thấy
Thế Tôn đang ở thành Câu thi na, bên sông Hi liên, sinh quán của lực sĩ trong
rừng Kiên cố, giữa hai cây Song thọ, sắp được hỏa thiêu tại tháp Thiên Quan,
(cho đến) lửa không cháy. Thấy thế, tôn giả buồn thảm không vui, lại suy nghĩ:
"Ngay lúc xá lợi của Thế Tôn chưa phân tán, ta nên đến đảnh lễ".
Đoạn, tôn giả lại nghĩ: "Giờ đây ta đến để viếng thân tối hậu của Thế Tôn
thì không nên dùng thần túc để đến mà nên đi bộ đến". Nghĩ thế, tôn giả
nói với các Tỉ-kheo:
- Này các trưởng lão!
Đức Thế Tôn đã Bát Nê hoàn, ai nấy đều mang theo y bát cùng đến Câu thi na kiệt
lễ viếng Thế Tôn.
Các Tỉ-kheo nghe thế,
đều đáp:
- Lành thay!
Lúc ấy, tôn giả Đại Ca
Diếp cùng với các Tỉ-kheo đi đến Câu thi na kiệt. Trên đường đi, họ băng qua
một thôn xóm. Trong thôn này có một Tỉ-kheo già đang sống. Tôn giả Đại Ca Diếp
liền bảo Tỉ-kheo già:
- Thầy hãy đem theo y
bát đến đây, để chúng ta cùng đến thành Câu Thi Na Kiệt lễ viếng Thế Tôn.
- Trưởng lão Đại Ca
Diếp! Đợi ăn bữa trước, bữa sau xong rồi chúng ta hãy đi.
- Không nên chờ ăn xong.
Tỉ-kheo già nài nỉ đến
ba lần, Đại Ca Diếp đều nói:
- Không nên chờ.
Khi ấy, Tỉ-kheo già nổi
giận, nói:
- Sa-môn có việc gì mà
gấp gáp, vội vàng như thế, giống như quạ chết không đáng giá một đồng tiền. Hãy
đợi trong chốc lát ăn rồi mới đi.
Tôn giả Đại Ca Diếp lại
nói:
- Hãy để đồ ăn đó đã.
Đức Thế Tôn nay đã Nê Hoàn, chúng ta phải đến gấp cho kịp lúc chưa hỏa thiêu.
Tỉ-kheo già nghe tin
Phật đã Ban nê hoàn, liền nói với tôn giả Đại Ca Diếp:
- Nay ta vĩnh viễn được
giải thoát. Vì sao thế? Vì vị A la hán ấy lúc còn sống thường nói: "Việc
ấy nên làm, việc kia không nên làm". Nay đã Nê hoàn việc gì nên làm hay
không nên làm ta đều được tự do tùy ý.
Khi nghe lời nói ấy,
Đại Ca Diếp sầu thảm không vui, liền gảy ngón tay phải, lửa phóng ra, đồng thời
chân phải mím chặt trên đất. Tỉ-kheo già thấy thế hoảng sợ, bỏ chạy. Thế rồi,
Đại Ca Diếp đi đến chỗ Phật. Thế Tôn liền (490b) đưa hai chân từ trong kim quan
ra ngoài. Khi tôn giả Đại Ca Diếp thấy được chân Phật, liền trật vai áo bên
phải, cúi đầu đảnh lễ, rồi đọc kệ:
Chân Như Lai đầy
đặn,
Hiện bánh xe ngàn căm.
Ngón dài nhọn mềm mại,
Hình mạng lưới cấu thành.
Vì thế hôm nay con
Đảnh lễ chân tối thắng.
Chân mềm mại tối thắng,
Từng du hành thế gian.
Đại bi cứu chúng sinh,
Từ nay không gặp nữa.
Vì thế hôm nay con
Đảnh lễ chân Như Lai.
Như Lai cứu độ con,
Đạt Ứng chân giải thoát.
Nay con nhìn lần cuối,
Vĩnh viễn không gặp nữa.
Đã đoạn mọi nghi hoặc,
Bậc Ly dục Tối thượng.
Làm lợi ích mọi loài
Tất cả đều hoan hỷ.
Vì thế hôm nay con
Đảnh lễ chân Tối thắng.
Đức hạnh Phật như vậy,
Khéo đáp mọi nghi ngờ.
Ngày hôm nay đã qua
Ánh từ quang vĩnh diệt.
Vì thế hôm nay con,
Đảnh lễ chân Tối thắng.
Con chứng bốn chân lý,
Nói công đức của Phật.
Đọc kệ lễ kính xong,
Hai chân liền thu vào.
Bấy giờ, các Tỉ-kheo
bàn bạc: "Ai nên châm lửa thiêu đây?" Khi ấy, tôn giả Đại Ca Diếp nói:
- Tôi là trưởng tử của
Thế Tôn, nên để tôi châm lửa thiêu.
Thế là đại chúng đồng
thanh nói: "Tốt lắm", liền hỏa thiêu. Khi hỏa thiêu xong, Ca Diếp nhớ
lại lời nói của vị Tỉ-kheo già ở trong thôn, cho đến: "Muốn làm thì làm,
không muốn làm thì thôi", tôn giả liền nói với các Tỉ-kheo:
- Này các trưởng lão!
Vấn đề xá lợi của Thế Tôn không phải là việc của chúng ta mà quốc vương, trưởng
giả, Bà la môn, cư sĩ, những người cầu phước tự họ sẽ lo việc cúng dường. Việc
của chúng ta trước hết là phải kết tập pháp tạng chớ để pháp Phật sớm diệt.
Mọi người bàn:
- Chúng ta nên kết tập
Pháp tạng chỗ nào?
Lúc ấy, có người bàn:
"Nên đến Xá-vệ"; có người nói: "Nên đến Sa kỳ"; có người
nói: "Nên đến Chiêm Bà"; có người nói: "Nên đến Tì-xá-li ";
có người lại nói: "Nên đến Ca Duy La Vệ".
Bấy giờ, Đại Ca Diếp
liền đề nghị:
- Nên đến thành Vương
Xá kết tập pháp tạng. Vì sao thế? Vì đức
Thế Tôn đã di chúc rằng (490c): Vua A Xà Thế con bà Vi Đề Hi ở thành
Vương Xá là bậc có tín căn đệ nhất trong hàng Ưu bà tắc của các Thanh Văn. Vả lại,
vị vua ấy có 500 chiếc giường nằm để cung cấp, nên đến chỗ vị ấy.
Nghe thế, tất cả đều
đáp:
- Vâng.
Đức Thế Tôn trước kia
có dặn tôn giả A Na Luật rằng: "Khi Như Lai ban Nê Hoàn ông nên giữ gìn xá
lợi đừng để Chư Thiên đem đi. Bởi vì trong thời quá khứ đức Như Lai ban Nê
Hoàn, Chư Thiên đem xá lợi đi, khiến người đời không thể đến đó chiêm bái được,
nên mất công đức. Chư Thiên có thể đến nhân gian cúng dường, nhưng người đời
không thể đến chỗ ho, ï ngoại trừ người có thần túc; vì thế phải giữ gìn cẩn
thận".
Bấy giờ, thị giả A-nan
vì bận việc cúng dường nên không đến được. Đại Ca Diếp cùng với 1000 Tỉ-kheo đi
đến thành Vương Xá, tới trong hang núi Sát Đế, trải giường nệm, trang trí tòa
của Thế Tôn. Ở phía trước, bên trái tòa Thế Tôn đặt tòa của tôn giả
Xá-lợi-phất, ở bên phải đặt tòa của tôn giả Đại Mục Liên, kế đến đặt tòa của Đại
Ca Diếp, cứ như vậy lần lượt theo thứ tự bài trí giường nệm rồi chuẩn bị những
nhu yếu cần thiết trong bốn tháng. Vì mục đích kết tập pháp tạng cho nên cắt đứt
các ngoại duyên. Khi đại chúng tập hợp xong, trong số đó có người đạt được Tam
minh, Lục thông giới đức tự tại. Trong những người này, có người trực tiếp thọ giáo
với Thế Tôn, đọc thuộc một bộ Luật; có người theo chúng Thanh Văn đọc thuộc một
bộ Luật; có người thọ giáo trực tiếp với Thế Tôn đọc thuộc hai bộ Luật; có người
theo chúng Thanh Văn đọc thuộc hai bộ Luật. Thế rồi, đại chúng cùng bàn bạc:
- Ở trong này nên chọn
những vị đạt được Tam minh, Lục thông, có giới đức tự tại, từng thọ giáo trực
tiếp với Thế Tôn tụng thuộc hai bộ Luật, từng theo chúng Thanh Văn tụng thuộc
hai bộ Luật.
Khi chọn lựa xong, đếm
lại thì thấy thiếu hai người mới đủ số 500, đại chúng bàn tiếp:
- Nên chọn đủ 500 người.
Thế rồi, trưởng lão A
Na Luật đi đến bổ sung thêm nhưng vẫn thiếu một người. Khi ấy, tôn giả Đại ca
Diếp làm Thượng Tọa thứ nhất, Thượng Tọa thứ hai tên Na Đầu Lô, Thượng Tọa thứ
ba tên Ưu Ba Na Đầu Lô. Lúc ấy, tôn giả Đại Ca Diếp tự lên ngồi tòa của mình,
để trống tòa của tôn giả Xá-lợi-phất, Mục Liên và A Nan. Thế rồi, các Tỉ-kheo lần
lượt ngồi theo thứ tự.
Bấy giờ, tôn giả Đại Ca
Diếp bảo trưởng lão Lê Bà Đề đệ tử đồng hành của tôn giả Mục Liên:
- Ông hãy lên cõi trời
Ba mươi ba gọi Tỉ-kheo Tủy Đề Na đến, nói rằng: "Đức Thế Tôn đã Ban nê
hoàn, Tỉ-kheo Tăng đang tập họp định kết tập pháp tạng".
Thầy liền vâng lệnh, đi
đến cõi trời Ba mươi ba, bạch:
- Thưa trưởng lão! Đức
Thế Tôn đã Ban nê hoàn, Tỉ-kheo Tăng đang tập họp định kết tập pháp tạng nên
sai tôi đến gọi trưởng lão.
Vị Tỉ-kheo này nghe
xong sầu thảm, không vui, bèn hỏi:
- Đức Thế Tôn đã Ban nê
hoàn rồi sao?
- (491a) Thưa vâng.
- Nếu đức Thế Tôn còn ở
cõi Diêm phù đề thì tôi sẽ đến, nay Thế Tôn đã Ban nê hoàn thì con mắt của thế
gian đã hoại diệt.
Thầy nói xong, dùng
thần túc bay lên hư không, nhập Hỏa quang tam muội tự thiêu thân. Vị sứ giả
thấy vậy trở về, vào giữa Tăng thuật lại đầy đủ sự việc trên, cho đến đoạn: Nhập
Hỏa quang tam muội. Thế rồi, Tăng lại sai thầy lên cung Thi lợi sa sí, cõi trời
Ba mươi ba gọi Kiều Phạm Ba Đề; lần lượt đến trưởng lão Thiện Kiến ở Hương Sơn;
trưởng lão Phả Đầu Tẩy Na ở Du Hí Sơn; trưởng lão Bạt Khư Lê ở Chiêm Ba Sơn;
rồi đến trưởng lão Uất Đa La ở Tịnh Sơn; đệ tử của tôn giả Mục Liên tên Đại
Quang ở Quang Sơn; đệ tử của tôn giả Xá-lợi-phất tên Ma Tẩu Lô ở Mạn Đà Sơn;
tôn giả La Đổ ở Ma La Sơn. Các vị ấy, khi nghe gọi đều Ban nê hoàn. Đồng thời
Tăng sai sứ giả đến Thiên cung Tì Sa-môn gọi Tu Mật Đa. Sứ giả đến nơi thưa:
- Thưa trưởng lão! Đức
Thế Tôn đã Ban nê hoàn, Tỉ-kheo đang tập họp định kết tập pháp tạng, cho tôi
đến gọi trưởng lão.
Vị Tỉ-kheo ấy nghe xong
sầu thảm, không vui, nói:
- Đức Thế Tôn đã Ban nê
hoàn rồi sao?
- Thưa vâng!
- Nếu Thế Tôn còn ở cõi
Diêm phù đề thì tôi sẽ đến, nay Thế Tôn đã Ban nê hoàn tức là con mắt của thế
gian đã diệt mất.
Nói xong, thầy dùng
thần túc bay lên hư không, nhập Hỏa quang tam muội, tự thiêu thân, nhập vào
Niết-bàn. Bấy giờ, sứ giả liền trở về vào giữa Tăng thuật lại đầy đủ sự việc
trên cho chư Tăng nghe. Đại Ca Diếp liền nói:
- Này các trưởng lão!
Hãy thôi, đừng gọi những người khác nữa. Những ai nghe gọi đều tự nhập
Niết-bàn, nếu cứ gọi tiếp thì họ sẽ nhập Niết-bàn hết, như thế thì phước điền
của cõi đời này sẽ thành ra trống không.
Có một Tỉ-kheo nói:
- Thưa các trưởng lão!
Tôn giả A-nan là thị giả của Phật, từng thân cận thọ giáo. Hơn nữa đức Thế Tôn
từng phú chúc rằng A-nan có ba việc đặc biệt, nên gọi thầy đến.
Đại Ca Diếp nói:
- Không phải vậy! Nếu
như người còn đang học này vào trong chúng Vô học có giới đức tự tại thì cũng
như con chó ghẻ vào giữa bầy sư tử.
Lúc này tôn giả A-nan
sắp xếp việc cúng dường vừa xong, đi đến một thôn, rồi thầm nhủ: "Hôm nay
ta nghỉ lại đây, ngày mai sẽ đến thành Xá-vệ". Thế rồi, có một vị trời đến
nói với A-nan:
- Đại Ca Diếp nói rằng
tôn giả là con chó ghẻ.
A-nan bèn suy nghĩ:
"Đức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, chính lúc này ta cần người để nương tựa, vì
sao lại ví ta như con chó ghẻ?".
Nghĩ thế
nên lòng không vui, rồi thầy lại nghĩ: "Tôn giả Đại Ca Diếp này biết quá
rõ dòng dõi tên tuổi của ta, vì cho rằng ta chưa đoạn trừ hết kiết sử nên mới
nói như vậy".
Bấy giờ, tôn giả (491b)
A-nan càng siêng năng gấp bội đi kinh hành không biếng nhác, mong hết sạch hữu
lậu nên hành đạo cực khổ. Hơn nữa, vì Thế Tôn nê hoàn khiến thầy mang nỗi buồn
da diết trong lòng, đồng thời những gì trước đây đã nghe và thu nhận thì chưa
thấu triệt, nên lại nghĩ ngợi: "Đức Thế Tôn đã phú chúc rằng đối với giáo
pháp này tâm ta không phóng dật sẽ dứt sạch hữu lậu, vậy thì phải cực khổ quá
làm gì!". Thế nhưng tâm thầy vẫn không xả định, nghiêng mình định nằm
xuống, đầu chưa chấm gối thì sạch hết hữu lậu, đạt được Tam minh Lục thông có sức
lực tự tại. Thầy liền dùng thần túc nương theo hư không mà đi, đến ngoài cửa
hang Sát đế, đọc kệ rằng:
Đa văn và biện
tài,
Là thị giả Thế Tôn.
A-nan con Cù Đàm
Giờ đang đứng ngoài cửa.
Thế nhưng, đại chúng
vẫn chưa mở cửa cho thầy, nên thầy lại đọc kệ tiếp:
Đa văn khéo biện
tài,
Là thị giả Thế Tôn.
Đã bỏ gánh kiết sử,
Con Cù Đàm ngoài này.
Bấy giờ, Đại Ca Diếp
liền đọc kệ:
Ông nói mình đã
chứng,
Đã bỏ gánh phiền não.
Con Cù Đàm chưa vào,
Vào đi con Cù Đàm!
A-nan vào xong, đảnh lễ
tòa của Thế Tôn, rồi tuần tự đảnh lễ các Thượng tọa, đoạn, đến ngồi tòa của
mình. Khi ấy, Đại Ca Diếp nói với A-nan:
- Tôi không tự cao cũng
không khinh ông, chỉ vì ông cầu đạo không tiến bộ, muốn cho ông tinh cần diệt
hết các hữu lậu cho nên mới nói lời ấy.
- Tôi cũng biết! Chỉ vì
tôi chưa hết kiết sử, muốn cho tôi tinh cần diệt hết các hữu lậu (nên tôn giả
mới nói như vậy).
Lúc ấy, tôn giả Đại Ca
Diếp liền hỏi chúng Tăng đang ngồi:
- Giờ đây nên kết tập
tạng nào trước?
- Nên kết tập tạng Pháp
(Kinh) trước.
- Nên cử ai kết tập?
- Nên cử trưởng lão A
Nan.
A-nan liền nói:
- Không nên làm như vậy
vì còn có nhiều trưởng lão Tỉ-kheo khác.
Đại chúng lại nói:
- Tuy có nhiều trưởng
lão Tỉ-kheo khác nhưng đức Thế Tôn đã phú chúc rằng thầy là người đa văn bậc
nhất, do đó thầy nên kết tập.
- Nếu các trưởng lão đề
cử tôi kết tập thì điều gì như pháp nên hoan hỷ, điều gì không như pháp nên
ngăn cản, điều gì không tương ưng cũng nên ngăn cản chứ đừng vì tôn trọng tôi
mà không ngăn cản. Nói chung, điều gì đúng nghĩa, điều gì không đúng nghĩa đều
xin chỉ giáo.
- Trưởng lão A-nan!
Thầy chỉ cần kết tập Pháp tạng, điều gì như pháp thì Tăng tùy hỉ, điều gì phi
pháp (491c) thì đến lúc đó sẽ biết.
Lúc ấy, tôn giả A-nan
bèn suy nghĩ: "Bây giờ ta phải kết tập pháp tạng như thế nào đây?"
Suy nghĩ thế rồi, thầy liền đọc lời Kinh:
"Tôi nghe
như vầy, một thời Phật ở tại Uất Tì La, bên dòng sông Ni Liên, nơi Bồ đề Mạn Đà
La". Khi tôn
giả A-nan vừa nói lời ấy thì 500 vị A la hán có đức hạnh tự tại liền bay lên hư
không đồng thanh khen ngợi:
- Chúng con đã được tận
mắt thấy Thế Tôn, giờ đây lại được nghe lời dạy, rồi cùng niệm: "Nam mô
Phật", đoạn trở lại chỗ ngồi.
Bây giờ, A-nan liền đọc
kệ sau đây:
Siêng tu tập thiền
định,
Thấy các pháp sinh diệt.
Biết pháp từ duyên khởi,
Lìa si, diệt phiền não.
Siêng tu tập thiền
định,
Thấy các pháp sinh diệt.
Biết pháp từ duyên khởi,
Chứng các pháp diệt tận.
Siêng tu tập thiền
định,
Thấy các pháp sinh diệt.
Biết pháp từ duyên khởi,
Nhiếp phục bọn ma quân.
Siêng tu tập thiền
định,
Thấy các pháp sinh diệt.
Biết pháp từ duyên khởi
Ánh dương xua bóng đêm.
Tôn giả A-nan đọc tất
cả pháp tạng như vậy. Những câu văn dài kết tập thành Trường A Hàm. Những câu
văn trung bình kết tập thành Trung A Hàm. Những câu văn linh tinh kết tập thành
Tạp A Hàm, chẳng hạn như Căn tạp, lực tạp, giáp tạp, đạo tạp, đại loại như thế
gọi là tạp. Từ một tăng lên hai, tăng lên ba cho đến tăng lên 100, tùy theo số loại
tương tự nhau kết tập thành Tăng Nhất A Hàm. Tạp tạng bao gồm Bích Chi Phật, A
La Hán, tự thuyết, bản hạnh, nhân duyên, các kệ tụng, đại loại như vậy gọi là
Tạp tạng.
Khi ấy, trưởng lão
A-nan liền đọc kệ:
- Đây chính là tám vạn
pháp tạng,
Các pháp này được nghe từ Phật.
Đây chính là tám vạn pháp tạng,
Các pháp này nghe từ người khác.
Các pháp này tôi giữ vẹn toàn,
Chính Phật dạy đường đến Niết-bàn.
Đó gọi là kết tập Pháp tạng.
Tiếp đến, đại chúng hỏi:
- Ai có thể kết tập
Luật tạng?
Có người nói:
- Trưởng lão Ưu-ba-li.
Ưu-ba-li liền lên tiếng:
- Không thể như vậy vì
còn có những trưởng lão Tỉ-kheo khác.
Có người lại nói:
- Tuy có những trưởng
lão Tỉ-kheo khác nhưng đức Thế Tôn đã phú chúc rằng trưởng lão thành tựu 14
pháp, trừ (492a) đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ra thì trưởng lão là người
trì Luật bậc nhất.
Ưu-ba-li nói:
- Thưa các trưởng lão!
Nếu bảo tôi kết tập Luật tạng thì điều gì như pháp hãy tùy hỷ, điều gì không
như pháp hãy ngăn cản; nếu điều gì không tương ưng thì nên ngăn cản chứ đừng vì
tôn trọng tôi (mà bỏ qua); đồng thời điều nào đúng nghĩa, trái nghĩa cũng đều
xin chỉ giáo.
Thế rồi, tất cả đều nói:
- Trưởng lão Ưu-ba-li
chỉ lo việc kết tập, điều gì như pháp thì chúng tôi tùy hỷ, điều gì phi pháp
thì lúc đó sẽ biết.
Tôn giả Ưu-ba-li suy nghĩ:
"Hôm nay ta kết tập Luật tạng như thế nào đây? Đối với 5 pháp thanh tịnh
mà như pháp, như Luật thì tùy hỷ, còn không như pháp như Luật thì nên bỏ ra
ngoài. 5 pháp thanh tịnh:
1- Hạn chế tịnh.
2- Phương pháp tịnh.
3- Giới hạnh tịnh.
4- Trưởng lão tịnh.
5- Phong tục tịnh.
1- Hạn chế tịnh: Tại trú xứ của các Tỉ-kheo đặt ra các hạn chế rằng điều
gì tương ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, không tương ưng thì bỏ. Đó gọi là
hạn chế tịnh.
2- Phương pháp tịnh: Đối với những luật pháp của quốc gia, điều gì tương ưng
với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, không tương ưng thì bỏ. Đó gọi là phương pháp
tịnh.
3- Giới hạnh tịnh: Khi ta thấy Tỉ-kheo mỗ giáp trì giới làm việc đó mà
tương ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, nếu không tương ưng thì bỏ. Đó gọi
là giới hạnh tịnh.
4- Trưởng lão tịnh: Nếu ta thấy trưởng lão Tỉ-kheo, tôn giả Xá-lợi-phất, Mục
Liên làm việc đó mà tương ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, không tương ưng
thì bỏ. Đó gọi là trưởng lão tịnh.
5- Phong tục tịnh: Không được làm những việc như khi còn thế tục, chẳng hạn
ăn phi thời, uống rượu, hành dâm; tất cả những việc như vậy hợp pháp đối với
thế tục nhưng không hợp pháp đối với người xuất gia. Đó gọi là phong tục tịnh.
Thưa các trưởng lão!
Những điều như thế nếu đúng pháp thì xin tùy hỷ, nếu không đúng pháp thì xin
lên tiếng.
Bấy giờ, các Tỉ-kheo
liền đáp:
- Nếu tương ưng thì
dùng, nếu không tương ưng thì lúc ấy sẽ ngăn cản.
Thế rồi, tôn giả
Ưu-ba-li nói với A-nan:
- Trưởng lão có tội,
phải sám hối với chúng Tăng thanh tịnh.
- Tôi có những tội gì?
- Đức Thế Tôn đến ba
lần chế định không cho phép độ người nữ xuất gia mà thầy xin Thế Tôn đến ba
lần, thế là phạm tội Việt tỳ ni.
Khi ấy, tôn giả Đại Ca
Diếp bèn ném một cái thẻ xuống đất, nói:
- Đây là thẻ thứ nhất.
Tức thì chấn động cả
tam thiên đại thiên thế giới.
Lại nữa, khi Phật an
trú tại Tì-xá-li, Ngài nói:
"Này A-nan! Ta ở
Ban Lạc phóng cung trượng tháp tại Tỳ Xá Li này rất an lạc; nếu ai được bốn
thần túc thì có thể kéo dài mạng sống đến một kiếp, hoặc hơn một kiếp; nếu Phật
ở đời thì người đời sẽ được thấy", thì thầy nói: "Như vậy đó Thế Tôn!
Như vậy đó Tu Già Đà", mà không thỉnh Phật trụ thế nên phạm tội Việt tỳ
ni. Tiếp tục ném thẻ thứ hai.
Lại nữa, khi may y Tăng
già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng ngón chân phải đạp trên y, (492b) há thầy
không biết rằng y Tăng già lê này là bảo tháp mà Chư Thiên, người đời nên cúng dường
hay sao? Vì thế phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục ném thẻ thứ ba.
Lại nữa, Phật nói:
"Này A-nan! Hãy đi lấy nước", nói như vậy đến ba lần mà thầy không
lấy nước cho Thế Tôn, nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục bỏ xuống thẻ thứ tư.
Lại nữa, Phật nói:
"A Nan, khi Ta sắp nhập Niết-bàn nên nói với Ta, Ta sẽ vì các Tỉ-kheo bỏ
những giới vi tế", nhưng thầy không bạch nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục
bỏ xuống thẻ thứ năm.
Lại nữa, khi Phật ban
nê hoàn, thầy để mã âm tàng của Phật cho Tỉ-kheo ni xem, nên phạm tội Việt tỳ
ni. Tiếp tục bỏ xuống thẻ thứ sáu.
Lại nữa, khi Phật ban
nê hoàn, các lão mẫu của lực sĩ đến khóc khiến nước mắt nhỏ trên chân Thế Tôn,
thầy là thị giả mà không ngăn cản nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục bỏ xuống
thẻ thứ bảy.
Lúc ấy, A-nan không
nhận hai tội, nói như sau:
- Thưa trưởng lão! Chư
Phật quá khứ đều có bốn chúng, vì thế tôi thỉnh Phật độ Tỉ-kheo ni đến ba lần.
Còn khi Phật ở Tì-xá-li, ba lần báo cho biết mà tôi không thỉnh Phật trụ thế là
vì lúc ấy tôi là người còn đang học, bị ma che mờ cho nên không thỉnh. Ở đây
tôi chỉ phạm 5 tội Việt tỳ ni.
Thế rồi, trưởng lão
(sám hối) đúng như pháp.
Bấy giờ, tôn giả
Ưu-ba-li liền bạch với đại chúng:
- Thưa các trưởng lão!
Đây là thứ tự của 9 pháp:
1- Ba la di.
2- Tăng già bà thi sa.
3- Hai pháp Bất định.
4- Ba mươi pháp Ni tát kỳ.
5- Chín mươi hai pháp Ba-dạ-đề.
6- Bốn Ba la đề đề xá ni.
7- Pháp chúng học.
8- Bảy pháp Diệt tránh.
9- Pháp tùy thuận.
Đức Thế Tôn tại mỗ xứ
vì Tỉ-kheo mỗ giáp, chế những giới này phải không?
Bấy giờ, đại chúng cùng
đáp:
- Đúng như vậy
Ưu-ba-li! Đúng như vậy Ưu-ba-li.
Ưu-ba-li tiếp:
- Trong Luật có ghi lại
5 việc sau đây:
1- Tu đa la.
2- Tì ni.
3- Nghĩa.
4- Giáo.
5- Khinh trọng.
1- Tu đa la: chỉ cho 5 bộ Kinh.
2- Tì ni: Tức hai bộ Luật rộng và hẹp.
3- Nghĩa: Ý nghĩa của từng câu.
4- Giáo: Bốn giáo lý cơ bản mà đức Thế Tôn đã thuyết giảng cho Sát
lợi, Bà la môn và cư sĩ.
5- Khinh trọng: Lấy trộm đủ 5 tiền là nặng, dưới 5 tiền là nhẹ, phạm tội
Thâu lan giá.
Đó gọi là 5 việc mà
Luật đã ghi lại. Các trưởng lão nên học như vậy.
Lại có năm điều luật
nữa là:
1- Lược Tì ni.
2- Quảng Tì ni.
3- Phương diện Tì ni.
4- Kiên cố Tì ni.
5- Ứng pháp Tì ni.
1- Lược Tì ni: Tức 5 thiên giới.
2- Quảng Tì ni: Tức 2 bộ Luật.
3- Phương diện Tì
ni: Tại Thâu nô (492c) biên địa cho phép
5 thầy được truyền giới Tỉ-kheo.
4- Kiên cố Tì ni: Khi thọ y Ca hi na được bỏ 5 việc, từ biệt chúng thực cho
đến khi đi đâu không cần thưa với người cùng ăn chung với mình.
5- Ứng pháp Tì ni: Trong đây Yết-ma đúng pháp và Yết-ma hòa hợp, đó gọi là
làm đúng giới luật. Còn những cách khác là phi Yết-ma (Yết-ma phi pháp).
Thưa các trưởng lão,
đến đây là kết tập Luật tạng hoàn tất.
Thế rồi, đại chúng bèn
gọi 1.000 Tỉ-kheo ở ngoài vào, nói:
- Thưa các trưởng lão!
Như thế này là Tạng pháp (Kinh) đã được kết tập, như thế này là tạng Luật đã
được kết tập.
Lúc ấy, có Tỉ-kheo nói:
- Thưa các trưởng lão!
Đức Thế Tôn trước kia đã nói với A-nan rằng Ngài muốn vì các Tỉ-kheo bỏ bớt một
số giới nhỏ nhặt, vậy bỏ những giới nào?
Có Tỉ-kheo nói:
- Nếu đức Thế Tôn muốn
bỏ bớt các giới nhỏ nhặt thì nên bỏ oai nghi.
Có Tỉ-kheo nói:
- Không những bỏ oai
nghi mà nên bỏ pháp Chúng học.
Có Tỉ-kheo nói:
- Cũng nên bỏ luôn cả 4
Ba la đề đề xá ni.
Có Tỉ-kheo nói:
- Cũng nên bỏ luôn cả
92 pháp Ba-dạ-đề.
Có Tỉ-kheo nói:
- Cũng nên bỏ luôn cả
30 pháp Ni tát kì Ba-dạ-đề.
Có Tỉ-kheo nói:
- Cũng nên bỏ luôn cả 2
pháp Bất định.
Khi ấy, nhóm sáu
Tỉ-kheo liền nói:
- Thưa các trưởng lão!
Nếu như Thế Tôn còn tại thế thì nên bỏ hết tất cả.
Đại Ca Diếp oai nghi
nghiêm chỉnh giống như Thế Tôn, liền nói như sau:
- Ôi! Ôi! Đừng nói lời
ấy.
Tức thời tất cả đại
chúng đều im lặng. Đại Ca Diếp liền tiếp:
- Này các trưởng lão!
Nếu đã chế định rồi lại mở ra thì sẽ khiến cho người ngoài nói: "Khi Cù
Đàm còn ở đời nghi pháp hưng thịnh, ngày nay đã Nê hoàn, giáo pháp suy
đồi". Thưa các trưởng lão! Những gì chưa chế thì đừng chế thêm nữa, những
gì đã chế thì chúng ta nên tùy thuận học tập.
- Thế nhưng các pháp
này được nghe từ ai?
- Được nghe từ tôn giả
Đạo Lực về Luật, Luận, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A hàm, Trung A Hàm, Trường A Hàm.
- Thế thì Đạo Lực nghe
từ ai?
- Nghe từ tôn giả Phất
Sa Bà Đà La.
- Tôn giả Phất Sa Bà Đà
La nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Pháp
Thắng.
- Pháp Thắng nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Tăng
Già Đề Bà.
- Tăng Già Đề Bà nghe
từ ai?
- Nghe từ tôn giả Long
Giác.
- Long Giác nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Pháp
Tiền.
- Pháp Tiền nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Đề Na
Già.
- Đề Na Già nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Pháp
Hộ.
- Pháp Hộ nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Kỳ Bà
Già.
- Kỳ Bà Già nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Phất
Đề La.
- Phất Đề La nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Da Xá.
- Da Xá nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Sai
Đà.
- Sai Đà nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Hộ
Mạng.
- Hộ Mạng nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Thiện
Hộ.
- Thiện Hộ nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả
(493a) Ngưu Hộ.
- Ngưu Hộ nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Cự Xá
La.
- Cự Xá La nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Ma
Cầu Đa.
- Ma Cầu Đa nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Ma Ha
Na.
- Ma Ha Na nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Năng
Hộ.
- Năng Hộ nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Mục Đa.
- Mục Đa nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Cự Hê.
- Cự Hê nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Pháp
Cao.
- Pháp Cao nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Căn
Hộ.
- Căn Hộ nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Kỳ Đa.
- Kỳ Đa nghe từ ai?
- Nghe từ tôn giả Thọ
Đề Đà Bà.
- Thọ Đề Đà Bà nghe từ
ai?
- Nghe từ tôn giả Đà Bà
Ba La.
- Đà Bà Ba La nghe từ
ai?
- Nghe từ tôn giả
Ưu-ba-li.
- Ưu-ba-li nghe từ ai?
- Nghe từ Phật.
- Phật nghe từ ai?
- Ngài tự giác ngộ
không có thầy, cũng không nghe từ ai cả. Phật có vô lượng trí tuệ, vì lợi ích
cho chúng sinh nên Ngài trao truyền cho Ưu-ba-li. Ưu-ba-li trao cho Đà Bà Ba
La. Đà Bà Ba La trao cho Thọ Đề Đà Bà. Thọ Đề Đà Bà lần lượt trao xuống tôn giả
Đạo Lực, rồi Đạo Lực trao cho tôi và những người khác.
Kệ tóm tắt:
"Chúng ta nhờ
thầy dạy,
Nghe từ Đấng Vô Thượng.
Giữ gìn đọc tụng Luật.
Pháp Hiền Thánh tuân hành.
Pháp tạng của Thế Tôn,
Kế thừa sau Thích Ca.
Mỗi người phải tuân thủ,
Để chánh pháp còn mãi".
Đó gọi là 500 Tỉ-kheo
kết tập pháp tạng.
LUẬT MA
HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ ba mươi hai.